Xem mẫu

  1. THƯ VIỆN NGÀNH NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN HƯỚNG TỚI CHUYỂN ĐỔI SỐ Vũ Thúy Hậu, Trưởng phòng - Email: vuthuyhau@mard.gov.vn Trung tâm Tin học và Thống kê-Bộ Nông nghiệp và PTNT Tóm tắt: Trên cơ sở xem xét cách tiếp cận về chuyển đổi số, đồng thời phân tích đánh giá thực trạng hoạt động thư viện ngành Nông nghiệp và PTNT, tác giả cho rằng Thư viện Bộ (đại diện cho ngành Nông nghiệp và PTNT) đã đạt được một số kết quả nhất định trong quá trình triển khai thực hiện nhiệm vụ của mình phù hợp với xu hướng chuyển đổi số. Qua đó, nêu những khuyến nghị chính sách thúc đẩy nhanh quá trình chuyển đổi số trong tương lai. Từ khóa: chuyển đổi số, thư viện ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn Mở đầu Chuyển đổi số đã trở thành là một trong những mục tiêu được quan tâm hàng đầu tại Việt Nam trong cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Nghị quyết 52 của Bộ Chính trị đã định hướng cho chuyển đổi số Việt Nam. Tinh thần của Nghị quyết là đặt mục tiêu cao, nhất là mục tiêu kinh tế số chiếm tới 30% GDP, để từ đó phải đổi mới tư duy, tạo thuận lợi cho cái mới phát triển, giải pháp phải đột phá. Đây được xem là cách thức để Việt Nam tăng tốc, bứt phá, phát triển về chính trị, kinh tế, giáo dục, văn hóa, xã hội... Thời gian qua, Đảng và Nhà nước ta đã lãnh đạo, chỉ đạo các cấp, các ngành đẩy mạnh ứng dụng, phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, nghiên cứu nắm bắt, nâng cao năng lực tiếp cận và chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư nhằm tận dụng một cách triệt để sức mạng lan tỏa của số hóa và công nghệ thông tin. Thủ tướng Chính phủ đã ban hành chỉ thị về nâng cao năng lực tiếp cận cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và phê duyệt Đề án thúc đẩy mô hình kinh tế chia sẻ. Trên cơ sở đó, các bộ, ngành và địa phương đã xây dựng và triển khai thực hiện một số chính sách nhằm thúc đẩy phát triển ngành công nghiệp công nghệ thông tin, điện tử-viễn thông. Cơ sở hạ tầng viễn thông được xây dựng khá đồng bộ. 1. Chuyển đổi số tác động đến hoạt động của các thư viện Chuyển đổi số đã diễn ra nhiều năm qua, nhưng chỉ khi xuất hiện các công nghệ của Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 thì chuyển đổi số mới thực sự tăng tốc. Chuyển đổi số để tiến tới kinh tế số và xã hội số, và chỉ khi đó mới là môi trường tốt nhất cho đổi mới sáng tạo. Nói đến chuyển đổi số là nói đến một môi trường mới trong cuộc sống của nhân loại-môi trường số, hay còn gọi là môi trường không gian mạng. Chuyển đổi số sẽ hình thành các mối quan hệ mới. Và đây mới là thách thức lớn nhất 148
  2. của chuyển đổi số. Nhưng cũng chính những mối quan hệ mới này, những mô hình kinh tế mới này mới phát huy hiệu quả của chuyển đổi số. Trên thế giới, khái niệm chuyển đổi số đã được nhắc đến như một xu hướng tương lai không thể khác. Trong khi đó thời gian gần đây chuyển đổi số cũng đã bắt đầu được nhắc đến, mặc dù vậy vẫn đang có những hiểu nhầm về khái niệm này hoặc chưa hình dung ra hết mức độ bao trùm của khái niệm. Hiện chưa có một một định nghĩa rõ ràng và cụ thể về chuyển đổi số, bởi vì quá trình áp dụng chuyển đổi số sẽ có sự khác biệt ở từng lĩnh vực khác nhau. Theo định nghĩa trên Wikipedia, "Chuyển đổi số" không chỉ là công nghệ kỹ thuật số, mà là bước chuyển đổi mà công nghệ số giúp cho mọi người giải quyết những vấn đề truyền thống; khi đó mọi người thường ưu tiên giải pháp số thay vì giải pháp truyền thống. Ở cấp độ chuyển đổi này thì ứng dụng số sẽ mở ra những dạng thức đổi mới và sáng tạo trong cả một lĩnh vực thay vì chỉ nâng cấp và hỗ trợ những phương pháp truyền thống. Theo nghĩa hẹp, chuyển đổi số có thể hình dung bằng khái niệm “văn phòng không giấy tờ”. Mặt khác, "Chuyển đổi số" cũng có thể được định nghĩa là tác động xã hội toàn diện và tổng thể của quá trình số hóa. Bước chuyển công nghệ kỹ thuật số, quá trình số hóa và tác động chuyển đổi số có khả năng tăng tốc và dẫn lối cho quá trình chuyển đổi xã hội toàn cầu. Theo định nghĩa này thì Internet vạn vật (IoT), Dữ liệu lớn (Big Data), hay khái niệm Cách mạng công nghiệp 4.0 vẫn còn nằm trong cấp độ số hóa; còn chuyển đổi số là cấp độ cao hơn một bậc, giống như một pha hoàn thiện của số hóa. Gartner-công ty nghiên cứu và tư vấn công nghệ thông tin hàng đầu thế giới đưa ra định nghĩa về chuyển đổi số như sau: “Chuyển đổi số là việc sử dụng các công nghệ số để thay đổi mô hình kinh doanh, tạo ra những cơ hội, doanh thu và giá trị mới” Microsoft cho rằng chuyển đổi số là việc tư duy lại cách thức các tổ chức tập hợp mọi người, dữ liệu và quy trình để tạo những giá trị mới. Tại Việt Nam, chuyển đổi số được hiểu theo nghĩa là quá trình thay đổi từ mô hình truyền thống sang doanh nghiệp số bằng cách áp dụng công nghệ mới như dữ liệu lớn (Big Data), Internet vạn vật (IoT), điện toán đám mây (Cloud)… thay đổi phương thức điều hành, lãnh đạo, quy trình làm việc, văn hóa công ty. Như vậy, định nghĩa về chuyển đổi số chưa có chuẩn hóa, nhiều tổ chức, doanh nghiệp có các định nghĩa của riêng mình, nhưng trên một góc nhìn tổng quát: “chuyển đổi số (Digtal Transformaiton) là việc sử dụng dữ liệu và công nghệ số để thay đổi một cách tổng thể và toàn diện tất cả các khía cạnh của đời sống kinh tế-xã hội, tái định hình cách chúng ta sống, làm việc và liên hệ với nhau” (Trích dự thảo đề án chuyển đổi số quốc gia). Trong dự thảo cũng chỉ rõ, chuyển đổi số quốc gia bao gồm chuyển đổi số chính phủ, chuyển đổi số doanh nghiệp và chuyển đổi số xã hội. Để chuyển đổi 149
  3. số, Việt Nam có thể chọn chiến lược 3 bước. Bước một là đẩy nhanh việc số hoá và ứng dụng CNTT trong các lĩnh vực. Bước hai, sẽ sử dụng chuyển số như một lợi thế cạnh tranh trong từng lĩnh vực. Với bước ba, tiến tới nền kinh tế số toàn diện, hình thành các ngành công nghiệp số thế hệ mới, các ngành công nghiệp mới này sẽ là động lực tăng trưởng cho nền kinh tế. Nội dung chuyển đổi số phụ thuộc vào chiến lược phát triển kinh tế-xã hội và chia thành nhiều giai đoạn khác nhau, nhưng nhìn chung đều hướng đến các nội dung chính là chuyển đổi số nền kinh tế, chuyển đổi xã hội, chuyển đổi số một số ngành trọng điểm, chuyển đổi số trong các cơ quan Chính phủ. Và thực hiện chuyển đổi số trên lĩnh vực nào đi nữa cũng cần xác định các yếu tố nền tảng bảo đảm bao gồm: phát triển hạ tầng số (phát triển mạng di động thế hệ mới, kết nối cáp quang đến các gia đình, doanh nghiệp, cung cấp wifi miễn phí tại khu vực công cộng, phát triển điện toán đám mây-cloud computing, Hạ tầng IoT, BigData,..); phát triển lực lượng lao động có kỹ năng số (digitlal skill); đẩy mạnh công tác nghiên cứu công nghệ số mới; và xây dựng môi trường pháp lý để đảm bảo môi trường an toàn, tin cậy thúc đẩy chuyển đổi số. Chuyển đổi số” có thể dễ bị nhầm lẫn với khái niệm “Số hóa” (Digitizing). Để phân biệt hai khái niệm này, có thể hiểu rằng “Số hóa” là quá trình hiện đại hóa, chuyển đổi các hệ thống thường sang hệ thống kỹ thuật số (chẳng hạn như chuyển từ tài liệu dạng giấy sang các file mềm trên máy tính, số hóa truyền hình chuyển từ phát sóng analog sang phát sóng kỹ thuật số...); trong khi đó, “Chuyển đổi số” là khai thác các dữ liệu có được từ quá trình số hóa, rồi áp dụng các công nghệ để phân tích, biến đổi các dữ liệu đó và tạo ra các giá trị mới hơn. Có thể xem “Số hóa” như một phần của quá trình “Chuyển đổi số”. Chuyển đổi số là một cuộc cách mạng về chính sách và thể chế nhiều hơn là một cuộc cách mạng về công nghệ. Chuyển đổi số mở ra cơ hội lớn cho Việt Nam. Đây là một sự thay đổi mang tính toàn diện, đến từng doanh nghiệp, từng tổ chức, đến từng người dân, đến mọi lĩnh vực. Việt Nam bắt đầu cuộc cách mạng “Chuyển đổi số” mạnh mẽ, kiến tạo nên: Chính phủ số, Doanh nghiệp số, Thư viện số, Xã hội số… Hiện nay hầu hết hệ thống các thư viện đã và đang xây dựng, tổ chức hoặc phát triển nhanh thư viện số nhằm tổ chức, tạo lập, quản trị, phổ biến tài nguyên số, đáp ứng nhu cầu của người dùng tin và xã hội. Về bản chất, chức năng và nhiệm vụ của thư viện chính là tổ chức điển hình về quản trị tri thức ở các dạng như: sách, báo, tạp chí, kết quả nghiên cứu, bản đồ, truyện, tiểu thuyết, âm thanh, nhạc, hình ảnh, phim, tài liệu cổ, văn bia… Khi chuyển từ thư viện truyền thống sang thư viện số, mọi hoạt động của thư viện số được vận hành trên nền tảng công nghệ số như: thu thập-bổ sung tri thức số; phân loại-xử lý-tổ chức tri thức số, trình bày tri thức số; các sản phẩm-dịch vụ tri thức số… phục vụ cho nhu cầu đọc. 150
  4. Thư viện số xây dựng và phát triển để phục vụ nhiều đối tượng người dùng tin đặc thù và có những kho tài nguyên dữ liệu số được bổ sung, lưu giữ và phục vụ phù hợp với nhu cầu của người dùng tin. Chính những ứng dụng công nghệ số này đã cung cấp tri thức số cho người dùng tin ở bất cứ lúc nào, bất cứ nơi nào, không phụ thuộc vào giới hạn không gian-thời gian chỉ cần thông qua kết nối mạng Internet. Với cách tiếp cận quản trị dữ liệu trong thư viện số theo chức năng, nhiệm vụ tìm kiếm, thu nhận, lưu trữ, quản trị, tổ chức, phổ biến dữ liệu/ thông tin của nhân loại, trong bối cảnh toàn cầu hóa, kinh tế tri thức và cách mạng công nghiệp 4.0, thư viện số/thư viện thông minh sẽ được xem như một Trung tâm Dữ liệu lớn với với ba thành tố chính Dữ liệu/dữ liệu số-Công nghệ-Con người. Dữ liệu/dữ liệu số Dữ liệu/dữ liệu số là tài nguyên thông tin trong thư viện ngoài sách báo, tài liệu khác (thư viện truyền thống) còn có học liệu số, bài giảng số, sách số, tạp chí số, các cơ sở dữ liệu, phát minh sách chế, kết quả nghiên cứu khoa học thậm trí là các di sản văn hóa… Đây là yếu tố quan trọng trong thư viện số vì người dùng tìm đến với thư viện là để đọc, khám phá tri thức, sáng tạo tri thức mới, nảy sinh các ý tưởng khoa học-phát minh-sáng chế… Thư viện số hoàn hảo phải là Trung tâm Tri thức, Trung tâm Dữ liệu lớn, nơi bạn đọc /người dùng tin có thể tìm kiếm, truy xuất và đọc được toàn bộ kho tri thức vô tận của nhân loại mà không bị giới hạn về không gian và thời gian. Các dữ liệu/dữ liệu số đã được xây dựng, tạo lập, liên thông, liên kết, chia sẻ tài nguyên thông tin dưới dạng các cơ sở dữ liệu (CSDL). Đó là các CSDL mở giữa các hệ thống thư viện trong nước và toàn cầu; kết nối, chia sẻ giữa hệ thống CSDL của thư viện với các CSDL mở quốc gia/ ngành, địa phương, hoặc khu vực tạo nền tảng để thư viện trở thành Trung tâm Tri thức và Trung tâm Dữ liệu lớn. Đồng thời góp phần cho người dân/người dùng tin được tiếp cận dữ liệu/thông tin/ tri thức chính thống, chất lượng Hạ tầng công nghệ số Hạ tầng công nghệ số đóng vai trò nền tảng, “xương sống” trong chu trình quản lý dữ liệu/dữ liệu số. Hệ thống công nghệ trong thư viện có quy mô, đặc điểm khác so với doanh nghiệp/tổ chức. Hạ tầng công nghệ trong thư viện không chỉ phục vụ quản trị dữ liệu/dữ liệu số tổ chức/thư viện đơn thuần mà hệ thống công nghệ thư viện số còn lưu trữ, quản trị, phân phối nguồn tài nguyên thông tin tư liệu khổng lồ của nhân loại. Hệ thống công nghệ quản trị tri thức thư viện số bao gồm: -Hạ tầng phần cứng, hệ thống mạng; hệ thống lưu trữ đám mây Cloud để lưu trữ dữ liệu số, kết nối/chia sẻ, truy cập, khai thác, tìm kiếm dữ liệu số/thông tin số và tri thức số. 151
  5. -Hạ tầng phần mềm: + Quản trị thư viện tích hợp (ILS), phần mềm nền tảng dịch vụ thư viện (LSP); Phần mềm quản trị thư viện số/tài nguyên số; Phần mềm các dịch vụ thư viện số. + Dịch vụ tìm kiếm tập trung (Web scale discovery, services-WSD)/hệ thống tìm kiếm và khám phá tri thức được hiểu là máy tìm kiếm (search engines) cho phép người dùng tìm kiếm không chỉ đơn thuần là các yếu tố thư mục như: nhan đề sách, tạp chí hay video, tác giả, nơi xuất bản, năm xuất bản,… mà còn giúp người dùng tìm kiếm sâu trong từng nội dung của bài tạp chí, từng chương trong môt cuốn sách và nhiều hơn thế nữa. Nhân lực thư viện số Nhân lực thư viện số bao gồm: chuyên gia thư viện số, người dùng tin/bạn đọc. Thư viện số cần phải có chuyên gia thư viện số thiết kế, tạo lập, xây dựng, vận hành và phát triển thư viện số. Họ là những chuyên gia về công nghệ số; chuyên gia thông tin; quản trị thông tin-tri thức; chuyên gia chăm sóc khách khàng sử dụng sản phẩm-dịch vụ thông tin… Họ chính là “linh hồn” của thư viện số và đòi hỏi họ phải luôn được cập nhật, được đào tạo các kiến thức mới nhất-hiện đại nhất về thư viện số để vận hành và phát triển thư viện số. Thư viện số được xây dựng và phát triển để phục vụ cho người dùng tin/bạn đọc. Người dùng tin là tổ chức/doanh nghiệp hoặc cá nhân (người dân); họ có quyền được tiếp cận, cung cấp dữ liệu, thông tin và tri thức… Số lượng người truy cập thư viện số phản ánh chất lượng các sản phẩm và dịch vụ thư viện số, thực hiện thỏa mãn tối đa nhu cầu tin-người dùng tin và tăng khả năng dễ dàng tiếp cận sử dụng thư viện, đồng thời được đọc/tiếp cận mọi loại hình tài nguyên số của thư viện và có thể kết nối được với tri thức số của nhân loại thông qua kho Dữ liệu lớn của thư viện số… Người dùng tin/bạn đọc chính là thước đo đánh giá chất lượng phục vụ của thư viện số. Lấy hiệu quả phục vụ người dùng tin cũng chính là mục tiêu phấn đấu của thư viện số trong cộng đồng thư viện trên thế giới hiện nay. Hơn nữa, thư viện số cũng là không gian kết nối tri thức-thúc đẩy cảm hứng sáng tạo, nảy sinh ý tưởng khoa học, phát minh-sáng chế liên tục, linh hoạt, tiện nghi cho người dùng tin ở bất cứ đâu trên thế giới và ở bất kỳ thời gian nào, chỉ cần thông qua kết nối mạng và thiết bị truy cập thư viện số… 2.Thư viện ngành Nông nghiêp và phát triển nông thôn (PTNT) hướng tới chuyển đổi số Thư viện ngành Nông nghiệp và PTNT quan tâm số hóa nguồn tư liệu từ năm 2005 và tìm hiểu các công cụ khai thác nguồn dữ liệu số phục vụ nhu cầu phát triển, quản lý, nghiên cứu khoa học công nghệ (KHCN) của ngành. Với nhiệm vụ là đầu mối thu nhận các kết quả nhiệm vụ nghiên cứu KHCN ngành nông nghiêp và PTNT, thư viện Bộ là đơn vị đầu tiên triển khai công tác số hóa và phát triển nguồn lực thông tin 152
  6. số cho các công trình nghiên cứu KHCN ngành. Đồng thời tổ chức xây dựng các cơ sở dữ liệu toàn văn phục vụ công tác tra cứu thông tin khoa học công nghệ ngành một cách nhanh chóng, chính xác và kịp thời tránh tình trạng trùng lặp trong nghiên cứu và tạo đà phát triển những nghiên cứu mới. Sau đó vài năm, các đơn vị thuộc mạng lưới thư viện ngành Nông nghiệp và PTNT đã tiếp tục triển khai công tác số hóa và tổ chức quản lý các nhiệm vụ KHCN của đơn vị trên các cơ sở dữ liệu riêng nhưng không thực hiện đồng đều. Có đơn vị đã tiến hành số hóa dữ liệu, có đơn vị chỉ quản lý và tổ chức các file toàn văn, có đơn vị chưa tiến hành số hóa cũng như quản lý các dữ liệu số. Có đơn vị đã ứng dụng phần mềm trong tổ chức và khai thác các dữ liệu số, có đơn vị chưa biết đến phần mềm thư viện số. Có đơn vị đã được đầu tư máy móc mới, trang thiết bị công nghệ thông tin hiện đại và kinh phí phục vụ công tác duy trì và phát triển thư viện (bao gồm cả thư viện số) đáp ứng nhu cầu của người sử dụng. Bên cạnh đó lại có đơn vị chỉ trông vào nguồn kinh phí được cấp cho đề tài, dự án để phát triển hoạt động thông tin tư liệu KHCN ngành. Từ năm 2015, toàn mạng lưới thư viện ngành bắt đầu triển khai đến việc số hóa và tổ chức quản lý cơ sở dữ liệu công bố KHCN ngành Nông nghiệp và PTNT. Theo số liệu thống kê nhu cầu tin KHCN ngành Nông nghiêp và PTNT, cơ sở dữ liệu số của toàn ngành nông nghiệp được thống kê trong năm 2018 là 51.437 tài liệu điện tử, năm 2019 là 52.900 tài liệu điện tử. Hạ tầng công nghệ thông tin ứng dụng cho thư viện ngành Nông nghiệp và PTNT khác nhau. Đơn vị được quan tâm đầu tư và phát triển là thư viện Bộ. Trong thời gian qua, thư viện Bộ đã có những ứng dụng chuyển đổi số mạnh mẽ từ quản trị biên mục đọc máy (CDS/ISIS, Winisis); tự động hóa quá trình nghiệp vụ thư viện (Libol, ILIB, VLIB). Thống kê tài liệu số tại thư viện Bộ nông nghiệp và PTNT có 44.323 file. Hình 1: Hệ thống thư viện số dùng chung ngành Nông nghiệp và PTNT 153
  7. Năm 2019, Lãnh đạo Bộ quyết định xây dựng thư viện số dùng chung (https://edoc-lcasp.dttt.vn) dưới sự hỗ trợ của Dự án Hỗ trợ Nông nghiệp Cacbon thấp (LCASP). Đây là hệ thống thông tin số toàn văn về ngành Nông nghiệp và PTNT do Thư viện Bộ, Viện Nghiên cứu và các trường đại học thuộc Bộ Nông nghiệp và PTNT tự nguyên đóng góp để thực hiện chia sẻ dữ liệu số cho toàn mạng lưới thư viện chuyên ngành, cũng như những người dùng tin/bạn đọc có nhu cầu. Hệ thống được xây dựng trên phiên bản web và trên giao diện điện thoại. Bạn đọc tự đăng nhập, xem và đánh giá về tài liệu. Hệ thống theo dõi và ghi lại lịch sử sử dụng tài liệu của bạn đọc. Nội dung dữ liệu số được phân chia theo các chủ đề: Trồng trọt và bảo vệ thực vật, Thủy sản, Chăn nuôi và thú y, Lâm nghiệp, Thủy lợi và lĩnh vực khác. Hệ thống đã tiến hành đào tạo và giới thiệu tới các đơn vị để lấy ý kiến hoàn thiện. Nhờ sự nỗ lực phấn đấu không ngừng, cùng những đóng góp tích cực, Thư viện Bộ luôn được quan đầu tư đổi mới. Từ năm 2018, Thư viện Bộ đã tiên phong trong việc cải tiến và đưa các sản phẩm và dịch vụ thông tin tư liệu, đưa các cách thức tra cứu thông tin thân thiện đáp ứng nhu cầu của người dùng tin trên trang thư viện điện tử (http://thuvien.mard.gov.vn).Từ đây nhiều nguồn dữ liệu hữu ích hiện có tới bạn đọc/người dùng tin một cách nhanh chóng, kịp thời thông qua các giới thiệu các CSDL trực tuyến miễn phí liên quan đến ngành, CSDL thông báo về các công trình nghiên cứu khoa học; CSDL thông tin khoa học kỹ thuật trồng trọt, chăn nuôi, văn bản pháp quy ngành; CSDL sách mới,... Số lượt tra cứu thông tin ngành Nông nghiệp hàng tháng trên trang thư viện điện tử từ 80.000-100.000 lượt. Hình 2: Nguồn cơ sở dữ liệu hiện có trên thư viện điện tử của Bộ Việc ứng dụng công nghệ trong hoạt động chuyên môn nghiệp vụ, giúp giảm bớt những công việc có giá trị gia tăng thấp, hệ thống có thể tự động thực hiện mà không cần tốn chi phí trả lương cho cán bộ thư viện thực hiện. Bên cạnh đó, họ có thêm thời gian để nâng cao chuyên môn, nghiệp vụ và thực hiện các công việc có giá trị gia tăng cao. Qua đó, chuyển đổi số cũng giúp người quản lý dễ dàng đánh giá chất 154
  8. lượng công việc của nhân viên thay vì quan điểm lỗi thời chú trọng đến thời gian đầu vào như trước đây. Với việc triển khai mạnh mẽ về công nghệ thông tin và những chính sách hạn chế biên chế tại đơn vị, nên cán bộ làm công tác thư viện ngành Nông nghiệp và PTNT có số lượng ít và phải kiêm nhiệm. Với lực lượng mỏng nhưng công việc đỏi hỏi cao, hàng năm Thư viện Bộ cũng duy trì hội thảo sinh hoạt chung để các đơn vị cùng gặp gỡ, trao đổi vướng mắc trong công việc và cùng lắng nghe những chia sẻ kinh nghiệm và những đổi mới trong lĩnh vực đang hoạt động. Tóm lại, hoạt động thư viện ngành Nông nghiệp và PTNT đã bắt đầu quá trình xây dựng nguồn dữ liệu số về KHCN ngành, từng bước chuyển đổi nguồn dữ liệu số kết hợp với ứng dụng công nghệ thông tin để tổ chức quản lý, tra cứu và chia sẻ nguồn dữ liệu ngành, xây dựng các sản phẩm và dịch vụ chất lượng đáp ứng yêu cầu tin ngày một cao của người dùng tin. Tuy nhiên, mức đầu tư và hoạt động tại các đơn vị thuộc mạng lưới thư viện ngành chưa đồng đều khiến hiệu quả hoạt động chung của mạng lưới chưa cao. 3. Khuyến nghị chính sách - Cần nâng cao nhận thức của các cấp lãnh đạo về sự cấp thiết phải chủ động tham gia tích cực chuyển đổi số trong hoạt động thư viện. Xác định nội dung cốt lõi của quá trình chuyển đổi số của thư viện ngành Nông nghiệp và PTNT là thúc đẩy phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo trên tất cả các lĩnh vực tạo môi trường thuận lợi để người người dùng tin có thể dễ dạng tiếp cận các dữ liệu số, truy cập các CSDL thông qua các quy chế, chính sách, tiêu chuẩn cụ thể. Tiến đến cần hoàn thiện pháp luật, chính sách về dữ liệu, quản trị dữ liệu, tạo thuận lợi cho việc tạo dựng, kết nối, chia sẻ và khai thác dữ liệu bảo đảm an toàn, an ninh mạng đảm bảo các quy định về sở hữu trí tuệ, bản quyền trong thời đại số. - Quá trình chuyển đổi số buộc các đơn vị cung cấp thông tin tư liệu đổi mới công nghệ trong lĩnh vực công nghệ thông tin; đẩy mạnh khoa học phân tích và quản lý và xử lý dữ liệu lớn tạo ra tri thức mới nên cần xây dựng và phát triển đồng bộ hạ tầng dữ liệu và hình thành hệ thống trung tâm dữ liệu ngành kết nối đồng bộ và thống nhất. Từ đó hình thành các hệ thống dữ liệu tin cậy, ổn định. Việc đầu tư xây dựng cơ sở dữ liệu số chuyên ngành Nông nghiệp và PTNT phục vụ người dùng tin đầy đủ, nhanh chóng, kịp thời. - Quá trình chuyển đổi số gắn với việc tăng cường phát triển các sản phẩm, dịch vụ dựa trên nền tảng công nghệ số, Internet và không gian mạng. Tất yếu để tồn tại, thư viện phải chú trọng phát triển công nghệ mới để khai thác tài liệu số, phát triển nội dung số thành nội dung số đa phương tiện, sách điện tử đa phương tiện có khả năng tương tác, áo hóa cao. Từ đó, tạo ra các eBooks hình thức mới, thích hợp với nhu cầu 155
  9. và thiết bị đầu cuối của người sử dụng hiện nay theo xu thế phát triển của công nghệ khai thác nội dung số. - Hệ thống thư viện Bộ, đại học, viện nghiên cứu… trong mạng lưới thư viện ngành cần tăng cường kết nối để cùng tìm ra phương thức quản lý và sử dụng thông tin, dữ liệu mở phù hợp, bao gồm: nhà nghiên cứu, sinh viên, giáo viên, các chuyên gia thông tin, các nhà nghiên cứu chính sách, nhà cung cấp nội dung, các cơ quan tài trợ, các hiêp hội thông tin chuyên nghiệp, các tổ chức phi chính phủ… Đồng thời đề xuất chính sách truy cập, sử dụng dữ liệu/thông tin/ tri thức mở cấp ngành và được tổ chức sao cho người dân/người dùng tin có thể chọn cách thích hợp nhất để truy cập nội dung cần sử dụng. - Thực hiện đào tạo và đào tạo lại, đào tạo nâng cao chuyên môn và kỹ năng để chuyển đổi công việc cho các cán bộ thư viện/ người dùng tin đảm bảo kỹ năng khai thác và sử dụng dữ liệu số, kỹ năng bảo đảm an toàn, an ninh mạng đạt trình độ cơ bản. Đẩy mạnh công tác truyền thông, nâng cao nhận thức, xây dựng văn hoá số trong cộng đồng. - Mở rộng hợp tác quốc tế nhằm đẩy mạnh thu hút đầu tư các nguồn lực từ nước ngoài và các đối tác quốc tế cho hoạt động thông tin tư liệu phục vụ nghiên cứu, ứng dụng, đổi mới sáng tạo, khởi nghiệp sáng tạo, chuyển giao công nghệ. Kết luận Như vậy, không chỉ có vai trò quan trọng tại các doanh nghiệp mà chuyển đổi số còn đóng vai trò quan trọng trong các lĩnh vực khác của xã hội như chính phủ, truyền thông đại chúng, y học, khoa học... và đặc biệt là ngành Thư viện-cầu nối cho các hoạt động quản lý, nghiên cứu, sản xuất và kinh doanh. Khi các thư viện thực sự tham gia vào quá trình chuyển đổi số có nghĩa là họ sẽ tạo được sự liên kết các CSDL với nhau tạo nên một hệ thông thông tin đa dạng và phong phú giúp cho công tác phục vụ người dùng tin được liên tục, kịp thời. Các thư viện có cơ hội tận dụng các sản phẩm và dịch vụ mà đơn vị tạo ra để tiết kiệm công sức, tiền của tạo được sự thu hút mạnh tới người sử dụng. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Báo cáo kết quả hoạt động của Dự án Hỗ trợ Nông nghiệp Cacbon thấp (LCASP), 2019 2. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Kỷ yếu hội thảo, Phát triển và đổi mới hoạt động thư viện trong thời kỳ mới, 2018 3. Đại học Quốc gia Hà Nội, Tối ưu hóa quản trị tri thức số (chính phủ- doanh nghiệp-thư viện), 2019 156
  10. 4. Hội Thông tin Khoa học và công nghệ Việt Nam, Kỷ yếu hội thảo. Tác động của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 tới hoạt động thông tin khoa học và công nghệ (18/12/2018) 5. Vũ Thúy Hậu, Những thay đổi của thư viện nông nghiệp trước tác động của cách mạng công nghiệp lần thứ 4, 2019 157
nguon tai.lieu . vn