Xem mẫu

  1. 24 TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ H NỘI THƠ TỰ SỰ - TRỮ TÌNH OLGA BERGGOLTZ 1 Vũ Công Hảo Trường Đại học Thủ ñô Hà Nội Tóm tắt tắt: ắt Với Olga Berggoltz, thơ ca chính là hơi thở, là máu thịt, là tình yêu tha thiết với cuộc sống và con người. Trong thơ ca Olga Berggoltz, có cả thăng trầm của chính cuộc ñời bà và dấu ấn những năm tháng chiến tranh gian khổ, bi thương nhưng hào hùng, oanh liệt nhất của ñất nước Xô viết. Sự uỷ mị, yếu ñuối thông thường của một người ñàn bà trong tình yêu không lấn át, mà ngược lại, hoà quyện chặt chẽ với nguồn năng lượng, cảm hứng công dân mạnh mẽ, kiên cường. Điều này tạo nên vẻ ñẹp riêng biệt, ñộc ñáo của hồn thơ, của thơ Olga Berggoltz, khiến bà trở thành một trong những nữ thi sĩ ñược yêu quý và trân trọng nhất của thơ ca Xô viết thế kỷ XX. Từ khoá khoá: oá Olga Berggoltz, tự sự, trữ tình, thơ ca Xô viết. 1. MỞ ĐẦU Là một trong ba gương mặt nữ nổi bật, góp phần làm nên diện mạo, hồn xác của thơ ca Nga - Xô viết thế kỷ XX, Olga Berggoltz (1910-1975) hiện diện có vẻ khiêm tốn nhưng không hề lép vế bên cạnh hai "ñàn chị" nhiều "tai tiếng" trước ñó là A.Akhmatova (1889- 1966) và M.Svetaeva (1892-1941). Không hoà ñồng cũng chẳng tách biệt, không hào hứng cũng chẳng than phiền, không tự nguyện cũng chẳng bắt buộc..., bà lặng lẽ, âm thầm có mặt trong tất cả những thời khắc biến ñộng lớn lao, dữ dội nhất của ñất nước Xô viết như một chứng nhân, hơn thế, như một người "ñi xuyên qua hoang mạc" của cuộc ñời và của chính mình. Olga Berggoltz sinh ngày 3 tháng 5 năm 1910 (theo lịch cũ) tại Sankt Peterburg, là chị cả trong một gia ñình có hai chị em gái. Tuổi ấu thơ tuy ngắn ngủi và ñầy biến ñộng song chị em bà luôn ñược sống trong vòng tay yêu thương che chở của gia ñình. Cha của bà, ông Fedor Kristoforovits Berggoltz - một bác sĩ phẫu thuật trầm tư, ít nói, trước ñây từng phục vụ dưới chế ñộ Nga hoàng trong chiến tranh thế giới lần thứ nhất, từng tham gia chống Bạch vệ thời kỳ nội chiến, hiện ñang chăm lo sức khỏe cho những người công 1 Nhận bài ngày 12.04.2016, gửi phản biện và duyệt ñăng ngày 24.5.2016 Liên hệ tác giả: Vũ Công Hảo; Email: vchao@daihocthudo.edu.vn
  2. TẠP CHÍ KHOA HỌC − SỐ 5/2016 25 nhân - chính là người ñã phát hiện, nâng niu, vun ñắp cho tài năng thơ ca của Olga Berggoltz. Ngoài sự yêu thương, ông ñồng thời cũng là người luôn thấu hiểu, trân trọng, sẻ chia tâm tư, khát vọng, sự cố gắng bền bỉ và cả những ñau khổ tột cùng của con gái mình. Khí phách, sự chịu ñựng, khả năng phi thường vượt lên trên mọi khó khăn, thử thách nghiệt ngã tưởng chừng không thể vượt qua trong cuộc sống của Olga Berggoltz chịu ảnh hưởng trực tiếp từ ông. Olga Berggoltz mê thơ và tập làm thơ từ rất sớm. Bài thơ ñầu tiên của bà ñược ñăng báo năm 1924 là cảm tác trước cái chết của V.I.Lenin. Đó là một bài thơ ngắn, ngôn từ giản dị, có phần hồn nhiên ngây thơ, nhưng trong nó có sức mạnh mãnh liệt của một cảm xúc chân thành, sự kết hợp giữa nỗi ñau và niềm tin, giữa cái nhìn riêng của một cô thiếu nữ và ý thức về sự mất mát của cả một dân tộc. Thoạt ñầu, khi ñọc những bài thơ ñầu tay của Olga, ñộc giả có cảm giác rằng bà chỉ cố gắng ghi lại diễn biến của những cảm xúc tức thời diễn ra trong tâm hồn mình chứ không có ý ñịnh trau chuốt ngôn từ hay phô diễn ý tưởng, không chú ý ñến các kỹ thuật, thủ pháp nhằm tạo dựng một phong cách riêng; nhưng ngay cả các bài thơ của bà sau này, khi ñã thấm vị mặn mòi, ñắng chát của những thăng trầm, chìm nổi trong cuộc ñời, thì vẫn vậy. Có lẽ chiều sâu của ý tưởng, của sự cảm nhận cuộc ñời nằm sau câu chữ, sau những mạch cảm xúc có vẻ tức thời ñó. Bà tự coi mình là người cất lên tiếng nói chân thật của nỗi lòng và cũng chỉ dành cho những nỗi lòng ñồng ñiệu: "Tôi là chú vịt ñá/ Tôi là cây sáo ñá/ Tôi hát một bài ca/ Thật thà và giản dị/ Hãy ñặt lên môi ñi/ Nhè nhẹ thôi hãy thổi/ Bạn sẽ nghe thấy bài ca của tôi" [Cây sáo ñá, 1926, 1930, Thuỵ Anh dịch]1. Nếu có thể xem ñây là một tuyên ngôn, tín niệm thơ ca, thì quả thật, hiếm thấy nhà thơ nào, thứ tuyên ngôn, tín niệm nào lại ñược diễn ñạt "thật thà và giản dị" ñến thế. Tuy nhiên, nó ñã gắn bó với bà ñến trọn ñời, tạo thành giọng ñiệu riêng, hơi thở riêng, không nhầm lẫn với bất cứ nhà thơ nào khác. 2. NỘI DUNG 2.1. Cảm thức công dân Olga Berggoltz trước hết là con người của ñất nước, công việc và tình yêu. Đó là một công dân ñích thực trước khi trở thành một người ñàn bà, một thi sĩ. Trong ấn tượng của những người bạn cùng thời trung học, "Olga là một người thẳng thắn, trung thực, không thoả hiệp, không khoan nhượng, cực ñoan trong yêu và ghét. Thời ñó, cô ñã rất thông minh, trí tuệ sắc sảo, có duyên hài hước, lúc rất nhí nhảnh dễ thương, lúc lại ñầy gai góc 1 Kể từ ñây, các trích dẫn thơ ca trong bài viết ñều ñược lấy từ cuốn "Olga Berggoltz của tôi" – Nxb Trẻ, 2010, do chính Thuỵ Anh dịch và viết lời giới thiệu.
  3. 26 TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ H NỘI châm chọc. Cô là người thích tranh luận và tranh luận rất nhiệt tình, trong các cuộc tranh cãi luôn tự tin, hăm hở. Gương mặt ñẹp ñẽ và thanh thoát của cô thường sáng rực lên một cách tự nhiên bởi nụ cười ấm áp, gương mặt ấy làm người ta kinh ngạc và lôi cuốn bởi nét hoạt bát sinh ñộng, tình cảm, hiển hiện cả một cuộc sống nội tâm căng thẳng và phong phú" [1, tr. 19-20]. Năm 1926, Olga Berggoltz theo học ngành báo chí tại khoa Ngữ văn trường Đại học Tổng hợp Leningrad. Tốt nghiệp ra trường, cô nhà báo trẻ yêu thơ ñã từng ñi nhiều nơi, từ Kavkaz ñến Kazakstan; làm phóng viên, biên tập viên cho nhiều báo, toà soạn của các Hội văn nghệ và Đoàn Thanh niên Cộng sản ở các ñịa phương... Thời kỳ này, ngoài thơ ca, Olga Berggoltz còn viết truyện ngắn, hồi ký, phóng sự..., phản ánh kịp thời sự ñổi mới của ñất nước, con người Xô viết trong kế hoạch năm năm lần thứ nhất. Để ghi nhận, ñánh giá ñúng tài năng và những ñóng góp tích cực ấy, bà ñã vinh dự ñược kết nạp vào Hội nhà văn Xô viết ngay trong kỳ Đại hội ñầu tiên, tháng 6 năm 1934. Còn nhớ khi ñọc tập thơ ñầu tay có cái tên giản dị: "Thơ", và ñặc biệt, khi tiếp xúc với Olga Berggoltz, ñại văn hào M.Gorky ñã có ấn tượng rất sâu sắc về cô gái trẻ này. Ông nhận thấy trong con người và thơ ca của bà cái tố chất tự nhiên hồn hậu của một thi sĩ ñầy nhiệt tình và trách nhiệm. Quả ñúng vậy, trong bất kỳ hoàn cảnh nào, Olga Berggoltz vẫn luôn là người có trách nhiệm với Tổ quốc, với thơ ca, với bạn bè và với chính mình. Thế nhưng, Olga Berggoltz của công chúng và Olga Berggoltz của riêng mình lại là hai thái cực ñối lập. Khác hẳn với cái "thi lộ" tưởng chừng suôn sẻ ñó, cuộc ñời bà là cả một chuỗi bi kịch, trắc trở. Lâu nay, nếu chỉ ngắm gương mặt thánh thiện, trong sáng và ñôn hậu tuyệt vời của bà, nếu chỉ ñọc thơ bà, ít người có thể hình dung ñược trên khuôn mặt ấy, qua những dòng thơ ấy, một thời ñại khốc liệt, một thế hệ bi tráng, một cõi người buồn thương... ñã ñi qua. Dường như, cái vẻ ngoài bình thản, lặng lẽ, không kêu ca oán thán cũng không "làm mình làm mẩy", "bởi số phận, tôi luôn là mình không ñổi / khi hiện thân trong trăm mặt ngàn hồn" của bà ñã ñánh lừa cảm giác của ñộc giả, khiến nhiều người lầm tưởng khi ñưa ra các ñoán ñịnh hay phẩm bình. Thoạt nhìn, người ta cứ tưởng rằng Olga Berggoltz là người vô tư, không hề biết những mối hiểm nguy ñe doạ ñang rình rập quanh mình hoặc giả bà quá ñỗi nhiệt tình, tận tâm với công việc ñến mức luôn muốn hiến dâng cho Tổ quốc tất cả, không giữ và không che giấu bất cứ ñiều gì: "Nỗi buồn này tôi giấu nổi Người chăng, / niềm vui sống cũng chẳng hề che ñậy. / Lồng ngực nóng ngay buổi ñầu xé toang ra bỏng cháy, / lời trần tình trung thực của Người ñây" (Nỗi buồn này tôi giấu nổi Người chăng - 1937). Thế nhưng thực tế không phải như vậy. Từ sau cái chết của cô con gái ñầu tiên Irina (với người chồng ñầu tiên Boris Kornilov), năm 1936, linh cảm mơ hồ về một thứ "tai bay vạ gió" oan nghiệt nào ñấy ñã hình thành, ñeo bám dai dẳng trong bà. Song ngay cả khi cái sự thực phũ phàng ñó xảy ra, bà cũng không than thở, oán trách mà coi ñó như là phép thử của cuộc ñời:
  4. TẠP CHÍ KHOA HỌC − SỐ 5/2016 27 "Quẳng tôi vào hoang mạc phẳng lì Không mờ nhạt một con ñường phía trước "Ta thử thách ngươi! Hãy bước!" Lạnh lùng Người bỏ lại tôi"... (Quẳng tôi vào hoang mạc - 1938) Vì là vợ cũ Boris Kornilov - chàng thi sĩ tài hoa nhưng bất hạnh, bị kết tội chống ñối và tử hình ngày 20/2/1938 -, Olga Berggoltz ñã bị bắt vào tù hơn sáu tháng (từ tháng 12/1938 ñến ñầu tháng 7/1939). Bà ñã phải "Sống những tháng ngày trong lặng im hoang dại, / Nghiến chặt răng, bó gối ưu phiền. / Niềm vô vọng canh giữ lòng khắc khoải, / Lý trí là dai dẳng bóng ma ñiên...", bị mất con, mất luôn cả khả năng làm mẹ. Nỗi niềm trớ trêu, oan trái này của bà hơn mười năm sau ñã tái lặp trong bi kịch một người khác: Olga Ivinskaia - Trưởng Ban biên tập các tác giả mới vào nghề của tạp chí Thế giới mới. Cũng chỉ vì là người tình của B.Pasternak, cái kẻ "coi trời bằng vung" mà giới phê bình quyền uy ñương thời tạm tha chưa ñụng ñến nhưng cần "cảnh cáo", Olga Ivinskaia cũng phải ngồi tù suốt năm năm trời. Những cú sốc lớn, bất ngờ và không thể tin ñược như thế thường khiến người ta gục ngã, buông xuôi, chỉ biết tự nếm trải, thấm thía nỗi trớ trêu ngang trái của cuộc ñời trong câm lặng. Người nghệ sĩ nào cũng sợ những "khoảng trống", sợ sự hẫng hụt mà họ cảm thấy khó có thể cân bằng dù chỉ chốc lát trong tâm hồn mình. S.Esenin, V.Maiakovsky, M.Svetaeva... và nhiều người khác nữa ñã không chiến thắng ñược những khoảng trống ñó. Với một người nhiệt thành, sôi nổi như Olga Berggoltz, khó khăn này quả thật không dễ vượt qua. Bà ñã chịu áp lực ghê gớm, ñã hoang mang tột ñộ khi sống những ngày tháng trong tù, "Bạn hỏi tôi - làm sao trụ ñược, / Sao không ñiên, không loạn trí vô hồn?", nhưng vẫn cố gắng "gồng mình lên gắng gượng", vẫn nén chặt những ñau khổ uất ức của riêng mình, chỉ cho riêng mình vào thơ (tập Nhật ký cấm, gần ñây mới ñược in). Có phải nếu không "giấu mình" như thế, Olga Berggoltz ñã không thể tồn tại ñược giữa những cạm bẫy chết người của cuộc "hình sự hoá", "khuôn mẫu hoá" tư tưởng và sáng tác văn chương một thời ở nước Nga?! Kết cục số phận của bà hoặc sẽ bi thảm như Boris Kornilov, O.Mandelstam..., sẽ buộc phải lưu vong hoặc "lưu vong ngay trên Tổ quốc mình" như các ñàn chị?!... Các nghi vấn này có thể ñúng với một vài "hiện tượng", "nghi án" có thực nào ñó, song có lẽ không ñúng với Olga Berggoltz. Đau khổ là vậy, song ñâu ñó trong không gian hoang lạnh, khô khốc của ngục tù, bà vẫn nghe ñược tiếng thì thầm của "Người", của "hồn quê" "ñang kỳ ngã bệnh". Trong sâu thẳm tâm hồn bà, nước Nga sầu muộn và bất thường ñang trong cơn ñổi thay biến ñộng không còn ñẹp như xưa nữa, nhưng trạng thái ñó chỉ là tạm thời. Bà vẫn tin ở Người, ở Tổ quốc:
  5. 28 TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ H NỘI "Người xua ñuổi tôi, oan trái dập vùi Người cướp của tôi vinh quang và con trẻ Nhưng sao tôi không hết yêu Người mà ngược lại: Tôi hiểu Người chẳng ác ñộc cùng ai Chỉ ấu trĩ thôi những năm tháng dài... ... Vậy thì sao? Nếu những bức tường nhà lao Thuộc ñược lời ca dịu hiền thơ mộng Thì có nghĩa, chẳng còn nữa buồn ñau, chẳng còn ñâu tráo trở Thì có nghĩa, Tổ quốc ta vẫn sống..." (Nói với Tổ quốc - 1939) Có thể nói, niềm tin vào Người - Tổ quốc hiện tại ñã không chỉ nuôi sống tâm hồn bà trong tù ngục mà còn nuôi sống một hồn thơ. Đương nhiên, niềm tin này khác với những nuối tiếc về một nước Nga xưa cũ ngập tràn trong thơ V.Nabokov, I.Bunin, M.Svetaeva hay cả A.Blok, S.Esenin... nó có trăn trở ưu tư nhưng không bao giờ bi quan, mất ñi sự tin tưởng nhất quán. Thường trực trong tâm trí của bà, cùng với tình yêu, Người - Tổ quốc ñã trở thành một thứ hình tượng vô hình, vẹn nguyên, xuyên suốt các bài thơ. Vì Người - Tổ quốc, bà sẵn lòng: "Không, Tổ quốc ơi, dù ký ức ñau thương chưa bao giờ vơi dịu, dù ñã chết ñi hay oan trái tù ñày, theo tiếng gọi của Người tôi vẫn ñội mồ ñứng dậy Không phải chỉ mình tôi, ai cũng dậy mà ñi... (Với Tổ quốc - 1941) Đây là những vần thơ bà viết trước ngày nhân dân Liên xô bước vào cuộc Chiến tranh Vệ quốc vĩ ñại. Ngay sau ñó, suốt những năm chiến tranh thế giới lần thứ hai, Olga Berggoltz ñã sống trọn chín trăm ngày ñêm cùng những người dân Leningrat trong vòng vây và bom ñạn huỷ diệt của kẻ thù. Là biên tập viên, phát thanh viên của Đài phát thanh Tiếng nói Leningrad, Olga Berggoltz không chỉ là nhân chứng sống, là "người phát ngôn"... mà còn là người lưu giữ bằng thơ ký ức oanh liệt về một thành phố anh hùng cho muôn ñời. Người ta có thể tái hiện, lưu giữ ký ức về chiến tranh bằng nhiều hình thức: phim tư liệu, tượng ñài, các cuốn sử biên niên, các ca khúc, bản nhạc, sáng tác văn chương..., song ghi lại lịch sử thành phố thép bằng thơ ca trong bom ñạn khốc liệt, giữa ranh giới mỏng manh của sự sống và cái chết, khi "Mỗi người dân từng quên mình bảo vệ thành Len yêu dấu / Từng chẹn tay lên những vết bỏng rát trên người/ Đã trở thành người lính chiến rồi /
  6. TẠP CHÍ KHOA HỌC − SỐ 5/2016 29 Dũng cảm như cựu binh thời trước"... chân thực như chính những gì ñang diễn ra thì chỉ có Olga Berggoltz. Các bài thơ thời kỳ này, trong ñó có Nhật ký tháng Hai - một bản trường ca, ñúng hơn, một khúc tráng ca - ñều ñược bà viết rất nhanh, không chỉ ñể "trả nợ ký ức" "trả nợ cho máu xương của những người ñồng ñội ñã ngã xuống" (chữ của Iu.Bondarev sau này), mà còn ñể tự củng cố tinh thần, sức mạnh cho chính mình: "Tôi chưa từng là một anh hùng Chưa từng mơ vinh quang và tấm huân chương trên ngực Chung hơi thở với thành Len, chung bước Chẳng khoe lòng anh dũng, tôi chỉ sống hết mình thôi" (Nhật ký tháng Hai - 2.1942) Khó có thể kể hết những gì Olga Berggoltz và những người dân Leningrad ñã phải chịu ñựng trong chín trăm ngày ñêm bị phong toả. Hơn nửa triệu người ñã chết vì bom ñạn và ñói rét. Không niềm vinh quang nào, phần thưởng nào bù ñắp ñược cho những tổn thất, hi sinh to lớn ấy. Bởi thế, không chỉ trong chết chóc bom ñạn, mà ngay cả khi chiến tranh ñã ñi qua: "Tôi một mình ngồi lại lắng nghe tôi / trong không gian lặng im thời hậu chiến", khi nữ nhà thơ - cựu chiến sĩ năm xưa ñã trở thành con người của cuộc sống ñời thường: "Nhưng người ñàn bà trong tôi không thể buông tha những kẻ ñịnh xoá sạch trơn mọi người trong ký ức nhạt mờ phẳng lặng, không ñể họ quên hình ảnh người dân thường Leningrad gục trên những quảng trường hoang tuyết ngả màu vàng" (Tự hát - 1946) Thi sĩ ñã tự nhận về mình trách nhiệm nhắc nhở mọi người không ñược phép quên, song cũng có thể chính những người ñã khuất ñã tin tưởng, giao phó cho bà cái sứ mệnh thiêng liêng khắc ghi những năm tháng ñau thương cùng công sức của họ, cái chết của họ vào trời xanh, vào lịch sử: "Muôn ñời không quên mùa ñông ñen tối, ñau thương, ñói khát của những năm Bốn mốt, Bốn hai Cả những khốc liệt của những trận bắn nhau suốt những ñêm dài Cả nỗi khủng khiếp của mưa bom năm Bốn ba ñáng sợ Đất thành phố ñạn bom phá vỡ Các ñồng chí, các anh ơi, không một cuộc ñời nào lại lãng quên ñược" (Những dòng tưởng niệm khắc trên tường nghĩa trang Piskariov - 1956) Hiện trên bức tường nghĩa trang Piskariov, nơi yên nghỉ của những người ñã ngã xuống trong những tháng năm ñau thương này, người ta ñã khắc những dòng thơ bất tử của Olga Berggoltz, thay cho bia mộ, thay cho sự tưởng niệm những người con bất tử của thành phố:
  7. 30 TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ H NỘI "Nơi ñây yên nghỉ những người con Leningrad Nơi ñây yên nghỉ những người dân thành phố - ñàn ông, ñàn bà, con trẻ Bên cạnh họ là những người lính Hồng quân, cận vệ Bằng cả cuộc ñời mình, họ bảo vệ Người, hỡi Leningrad, Cái nôi của Cách mạng Ta không thể kể hết ra ñây tên tuổi họ vẻ vang Bởi họ, biết bao người nằm dưới phiến ñá kia ngàn ñời ôm ấp Nhưng hãy lắng nghe những tảng ñá kể chuyện ñời cao thấp: Không ai bị lãng quên và không ñiều gì bị quên lãng" (Những dòng tưởng niệm khắc trên tường nghĩa trang Piskariov - 1956) Không ai bị lãng quên và không ñiều gì bị quên lãng, ñó không chỉ là vấn ñề ý thức mà còn là nhận thức, không chỉ là trách nhiệm mà còn là lương tâm. Với nhiều người, ký ức quá nặng nề, ñau ñớn, cần phải quên ñi; còn với Olga Berggoltz, ký ức và những nỗi ñau là liều thuốc giúp bà giữ ñược thăng bằng giữa cái chống chếnh, chao ñảo, hẫng hụt của cuộc sống thực tại, khi mà "Cả ngày trong cuộc họp tôi ngồi / Rồi biểu quyết, rồi nói ñiều giả dối / Lời hổ thẹn sao chưa làm tôi chết nổi? / Nỗi chán chường không khiến bạc ñầu thêm?". Người ta không thể chạy trốn quá khứ, cũng không thể né tránh, sợ ñối mặt với thực tại và tương lai, càng không thể lừa dối máu xương của cả một thế hệ: "Ai ñó ñược tung hô sau khốc liệt chiến trường Số còn lại ñã nằm ñây lặng thầm mãi mãi Máu ñổ xuống ñất lành không mưu toan lời lãi Có hay ñâu ñể chuộc mọi lỗi lầm Chưa bao giờ phạm phải với lương tâm!" (Cả ngày trong cuộc họp tôi ngồi... - 1948, 1949) Điều khác thường và giản dị này là chân lý, là lẽ sống, là chính cuộc ñời bà. Có phải vì thế bà vẫn luôn nhớ những người còn sống và ñã chết, những người ñã ở bên, sẻ chia gian khổ hoạn nạn, giúp ñỡ mình (bạn bè ñồng chí, những người chồng, các bạn thơ hay bậc ñàn chị A.Akhmatova)..., vẫn tiếp tục ñấu tranh, cổ suý nhiệt tình cho thứ thơ trữ tình ñích thực ñang bị lấn át, gạt khỏi chỗ ñứng bởi lối tư duy minh hoạ, mang màu sắc chính trị ñương thời, bất chấp mọi thiệt thòi, dị nghị và phản ứng. Có thể nói, trong bất kỳ hoàn cảnh nào, Olga Berggoltz vẫn là một "tấm lòng", một nhân cách ñáng trân trọng. 2.2. Tự sự tình yêu Hiếm có người phụ nữ nào trên thế gian này lại gặp nhiều trắc trở, truân chuyên ñến thế trong tình duyên như Olga Berggoltz. Mỗi lần yêu là một lần tâm hồn, trái tim bà bị thương tổn, rỉ máu. Ba cuộc hôn nhân ñều xuất phát từ tình yêu ñã không mang ñến nhiều
  8. TẠP CHÍ KHOA HỌC − SỐ 5/2016 31 hạnh phúc như bà mong ñợi, bởi chúng quá ngắn ngủi và nhiều bất hạnh, khổ ñau. Người chồng ñầu tiên, kết quả của thời thanh niên ñam mê nông nổi, Boris Kornilov, như ñã nói, ñã bị thủ tiêu trong một trại tập trung năm 1938 mà ñến tận khi bị bắt vào tù bà cũng không hề biết; người chồng thứ hai gặp gỡ và yêu nhau trong những ngày Leningrat anh hùng nằm trong vòng vây bom ñạn của kẻ thù, Nikolai Molchanov, ñã chết trên tay bà vì ñói rét kiệt sức; người thứ ba, người ñồng chí, người chỉ huy, sau này là nhà ngôn ngữ học Georgi Makogonenco, cũng lặng lẽ rời xa bà sau hơn chục năm chung sống vì giữa hai người không tìm thấy sự ñồng ñiệu, sẻ chia. Tuy vậy, với một người phụ nữ kiên cường và tràn ñầy khao khát yêu thương như Olga, càng trải nghiệm, thấm thía nỗi ñau càng tăng thêm nghị lực sống. Bà vẫn ngẩng cao ñầu, tham gia tích cực các hoạt ñộng xã hội và giấu kín sự nức nở của mình trong những vần thơ như thể chỉ dành cho riêng mình. Với Olga Berggoltz, tình yêu luôn gắn liền với cuộc sống, nó cần thiết như ánh sáng, như khí trời, như hơi thở; con người không thể sống mà không yêu: "Còn tình yêu? Như ánh sáng và khí trời ñâu mới lạ, như hơi thở giản ñơn - luôn ở bên người tình chẳng hết mà cũng không lối thoát, ôi chiếc cánh tình yêu xanh thẳm chơi vơi" (Tuổi xuân - 1940) Cuộc sống có vui buồn, tình yêu cũng có hạnh phúc và ñau khổ. Thơ viết về tình yêu của Olga Berggoltz trước hết là những dòng tự sự, giãi bày, cắt nghĩa về những ñam mê ñắm say là cội nguồn hạnh phúc và ñau khổ của chính mình. Thơ tình yêu của Olga Berggoltz chân thành và trong sáng ñến bất ngờ. Bà chẳng hề giấu giếm sự nồng nàn, vương vấn với "người xưa", cũng không ngần ngại thú nhận với người mới. Song nếu tình cảm với "người xưa" dù vẫn luôn là kỷ niệm, dấu ấn của một quãng ñời và mỗi quãng ñời trong cuộc ñời sôi ñộng, ñầy biến cố ñổi thay này ñều ñáng nhớ và ñáng sống, thì ý thức và trách nhiệm với thực tại mới là nét khác biệt chính, làm nên sự dung dị mà cao quý của con người, thơ ca Olga Berggoltz. Bản thân bà, với vẻ ñẹp duyên dáng hồn hậu và những phẩm chất ấy, rất ñáng yêu; hơn nữa, ba người ñàn ông ñã ñi qua ñời bà cũng rất ñáng ñể yêu, ñể mọi người ñàn bà chân thành và nghị lực như Olga Berggoltz trao gửi. Bởi thế, khác với A.Akhmatova, cái gọi là sự "ña ñoan", "ña tình" của Olga Berggoltz không bị người ñời trách cứ hay dè bỉu. Trong thơ tình yêu của Olga Berggoltz, dấu mốc thời gian của các cuộc tình, hôn nhân thường vừa cụ thể vừa bị mờ nhòe; không phải vì nó mới diễn ra hay ñã diễn ra quá lâu, mà vì ñôi khi ký ức và thực tại cứ hoà trộn, xen cài khó tách bạch. Bà ít viết về mối tình ñầu tiên, người chồng ñầu tiên Boris Kornilov không phải bởi ñã quên, ngược lại, bóng dáng người xưa từng khiến cô gái trẻ lần ñầu biết yêu và ñược yêu hạnh phúc, xao xuyến
  9. 32 TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ H NỘI ñến mức Chiều nay em ñánh rơi lời... (1927-1928) vẫn có mặt trong một số bài thơ sau này như Không ñề (1940, nhà thơ Bằng Việt dịch là Bài thơ cuộc ñời), Cánh én bên bờ dốc ñứng (1940), Lại một mình ñơn ñộc lên ñường (1952)... Đến Nikolai Molchanov, bà hân hoan vì tưởng ñã lấy ñược anh của cuộc ñời: "Em lấy ñược anh của cuộc ñời như tia lửa bắn ra từ ñá cuội ñể rồi chẳng chia rời, ñể rồi anh yêu em mãi mãi ... Bạn ñời chung thuỷ của em ơi, vào giờ phút lo buồn, vào giờ phút ngẫm suy về số mệnh mọi nẻo ñường em ñi, muôn lối rẽ ñều ñưa em về bên anh, mọi nẻo ñường em ñi, muôn lối rẽ ñều gặp nhau nơi bậc của nhà anh"... (Em lấy ñược anh của cuộc ñời - 1936) Tin vào tình yêu, số mệnh; hồ hởi, hân hoan như thế, song Olga Berggoltz cũng hay bị những cảm xúc khác, sự dỗi hờn, chán nản tự nhiên xâm chiếm. Bà ñôi khi thảng thốt: "Em ñang làm gì thế này?! Em buông tay... chối bỏ con người mình, chối bỏ hơi thở mình, em ñang buông một người, người em từng chiếm ñược" (Em ñang làm gì thế này?! Em buông tay... - 1940) rồi lại hốt hoảng: "Không phải thế! Anh ñược yêu, anh có biết Vĩnh viễn anh là yêu dấu của em Em không tha thứ cho anh ñiều gì hết Cũng chẳng buông ñôi tay ấm dịu hiền" (Không phải thế! Anh ñược yêu... - 1940) Olga Berggoltz là vậy, táo bạo ñắm say nhưng cũng dại khờ, dễ thương ñến nao lòng. Bà biết rõ con người mình, tình cảnh và những mâu thuẫn trong tình cảm của mình. Căn nguyên của những mâu thuẫn ấy trong bà không phải chỉ ở bản tính ñàn bà (Em thầm cay ñắng ghen tuông - 1947), mà có lẽ ở cái ý nghĩ, cảm giác ñeo ñẳng là ñang phản bội người ñã khuất (Sau khi Nikolai Molchanov mất, Olga Berggoltz sống cùng Georgi Makogonenco, ñến năm 1949 mới chính thức kết hôn, năm 1959 chia tay). Bà luôn bị dằn
  10. TẠP CHÍ KHOA HỌC − SỐ 5/2016 33 vặt, khổ sở vì cảm giác kỳ quặc ấy. Cần nhớ rằng bà cũng yêu và ñến với Georgi Makogonenco không chỉ vì trân trọng mà còn có chút gì ñó như là hàm ơn: "Anh ñã nhận lấy người ñàn bà u sầu, không mềm dịu Người có ý nghĩ tối tăm, cơ mê dại nặng nề Có nỗi niềm goá bụa không xoá ñược ñau tê Có nghiêm túc một tình yêu chưa từng ñi qua hết Nhận lấy về mình không mưu cầu niềm hoan hỉ Miễn cưỡng nhưng vì yêu anh ñã nhận về... (Đã nhận lấy... - 1942) Vì thế, bà không muốn là người lừa dối, không muốn làm tổn thương những người mình yêu quí. Năm 1946, Olga Berggoltz viết bài thơ Bội bạc ñể tưởng nhớ hương hồn Molchanov, nhưng có lẽ hai câu kết: "Bạn ñời của em ơi, - xin tha thứ cho em tiếng nghẹn ngào vô tình không trông ñợi, / Từ lâu rồi em không biết nữa ñâu là thực là mơ..." - trong trường hợp này - còn có thể xem như một lời tạ lỗi thành thực trong tâm tưởng với Makogonenco. Thơ tình yêu của Olga Berggoltz không có nhiều tình tiết miêu tả, ít các bức chân dung, nhưng ñọng lại rất nhiều cảm xúc và suy ngẫm. Mỗi người ñàn ông may mắn có mặt trong cuộc ñời bà ñều là một món quà của tình yêu. Cả cuộc ñời bà là một tình yêu lớn. Khi ñã không nương nhẹ hay ép buộc trái tim, ñể trái tim tự do lên tiếng, lý trí rốt cuộc cũng ñành phải chấp nhận mọi hậu quả từ nó. Trong bài Em chẳng bao giờ nương nhẹ trái tim (Nằm trong chùm thơ về kênh ñào Volga - Sông Đông, viết những năm 50), Olga Berggoltz ñã tự tổng kết về cái sự "sống và yêu" của mình thế này: "Em chẳng bao giờ nương nhẹ trái tim em trong khúc hát, trong buồn ñau, trong ñắm say hay tình bạn... Tha lỗi cho em, người yêu. Điều gì ñến thì ñã ñến rồi. Cay ñắng quá. Nhưng dẫu sao, thảy vẫn là hạnh phúc. Hạnh phúc cả khi nồng nàn sầu khổ, hoảng sợ trước những tai ương không tránh khỏi trên ñời một bóng ma, một ám ảnh thoáng qua cũng làm em căm hận Em sợ lắm anh ơi... Nhưng dẫu sao, thảy vẫn là hạnh phúc! Ôi, mặc nước mắt rơi và những cơn uất nghẹn, chấp nhận mọi oán hờn quất như roi lá trời mưa. Sợ nhất là bỏ qua hết mọi ñiều, là lạnh nhạt trơ trơ
  11. 34 TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ H NỘI Tình yêu không tha thứ. Và thảy là hạnh phúc. Giờ em ñã hiểu tình là huỷ diệt, không ñợi xót thương, không chia sẻ uy quyền. Còn sống ñộng, chừng nào còn tươi ñẹp, Là hạnh phúc tuyệt vời khi không phải thú chơi!" 3. KẾT LUẬN Trong Tự sự (tháng 10/1925), S.Esenin ñã viết: "Tất cả những gì liên quan ñến tiểu sử của tôi ñều nằm cả trong thơ tôi". Với Olga Berggoltz, người ta cũng có thể nói như thế. Ngẫm ra, trong cuộc ñời và tình yêu, Olga Berggoltz là người lữ hành ñơn ñộc, một thứ "ngôi sao ban ngày" như tên tập văn xuôi tự sự trữ tình của chính bà. M.Svetaeva trước ñó ví mình như cây "thanh lương trà" kiêu hãnh, còn Olga Berggoltz cũng tự ví mình như cây "ngải ñắng" bình dị, tuy "ñắng ngắt tình ñời"... không bao giờ thay ñổi, gục ngã trước mọi thử thách bão dông. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Thuỵ Anh (2010), Olga Berggoltz của tôi, Nxb Trẻ. 2. Vũ Công Hảo (2015), Văn học Nga thế kỷ XX, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. 3. Phạm Gia Lâm (2015), Văn học Nga hải ngoại (Quá trình - Đặc ñiểm - Tiếp nhận), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. THE AUTOBIOGRAPHICAL AND LYRICAL POETS OF OLGA BERGGOLTZ Abstract: Abstract To Olga Berggoltz, poetry is breathing, flesh and blood, as well as the passion for life and people. The poetry of Olga Berggoltz included the ups and downs of her life and the mark of the years of the hard war, which was tragic but heroic, and the most glorious of the Soviet country. The mushy and weakness of an ordinary woman in love was not overwhelming, but closely blended with energy, powerful and resilient citizen inspiration. Creating a beauty and originality of the soul of poetry, Olga Berggoltz became one of the beloved and warmest poetesses of Soviet poetry in the twentieth century. Keyworks: Keyworks Olga Berggoltz, narrative, lyrical, Soviet poetry.
nguon tai.lieu . vn