Xem mẫu
- Thị trường theo chiều giá
lên - Bull market
Ngược lại với thị trường giá xuống (bear market) là thị
trường giá lên: bull market, Bull market là dạng thị trường tài
chính mà giá các loại chứng khoán (chủ yếu là cổ phiếu)
tăng nhanh hơn mức bình quân trong lịch sử của chúng,
trong một thời gian dài (vài tháng) với lượng mua bán lớn.
Có giả thuyết cho rằng người ta ví thị trường giá lên với hình ảnh
con bò (bull) là do cách thức tấn công của loài thú này, hất cặp
- sừng sắc nhọn từ dưới lên trên. Thuật ngữ này thông thường
được dùng để mô tả tổng thể cả thị trường và các dự đoán về xu
hướng thị trường (market trend), song đôi khi nó còn được sử
dụng để nói về một loại chứng khoán riêng nào đó, một mặt hàng
hay cũng có thể là một ngành.
Về mặt cung-cầu mà nói, khi thị trường được coi là theo chiều giá
lên thì rất nhiều nhà đầu tư muốn mua cổ phiếu vào trong khi rất
ít người muốn bán ra, kết quả là giá cổ phiếu càng bị đẩy lên cao.
Ở Việt Nam, giai đoạn thị trường giá lên cuối năm 2006 đầu năm
2007 là một ví dụ điển hình.
- Mô hình xác định giá trị của tài sản
vốn - Capital Asset Pricing Model
CAPM được ba nhà nhà kinh tế học William Sharpe, John
Lintner và Jack Treynor đưa ra vào những năm giữa thập
niên 60. CAPM là mô hình mô tả mối tương quan giữa rủi ro
và thu nhập kì vọng, được sử dụng để định giá các chứng
khoán có mức độ rủi ro cao.
Công thức tính toán như sau:
- ks(lãi suất kỳ vọng trên cổ phiếu) = Rrisk free + Beta * (Rmarket -
Rrisk-free)
Beta là chỉ số phản ánh rủi ro thị trường của một cổ phiếu.
Beta có thể được dự đoán dựa trên các số liệu quá khứ
Rrisk free là tỷ lệ phi rủi ro, và thường là lãi suất trái phiếu
chính phủ vì loại lãi suất này được coi là không có rủi ro
thanh toán (Rủi ro mặc định - default risk)
Rmarket là thu nhập thị trường kỳ vọng qua thời gian
(expected market return over a period of time), thường được
tính toán hoặc cho sẵn.
Giả định khi sử dụng mô hình CAPM:
- Thị trường hiệu quả
Nhà đầu tư luôn sở hữu một danh mục đầu tư (portfolio) đa
dạng hoá
Ý tưởng chung đằng sau mô hình định giá tài sản vốn là các nhà
đầu tư khi tiến hành đầu tư vốn của mình vào bất cứ tài sản gì thì
cũng được bù đắp lại theo hai cách: giá trị tiền tệ theo thời gian
và rủi ro.
Giá trị tiền tệ theo thời gian thể hiện thông qua tỷ lệ phi rủi ro
(Rrisk free) trong công thức và khi dùng tiền để đầu tư vào bất cứ
hoạt động nào thì nhà đầu tư sẽ được hưởng sự bù đắp này.
Phần còn lại trong công thức thể hiện tỷ lệ rủi ro và tính toán các
- khoản khác mà nhà đầu tư được hưởng vì đã chấp nhận một tỉ lệ
rủi ro cao hơn. Khoản bù đắp này được tính toán thông qua tỉ lệ
rủi ro (beta) được sử dụng để so sánh thu nhập từ tài sản so với
thu nhập thị trường kì vọng qua một khoảng thời gian (expected
market return over a period of time) và với mức đền bù rủi ro thị
trường (market premium - Hiệu Rmarket - Rrisk-free).
Mô hình định giá tài sản vốn phát biểu rằng: thu nhập kì vọng của
một loại chứng khoán hay danh mục đầu tư sẽ ngang bằng với
mức trên các chứng khoán phi rủi ro cộng thêm khoản lợi tức bù
rủi ro nữa. Nếu thu nhập kì vọng không đạt mức thu nhập tối
thiểu yêu cầu, khi đó nhà đầu tư sẽ không tiến hành đầu tư. Các
- đường SML (Security Market Line - đường biểu diễn rủi ro của
thị trường chứng khoán) sẽ thể hiện kết quả của CAPM đối với
các mức rủi ro khác nhau (các betas khác nhau).
Sử dụng mô hình CAPM cùng các giả định, chúng ta có thể ước
tính được thu nhập kì vọng trên một cổ phiếu.
Ví dụ: giả sử rằng tỉ lệ phi rủi ro là 3%, tỉ lệ rủi ro là 2%, thu nhập
thị trường kì vọng qua thời gian là 10%, khi đó thu nhập kì vọng
trên cổ phiếu là 3%+2*(10%-3%) = 17%.
Mô hình CAPM không phải là mô hình duy nhất dự báo tỷ suất
- sinh lợi nhưng nó có nền tảng lý thuyết vững chắc. Mặc dù có
nhiều tranh luận và nghiên cứu về tính ổn định của beta cũng như
những kiểm định thực nghiệm về mô hình CAPM nhưng về cơ
bản CAPM được xem là hiệu quả và đã tồn tại suốt 40 năm qua.
Trong những nghiên cứu gần đây, mô hình CAPM đã được bổ
sung những nhân tố khác nhằm có thể dự báo tỷ suất sinh lợi một
cách chính xác hơn. Những bằng chứng thực nghiệm cho thấy
ngoài beta còn có các biến như tỷ số giá trên thu nhập (P/E) và
giá trị thị trường trên giá trị sổ sách (P/B). Đặc biệt trong thị
trường các nước mới nổi, sự tác động của tỷ số giá trên thu nhập
(P/E) và giá trị thị trường trên giá trị sổ sách (P/B) lên tỷ suất sinh
- lợi chứng khoán là khá rõ nét. Cùng với mô hình CAPM, P/E và
giá trị thị trường trên giá trị sổ sách được dùng như là các công
cụ dự báo tỷ suất sinh lợi chứng khoán trên thị trường các nước
mới nổi. Điều này hàm ý một mô hình CAPM đa biến với các biến
là: beta, P/E và PBV.
Mô hình CAPM cải tiến là một nỗ lực để khám phá ra các công cụ
như chỉ số P/E và P/B để dự báo tỷ suất sinh lợi thị trường trung
bình trong thời kỳ dài. Tuy nhiên, việc ứng dụng mô hình này vào
dự báo tỷ suất sinh lợi trên thị trường các nước mới nổi nói
chung và vào thị trường chứng khoán Việt Nam nói riêng sẽ có
những hạn chế nhất định.
- Thứ nhất, hàng hóa của thị trường chứng khoán Việt Nam quá
nghèo nàn về chủng loại, ít ỏi về số lượng và đặc biệt là thiếu các
hàng hóa cao cấp để các nhà đầu tư có thể yên tâm đầu tư lâu
dài. Mặc dù đã có những giải pháp và nỗ lực từ phía Nhà nước
nhằm tạo thêm sự phong phú về hàng hóa cho thị trường chứng
khoán nhưng hiệu quả thực sự là chưa cao. Vì thế, thị trường
chứng khoán Việt Nam chưa hấp dẫn các nhà đầu tư, đặc biệc là
những nhà đầu tư chuyên nghiệp và có nguồn lực tài chính lớn.
Thứ hai, sự thiếu vắng hệ số beta trong việc phân tích rủi ro của
các chứng khoán. Nói cách khác, các nhà đầu tư chưa chú trọng
- đến hệ số beta trong việc đánh giá chứng khoán. Hiện nay, trên
website các công ty chứng khoán có liệt kê những tỷ số cơ bản
về tài chính và so sánh với tỷ số trung bình thị trường. Một số
trang web cũng đề cập đến hệ số beta trong danh mục khái niệm
các chỉ số tài chính cần phân tích (ví dụ công ty chứng khoán
VNDIRECT), nhưng chưa thực sự có ý định sử dụng nó. Phần
lớn chỉ là nêu những chỉ số tài chính chung có liên quan đến danh
lợi như chỉ số lợi nhuận/vốn (ROE), lợi nhuận thuần/doanh thu,
lợi nhuận/tài sản, hoặc liên quan đến tình hình vay nợ như tổng
vay nợ trên vốn hoặc liên quan đến giá chứng khoán và lợi nhuận
như P/E, ngoài ra không thấy những chỉ số như tỷ số giá thị
trường so với giá sổ sách (P/B), beta…
- Do sự tác động của nhiều nhân tố phi thị trường nên vai trò của
beta còn tương đối hạn chế. Tuy nhiên, khi danh mục thị trường
ngày càng hoàn thiện, beta sẽ phát huy tác dụng và theo kịp với
sự phát triển của thị trường. Thông qua hệ số beta và các tỷ số
thị trường khác như (P/B)…, doanh nghiệp sẽ nhìn nhận rõ hơn
về rủi ro và năng lực cạnh tranh của chính bản thân mình. Bên
cạnh đó, các nhà đầu tư cũng có điều kiện để ứng dụng những
kỹ thuật phân tích và dự báo một cách hiệu quả hơn, gần với kỳ
vọng hơn. Khi tính toán và sử dụng hệ số beta, việc nghiên cứu
và sử dụng những mô hình dự báo sẽ trở thành hiện thực hơn
chứ không nằm trên lý thuyết nữa.
- Thứ ba, các mô hình dự báo chỉ được vận hành tốt khi các nhà
đầu tư có được thông tin ngang bằng nhau, thông tin không bị rò
rỉ và vì thế minh bạch hóa thông tin là điều kiện tiên quyết để phát
triển thị trường chứng khoán. Đây chính là nguyên tắc công khai,
được coi là một nguyên tắc quan trọng nhất của thị trường chứng
khoán. Có thể nói, nếu không có một hệ thống công bố thông tin
hoạt động theo đúng yêu cầu thì thị trường chứng khoán không
thể vận hành được.
nguon tai.lieu . vn