Xem mẫu

THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG TIỂU THUYẾT DI SẢN CỦA MẤT MÁT
(KIRAN DESAI) NHÌN TỪ LÝ THUYẾT HẬU THỰC DÂN
PHAN THỊ THANH TUYỀN – BỬU NAM
Trường Đại học Sư phạm – Đại học Huế
Tóm tắt: Di sản của mất mát của Kiran Desai là viên ngọc sáng của nền
văn học Ấn Độ đương đại và thế giới. Đây là tác phẩm viết về cuộc lữ hành
của con người giữa hai không gian văn hóa trong thời kỳ thuộc địa và hậu
thuộc địa. Nghiên cứu thế giới nhân vật trong tác phẩm này dưới góc nhìn
của lý thuyết hậu thực dân sẽ giúp chúng ta thấy được số phận của một dân
tộc luôn bị quá khứ thuộc địa ám ảnh, đồng thời mở ra một hướng mới trong
nghiên cứu văn học ở nước ta hiện nay.

1. MỞ ĐẦU
Di sản của mất mát là tác phẩm đưa Kiran Desai, ngôi sao mới đầy triển vọng của văn
học Ấn Độ đương đại, trở thành nhà văn trẻ nhất trong lịch sử giải Booker. Di sản của
mất mát kể về cuộc sống của những người dân Ấn Độ thời hậu thực dân ở hai vùng đất:
Kalimpong - Ấn Độ và New York - Mỹ. Đây là một câu chuyện chi tiết, đẹp đẽ, chân
thực và đầy day dứt về cuộc lữ hành của thân phận con người giữa hai thế giới.
Lý thuyết hậu thực dân (hay còn gọi là lý thuyết hậu thuộc địa) là một loại lý thuyết
“bao gồm việc phản ứng và phân tích những di sản văn hóa của chủ nghĩa thực dân”
[6] với “mục tiêu cuối cùng là thanh toán và đấu tranh chống lại những ảnh hưởng còn
lại của chủ nghĩa thực dân trên các nền văn hóa... nhằm hướng tới sự bình đẳng giữa
các nền văn hóa trên tinh thần tôn trọng lẫn nhau” [6]. Theo Nguyễn Hưng Quốc,
“nguyên nhân sâu xa dẫn đến việc hình thành lý thuyết hậu thực dân chính là sự bất lực
của các lý thuyết Tây phương trong việc lý giải tính chất phức tạp trong nền văn học
các nước cựu thuộc địa” [7]. Do đó, lý thuyết hậu thực dân là công cụ hữu hiệu nhất để
nghiên cứu những nền văn hóa, văn học hậu thực dân. Nhưng ở Việt Nam, lý thuyết này
còn khá xa lạ, ít được giới thiệu và vận dụng. Vì vậy, việc nghiên cứu thế giới nhân vật
trong tiểu thuyết Di sản của mất mát của nhà văn Kiran Desai dưới góc nhìn của lý
thuyết hậu thực dân sẽ cho thấy “Sự thương tổn” mà Tây phương đã để lại và tiếp tục
gây ra trên đời sống người dân Ấn” [5], đồng thời góp phần vào một hướng đi mới đầy
tiềm năng trong nghiên cứu văn học ở nước ta hiện nay.
2. THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG TIỂU THUYẾT DI SẢN CỦA MẤT MÁT
Thời của Mặt trời không bao giờ lặn trên đất nước Anh đã tắt nhưng tình cảnh nô lệ
không dễ gì tan biến khỏi ký ức của người dân thuộc địa. Điều đó ảnh hưởng sâu sắc
đến từng cá nhân ngay cả khi Ấn Độ thoát khỏi thân phận thuộc địa, gây nên nhiều bi
kịch. Do đó, thế giới nhân vật của Di sản của mất mát đều là những gương mặt nhàu nát
vì đau thương, tuyệt vọng, vì cô đơn, mất mát.
Tạp chí Khoa học và Giáo dục, Trường Đại học Sư phạm Huế
ISSN 1859-1612, Số 04(20)/2011: tr. 101-107

102

PHAN THỊ THANH TUYỀN – BỬU NAM

2.1. Nhân vật Jemubhai và bi kịch lưu vong
Trong thế giới nhân vật của Di sản của mất mát, Jemubhai là nhân vật tiêu biểu nhất
cho thứ sản phẩm đầy khiếm khuyết mà văn hóa Anh đã để lại trên đất Ấn Độ. Mang
trong mình khát vọng thay đổi cái thân phận thấp hèn của người dân thuộc địa,
Jemubhai sang Anh du học để rồi bị Anh hóa đến tận chân răng kẽ tóc.
Là sinh viên Ấn, Jemubhai bị những người Anh khinh miệt. Điều đó gia tăng mặc cảm
nhược tiểu của Jemubhai khiến ông sống khép kín như một cái bóng, ngày càng xa lạ
với chính mình. Cho đến một ngày, Jemubhai “hầu như không còn thấy mình là con
người nữa” [4, tr. 73]. Đó là sự bắt đầu của một hành trình tha hóa, lưu vong! Theo lý
thuyết hậu thực dân, dưới sự bá quyền của diễn ngôn thực dân, người dân thuộc địa dần
dần rơi vào mặc cảm nhược tiểu và tính chất nước đôi. Mặc cảm nhược tiểu là cảm giác
thấy mình nhỏ bé, yếu ớt, thua kém người khác, từ đó thấy buồn, day dứt và tự ti. Tính
chất nước đôi là “sự dao động liên tục giữa mong muốn một điều và mong muốn thứ
trái ngược với nó” [1]. Trong lý thuyết diễn ngôn thuộc địa của Bhabha, tính chất nước
đôi “diễn tả sự phức hợp của trạng thái yêu thích và căm ghét, trạng thái đặc trưng
giữa thực dân và thuộc địa” [2, tr. 12]. Vì vậy, những người dân thuộc địa và cựu thuộc
địa thường vừa căm ghét vừa yêu thích những giá trị văn hóa thực dân, vừa muốn chạy
theo văn hóa thực dân vừa muốn níu giữ bản sắc dân tộc... Điều đó khiến họ cứ loay
hoay giữa những giá trị văn hóa. Và dĩ nhiên, lựa chọn giá trị nào cũng khiến họ cảm
thấy day dứt, nuối tiếc và rơi vào bi kịch.
Trong tác phẩm, để thoát khỏi ánh mắt miệt thị của người Anh, Jemubhai đã cố tẩy rửa
căn cước Ấn Độ bằng cách dùng những bộ áo quần phủ kín thân thể, rắc phấn trắng lên
mặt nhằm che đậy lớp da nâu và bắt chước lối sống phương Tây. Nhưng đáng tiếc, nỗ
lực đó không biến Jemubhai thành người Anh mà biến ông trở thành Cái khác, không
những khác với thực dân mà còn khác với chính mình trong quá khứ. Đứng trước người
Anh, Jemubhai vẫn không thôi mặc cảm, sợ hãi nhưng khi đứng trước người Ấn,
Jemubhai lại coi khinh họ. Trong cái nhìn của Jemubhai về nước Anh tồn tại mặc cảm
nhược tiểu và tính chất nước đôi của người dân thuộc địa: “Cậu ghen tị người Anh. Cậu
ghê tởm người Ấn. Cậu nỗ lực làm người Anh bằng nhiệt huyết của lòng căm ghét, và
chính vì cái mà cậu sắp trở thành, cậu sẽ bị hết thảy mọi người khinh rẻ, cả người Anh
lẫn người Ấn” [4, tr. 197]. Từ đó cho đến cuối đời, Jemubhai mang kiếp sống lưu vong,
lưu vong trên đất nước mình và lưu vong ngay trong gia đình mình.
Sau 5 năm sống ở nước Anh, Jemubhai bị Anh hóa từ diện mạo cho đến tâm hồn. Trở
về nước, Jemubhai cảm thấy xa lạ với tất cả mọi thứ ở Ấn Độ. Ngược lại, mọi người
cũng cảm thấy xa lạ với con người mới mà Jemubhai trở thành - một Jemubhai với cái
nhìn của kẻ thực dân. Trong mắt Jemubhai giờ đây, chỉ có người Anh, nước Anh mới là
văn minh, tốt đẹp. Jemubhai quyết tâm trở thành người Anh bằng mọi cách, trong đó có
cách tàn nhẫn nhất là coi khinh gia đình, xa lánh họ hàng, ruồng rẫy vợ con để xóa bỏ
gốc gác. Từ đó, mặc dù nắm trong tay quyền lực nhưng mãi mãi Jemubhai là một kẻ cô
đơn, không nhận được sự yêu thương của bất cứ ai. Trước khi đi Anh, Jemubhai còn có
được tình thương của cha mẹ, những giờ phút lãng mạn, hạnh phúc bên người vợ trẻ.

THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG TIỂU THUYẾT DI SẢN CỦA MẤT MÁT...

103

Nhưng sau khi trở về, ông mất tất cả. Cuối cùng, cái mà ông nhận được khi chạy theo
văn hóa phương Tây chỉ là sự cô đơn và ám ảnh tội lỗi. Ông hoàn toàn trắng tay, đến
một con chó bầu bạn cũng không giữ nổi. Người Anh đã rời Ấn Độ song họ đã kịp để lại
trên xứ sở thuộc địa này sản phẩm hải ngoại của mình: ông tòa Jemubhai lạc lõng, bơ
vơ, không thể hòa nhập nổi với cuộc sống và con người của dân tộc mà từ đó ông được
sinh ra.
2.2. Hai cha con người đầu bếp và bi kịch tan vỡ giấc mơ Mỹ
Chưa từng đặt chân ra nước ngoài, nhưng người đầu bếp của ông tòa Jemubhai cũng
mang tư tưởng của một kẻ lưu vong. Cuộc sống và niềm tin của bác đều hướng về nước
Mỹ. Do đó, bằng mọi giá, bác đã lo liệu chạy vạy cho con trai sang Mỹ với lời dặn dò
trước sau như một: “Ở bên đó, kiếm tiền, đừng quay về đây nữa” [4, tr. 311]. Bác đâu
biết rằng, trong khi bác nằm mơ về ghế bành tivi, tài khoản ngân hàng và một cuộc sống
sung túc giàu sang ở Mỹ thì con trai bác, Biju tội nghiệp đang sống chui lủi như kẻ đào
tẩu trên đường lẩn trốn vì lo sợ bị trục xuất.
Mang theo giấc mơ của người cha, Biju sang Mỹ làm chân chạy bàn hết nhà hàng này
đến nhà hàng với đồng lương rẻ mạt và không có lấy một ngày nghỉ ngơi. Cuộc sống tủi
nhục: ban ngày làm việc quần quật, ban đêm ngủ trong những tầng hầm tối tăm đầy
chuột và gián khiến Biju “nhận ra trong mình có một niềm kính sợ đối với người da
trắng, những người có thể nói là đã đem lại cho Ấn Độ nhiều điều tệ hại” [4, tr. 131].
Càng lang thang qua nhiều nhà hàng, Biju càng thấy được sự phân biệt đối xử giữa
người da trắng với người da màu, giữa thực dân, đế quốc và thuộc địa. Điều đó làm gia
tăng mặc cảm nhược tiểu ở Biju, khiến cậu rụt rè, co mình lại trong sự cô độc và nỗi
nhớ quê nhà bỏng cháy.
Như một lời nguyền dành cho những người Ấn lưu vong, Biju đang lặp số phận của ông
tòa năm xưa, đang kế thừa những mất mát mà ông tòa để lại. Cuộc sống tủi cực đã đập
tan những ảo tưởng và hình thành ở Biju tính nước đôi: vừa căm ghét nước Mỹ, người
Mỹ vừa kính sợ họ, vừa muốn thoát khỏi nơi đây vừa khao khát được cư trú hợp pháp ở
Hoa Kì. Do đó, Biju luôn bị ám ảnh bởi giấc mơ về tấm thẻ xanh. Nó giày vò tâm trí
Biju vì “ai cũng muốn có nó, dù họ thích nó hay ghét nó. Đôi khi càng ghét bao nhiêu,
người ta lại càng muốn có được nó bấy nhiêu” [4, tr. 222]. Rốt cuộc, sau bao năm sống
ở Mỹ, Biju vẫn không biết gì về nước Mỹ ngoài sự trải nghiệm tình cảnh lao động cực
nhọc và mặc cảm bị miệt thị của người dân thuộc thế giới thứ ba. Biju quyết định quay
về Ấn Độ tìm nơi nương náu nhưng cái đất nước mà Biju nhớ nhung đã đón tiếp sự trở
về đó theo cách không thể tàn nhẫn hơn: Biju bị cướp sạch quần áo tư trang và lao vào
vòng tay của người cha khi trên mình chỉ có một chiếc váy ngủ của đàn bà mà cậu giật
tạm để che thân.
Hình ảnh hai cha con Biju ôm nhau khi kết thúc truyện vừa khôi hài vừa bi đát, làm toát
lên bi kịch của thế giới thứ ba, đó là: họ luôn nhìn phương Tây bằng cái nhìn từ bên
dưới, đầy thèm khát, không quan tâm cũng như không biết đến giá trị của mình. Sự tan
vỡ giấc mơ Mỹ của hai cha con Biju là lời cảnh tỉnh dành cho những ai đang mơ về một

104

PHAN THỊ THANH TUYỀN – BỬU NAM

thiên đường trên đất Mỹ. Vì thiên đường ấy không hề tồn tại mà chỉ là sản phẩm của
những diễn ngôn thực dân. Và Kiran Desai đã bóc trần sự bịp bợm đó một cách không
thương tiếc qua số phận những kẻ lưu vong.
Có thể nói, không có nơi nào trên trái đất, người phụ nữ lại chịu nhiều thiệt thòi như ở
Ấn Độ. Đặc biệt, từ khi bị thực dân thống trị, số phận của họ muôn phần cay đắng.
Trong công trình Three Women’s Texts and a Critique of Imperialsim (1985), Spivak,
một trong những tên tuổi lớn của lý thuyết hậu thực dân đã chỉ ra vị thế của người phụ
nữ bản xứ: “trong bối cảnh thực dân và hậu thực dân, phụ nữ là tạo phẩm “chập đôi”
bởi quyền lực nam giới và quyền lực chính quốc, họ buộc phải câm lặng và chìm khuất”
[3, tr. 65]. Vì thế, số phận của người phụ nữ thời thực dân và hậu thực dân vô cùng thê
thảm.
Trong tác phẩm, nhân vật nữ có số phận bi đát nhất là Nimi, vợ ông tòa Jemubhai. Ngày
còn ở nhà cha mẹ, Nimi như con chim bị nhốt trong chiếc lồng, và bị gả đi khi chỉ là
một đứa con nít bởi tham vọng của người cha. Từ khi người chồng từ Anh quốc trở về,
cuộc sống của Nimi lập tức biến thành địa ngục trần gian. Nimi bị đánh đập tàn nhẫn, bị
sỉ nhục, chửi rủa chỉ vì cô là một người vợ “đặc Ấn”, không biết tiếng Anh, không chịu
bắt chước phụ nữ Anh mà chồng Nimi thì luôn cho rằng: “một phụ nữ Ấn Độ không bao
giờ đẹp bằng một phụ nữ Anh” [4, tr. 273]. Từ một cô gái xinh đẹp, Nimi đã bị biến
thành một người tàn phế, ngơ ngẩn. Cuối cùng, Nimi bị trả về cho gia đình, bị ruồng rẫy
cho đến chết sau khi sinh đứa con gái đáng thương, người sẽ phải thừa kế những mất
mát mà Nimi từng nếm trải.
Ngay từ khi chào đời, con gái Nimi đã bị cha mình - ông tòa Jemubhai ném vào trường
dòng nội trú. Cô lớn lên trong cô đơn và cố thoát khỏi lời nguyền của số phận bằng cuộc
hôn nhân với một phi công. Nghiệt ngã thay, vợ chồng cô bị chết dưới bánh xe của
những người ngoại quốc, để lại đứa con gái 6 tuổi sống trong tu viện. Sai mồ côi, lạc
loài ngay từ lúc sinh ra. Cuộc sống trong tu viện với lối giáo dục theo kiểu Anh khiến
Sai trở thành người Ấn mất gốc. Cuộc sống của Sai chỉ tươi tắn lên khi Sai yêu anh
chàng gia sư Gyan. Nhưng sự khác biệt quá lớn giữa hai lối sống: một bên hướng về
phương Tây hiện đại, một bên hướng về Ấn Độ truyền thống khiến tình yêu của Sai tan
vỡ như chiếc bong bóng mong manh giữa đại dương hỗn loạn. Chứng kiến cuộc hội ngộ
của hai cha con người đầu bếp, Sai thấy mình bất lực, nhỏ bé trước dòng chảy của lịch
sử, trước gánh nặng của quá khứ. Sai nhìn về tương lai nhưng đó chỉ là những gì không
rõ rệt, như ánh sáng mờ nhạt lúc rạng đông khi kết thúc truyện.
Từ tấn bi kịch kép mang tính chất kế thừa của những người phụ nữ trong tác phẩm,
Kiran Desai đã tạo nên sức mạnh của diễn ngôn nữ quyền hậu thực dân, tiếng nói đòi
quyền lợi cho người phụ nữ ở các xứ sở cựu thuộc địa trong thế đối diện thường xuyên
với quy chế gia trưởng và bạo lực tri thức phương Tây.
Trong khi phê phán sự bá quyền của văn hóa thực dân, lý thuyết hậu thực dân còn phê
phán những biểu hiện của chủ nghĩa dân tộc cực đoan của các dân tộc cựu thuộc địa. Đó
là sự đề cao quá mức văn hóa dân tộc trước sự bành trướng của văn hóa thực dân. Trong

THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG TIỂU THUYẾT DI SẢN CỦA MẤT MÁT...

105

tác phẩm, tiêu biểu cho những người theo chủ nghĩa dân tộc cực đoan là Gyan, người
được sinh ra trong một gia đình có lịch sử hơn 100 năm gắn bó với những cuộc chiến
của người Anh (làm bia đỡ đạn cho quân Anh trên nhiều mặt trận). Chính lịch sử đau
thương của gia đình cộng với hoàn cảnh nghèo nàn, khốn khó khiến Gyan có lối sống
bài ngoại, khép kín, xa lạ với văn hóa Anh. Đây là nguyên nhân làm cho Gyan không
thể đi đến cùng trong tình yêu với Sai và cảm thấy vô cùng đau khổ. Sự bài ngoại ở
Gyan thực chất là một biểu hiện khác của tâm lí mặc cảm nhược tiểu ở những người dân
thuộc địa. Họ thực hiện lối sống bài ngoại chẳng qua là để giải trừ mặc cảm thua kém
khi đối diện với văn hóa thực dân. Điều đó cho thấy một thực tế là diễn ngôn thực dân
vẫn còn chi phối rất mạnh trong đời sống tinh thần người dân Ấn Độ.
Trong và sau thời kì thuộc địa, những dân tộc từng bị thực dân thống trị thường “mô
phỏng” lối sống phương Tây nên đánh mất bản sắc. Điều đó tạo nên những lai ghép văn
hóa. Trong lý thuyết hậu thực dân, lai ghép được dùng để chỉ tất cả những gì được hình
thành từ sự pha trộn giữa nhiều yếu tố khác biệt, là nét đặc thù trong nền văn hóa thuộc
địa. Bởi vì trong thời kì thuộc địa, những yếu tố văn hóa thực dân bắt đầu hòa nhập vào
nền văn hóa bản địa, làm mất đi tính thuần nhất của nền văn hóa này và ngược lại,
những yếu tố văn hóa thuộc địa cũng xâm nhập vào nền văn hóa thực dân tạo nên những
lai ghép văn hóa. Trong tác phẩm, các nhân vật đều là sản phẩm lai ghép của hai nền
văn hóa thực dân – thuộc địa và đều có số phận bi kịch. Đó là do họ sống trong một xã
hội Ấn Độ hậu thực dân, nơi mà những xung đột văn hóa Đông – Tây chưa bao giờ im
tiếng. Ngoài những nhân vật mang bi kịch kể trên, trong tác phẩm còn có nhiều nhân vật
khác mang bi kịch thời hậu thực dân. Đó là những người trong cái cộng đồng biệt lập
“thân Anh” sống như những người ngoại quốc trên chính quê hương mình, lạc lõng giữa
cuộc đời nên nhanh chóng bị nhấn chìm trong làn sóng bạo động. Đó là những người
Ấn sống ở nước ngoài, do trực tiếp tiếp xúc với văn hóa phương Tây nên có một cuộc
sống tủi nhục, cay đắng, tha hóa: đánh mất lòng tự tôn, tín ngưỡng, bản sắc dân tộc.
Trong tính cách của những người này đều tồn tại tính chất nước đôi và là biểu hiện của
sự lai ghép. Chẳng hạn, sinh viên Ấn du học ở Mỹ thích những mối tình lãng mạn theo
kiểu phương Tây nhưng lại muốn một đám cưới truyền thống Ấn Độ với đống hồi môn
kếch xù; những người Ấn thành đạt thì đánh mất lòng tự tôn, bản sắc bằng lối sống hai
mặt: xun xoe trước mặt người da trắng nhưng trong thâm tâm lại muốn bóp cổ họ,... Do
chạy theo văn hóa phương Tây một cách mù quáng, những người Ấn sống ở nước ngoài
dần dần đánh mất những tình cảm tốt đẹp, bị tiêm nhiễm tư tưởng sống thực dụng, lạnh
lùng của xã hội phương Tây. Ví dụ, khi bị bố la mắng vì bắt chước người Mỹ, con gái
của Harish Harry đã trả lời: “Con có cần bố mẹ sinh con ra đâu. Cô nói: Bố mẹ đẻ con
ra chẳng qua vì sự ích kỷ của bản thân muốn có người hầu hạ chứ gì? Nhưng ở cái đất
nước Mỹ này, chẳng có ai chùi đít không công cho bố đâu” [4, tr. 243].
Có thể nói, trong suốt quá trình thực dân Anh thống trị, người dân Ấn Độ luôn mang
mặc cảm nhược tiểu của một dân tộc thuộc địa. Và để giải tỏa tâm lí mặc cảm, người
dân thuộc địa và cựu thuộc địa thường tìm cách chê bai các dân tộc ở Châu Phi là mọi
rợ hay tự an ủi mình về quá khứ huy hoàng của dân tộc như là cách tìm lại lòng tự tôn
đã mất. Họ loay hoay trước sức quyến rũ của văn hóa ngoại lai và dần đánh mất bản sắc

nguon tai.lieu . vn