Xem mẫu

  1. 66 Journal of Transportation Science and Technology, Vol 18, Feb 2016 THAY ĐỔI TRIẾT LÝ GIÁO DỤC - NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIẢNG DẠY CÁC MÔN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ CHANGING EDUCATIONAL PHILOSOPHY TO IMPROVE THE QUALITY OF TEACHING IN THE SUBJECTS OF POLITICAL THEORY TS. Vũ Ngọc Lanh Khoa Lý luận chính trị Tóm tắt: Bài viết đề cập đến cái gốc của vấn đề nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo nói chung, giảng dạy lý luận chính trị nói riêng, là phải thay đổi triết lý giáo dục. Thấu hiểu triết lý giáo dục là chìa khóa cho chúng ta giải quyết thành công các vấn đề về giáo dục, nhằm nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo. Từ khóa: giáo dục, triết lý giáo dục, nâng cao chất lượng giáo dục, lý luận chính trị. Abstract: The article refers to the origin of improving the quality of education and training in general, teaching political theory in particular. It must change the philosophy of education. Understanding the philosophy of education is the key for us to tackle the problems of education successfully thereby improving the quality of education and training. Keywords: education, philosophy of education, improve the quality of education, political theory. 1. Giới thiệu cập đến cái gốc của vấn đề: nâng cao chất Thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW lượng giáo dục, đào tạo nói chung, giảng dạy ngày 04 tháng 11 năm 2013, tại Hội nghị lần Lý luận chính trị nói riêng, là phải thay đổi thứ VIII của Ban chấp hành Trung ương triết lý giáo dục. Đảng khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện 2. Nội dung giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu công Trước hết, về khái niệm giáo dục, hiện nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh nay có nhiều cách diễn giải khác nhau (do tế thị trường định hướng Xã hội Chủ nghĩa quan niệm phạm vi, giới hạn của vấn đề khác và hội nhập quốc tế. nhau). Nhìn về nghĩa rộng, giáo dục là “sự Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục là hình thành có mục đích và có tổ chức những đổi mới những vấn đề lớn, cốt lõi, cấp thiết, sức mạnh thể chất và tinh thần của con người, từ tư duy, quan điểm đến mục tiêu, hệ thống, hình thành thế giới quan, bộ mặt đạo đức và chương trình giáo dục (nội dung, phương thị hiếu thẩm mỹ cho con người” [7, 33]. pháp, thi, kiểm tra, đánh giá), các chính sách, Với nghĩa rộng nhất, giáo dục bao hàm cơ chế và các điều kiện bảo đảm chất lượng cả giáo dưỡng, dạy học và tất cả các yếu tố giáo dục; đổi mới ở tất cả các cấp học và tạo nên những nét tính cách và phẩm hạnh trình độ đào tạo, kể cả Trung ương và địa của con người, đáp ứng các nhu cầu của kinh phương, ở mối quan hệ giữa nhà trường, gia tế xã hội. Qua đó theo quan niệm của xã hội đình và xã hội. Thông qua công tác này có phát triển hiện nay, giáo dục là cho tất cả mọi thể tạo ra chuyển biến mạnh mẽ về chất người, được thực hiện ở bất cứ không gian và lượng và hiệu quả giáo dục, đáp ứng ngày thời gian nào thích hợp với từng loại đối càng tốt hơn yêu cầu của sự nghiệp xây dựng tượng, bằng các phương tiện dạy học khác và bảo vệ Tổ quốc, nhu cầu học tập của nhân nhau, với các kiểu học tập rất đa dạng, linh dân. Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ hoạt trong đó chủ thể người học đóng vai trò yếu chú trọng trang bị kiến thức (nâng cao “trung tâm”. dân trí) sang tập trung phát triển toàn diện Sự nghiệp giáo dục là trách nhiệm của năng lực và phẩm chất người học (năng lực tất cả các ngành, các cấp, của Nhà nước và công dân). Học đi đôi với hành; lý luận gắn mọi người trong xã hội, chứ không chỉ là với thực tiễn; nhà trường kết hợp với gia đình trách nhiệm riêng của ngành Giáo dục. Để và xã hội. hiểu đúng khái niệm giáo dục, ta vừa phải Trong bài viết này, chúng tôi muốn đề dựa vào các định nghĩa chuẩn đồng thời phải theo dõi sát sao sự phát triển của thực tiễn
  2. 67 TẠP CHÍ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ GIAO THÔNG VẬN TẢI, SỐ 18-02/2016 giáo dục nhằm kịp thời mở rộng nội hàm phát triển cho phù hợp với điều kiện thực tiễn khái niệm, bảo đảm được tính khoa học và sự hiện nay. phát triển phong phú, đa dạng của khái Trong quá trình nghiên cứu, chúng ta niệm… Muôn hiểu thông khái niệm giáo dục thấy có một thực tế ở lịch sử tư tưởng Việt cần phải xuất phát từ các yếu tố có ảnh Nam là Văn – Triết – Sử bất phân và hầu như hưởng đến việc hình thành con người – từ đó không có những nhà tư tưởng chỉ chuyên sâu rút ra những nhân tố trực tiếp có liên quan, về một lĩnh vực nào đó như thế giới quan, ảnh hưởng đến việc giáo dục. nhân sinh quan, lý luận nhận thức,… Và giả Về triết lý giáo dục, đây là một trong sử rằng: Nếu có những nhà triết học nghiên những vấn đề quan trọng cần được nghiên cứu chuyên sâu thì họ cũng không thể đề cập cứu sâu, từ đó mới có thể nâng cao chất được mọi vấn đề trong lĩnh vực nghiên cứu. lượng giáo dục đào tạo. Không chỉ thế có ý Chính vì lý do đó mà ở đây chúng tôi không kiến cho rằng đúng hơn phải là triết học giáo chuyên hướng về nghiên cứu triết học giáo dục. Việc thấu hiểu triết lý giáo dục sẽ cho dục, mà chỉ mong muốn các nhà giáo dục để phép chúng ta nhận thức chính xác những tâm nghiên cứu những vấn đề mang tính chất vấn đề then chốt của giáo dục, đảm bảo tính triết lý, có giá trị đối với sự nghiệp đổi mới hệ thống, nhất quán của các hoạt động giáo giáo dục ở nước ta hiện nay, một triết lý văn dục và có thể xem đó là chìa khóa để giải hóa, giáo dục mà tư tưởng sâu xa ấy là dân quyết thành công các vấn đề giáo dục. Khái giàu; nước mạnh; xã hội dân chủ, công bằng, niệm này được hiểu là: “Những quan điểm, văn minh (mà Nghị quyết Đại hội Đại biểu quan niệm của quá trình nghiên cứu và vận Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI đã dụng các nguyên lý, phương pháp triết học khẳng định), gắn liền với phát triển văn hóa, chung để giải quyết các vấn đề về giáo dục, giáo dục. Song phương hướng cơ bản là là những nguyên tắc phương pháp luận chủ người dân phải được nâng cao trình độ văn yếu làm cơ sở cho việc nghiên cứu khoa học hóa, phải được học tập và phải được giáo và cải tạo thực tiễn giáo dục” [8, 11]. dục. Việt Nam đã hình thành và phát triển Một nền giáo dục hiện đại thể hiện trước nền giáo dục rất sớm, qua đó cũng đã sản hết ở tính hiện đại của triết lý giáo dục mà nó sinh ra nhiều thầy giáo giỏi như Chu Văn An, theo đuổi. Triết lý giáo dục chi phối, chỉ đạo Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm,…Tuy toàn bộ các khâu, các lĩnh vực cụ thể của nhiên chưa có nhiều tác phẩm về triết lý giáo giáo dục: Từ nội dung, phương châm đến dục có hệ thống. Từ xưa việc vận dụng triết phương pháp, tổ chức giáo dục và ảnh hưởng học đã giải quyết thành công nhiều vấn đề đến tất cả các cấp học: Từ tiểu học cho đến thực tiễn, trong đó có cả giáo dục nhưng đại học và trên đại học. chưa thực sự được đúc kết thành kinh nghiệm Nếu xem xét kỹ, chúng ta có thể thấy truyền lại cho thế hệ sau. rằng: Lượng kiến thức trong các sách giáo Để xây dựng triết lý giáo dục Việt Nam khoa vừa quá tải, nặng nề, lại vừa thiếu, cần nghiên cứu các vấn đề giáo dục trong nhưng nếu buộc phải bớt đi, thì bớt đi cái gì, lịch sử tư tưởng và tổng kết, đúc rút kinh nếu buộc phải thêm vào, thì thêm vào bao nghiệm dưới ánh sáng của Chủ nghĩa Mác- nhiêu cho đủ? Điều này, mọi người đều thấy, Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh. Ví như thời phụ huynh học sinh thấy, các thầy cô thấy, phong kiến Việt Nam mặc dù phải chịu ảnh Bộ Giáo dục và Đào tạo “chắc” cũng thấy… hưởng nhiều của tư tưởng giáo dục phong Nhưng, vì sao thấy sai rồi mà mãi vẫn không kiến Trung Hoa, nhưng dưới ảnh hưởng của sửa được và dường như càng sửa thì nội dung văn hóa Việt Nam, tư tưởng giáo dục nước càng rối và nặng thêm! nhà lúc bấy giờ đã tiếp thu ít nhiều Khổng Phải chăng, nguyên nhân chính là vì giáo tuy nhiên vẫn có chọn lọc, cải biến sáng chương trình, sách giáo khoa lâu nay được tạo và mang bản sắc riêng, đó là những vấn biên soạn theo triết lý: Thế giới gồm những đề cần được nghiên cứu, hệ thống hóa và chân lý bất di, bất dịch, đã được định sẵn mà mọi người chỉ biết tuân theo mà sống, học
  3. 68 Journal of Transportation Science and Technology, Vol 18, Feb 2016 tập và làm việc. Lẽ đó mà mọi thành viên cần chí sáng tạo, phù hợp với một xã hội dân chủ, thuộc lòng và suốt đời răm rắp đi theo. Với luôn biến động và đầy nghịch lý… quan niệm như vậy, thầy cô lại ra sức dạy Trong những năm qua chúng tôi thấy, cho kỳ hết kiến thức, những quy chuẩn, việc giảng dạy các môn Lý luận chính trị những chân lý muôn đời đó cho người học… cũng theo triết lý cũ: “cố gắng nhồi nhét” cho Và như thế xã hội mới tồn tại, thống nhất, ổn người học những khái niệm, phạm trù, định và phát triển được. Noi theo triết lý ấy, nguyên lý, quy luật… của Triết học, Kinh tế số lượng sách giáo khoa mà học trò các cấp chính trị,... Xem đó là những yếu tố bất di học cứ thế mà vác nặng còng lưng và số buộc mọi người phải tuân theo trong mọi lượng kiến thức các thầy cô đang cố sức điều kiện, hoàn cảnh, rồi lấy đường lối, chính truyền vào đầu học sinh, sinh viên của chúng sách,...của Đảng làm minh chứng mà chúng ta vẫn ngày càng nặng nề. Thực tế còn nặng tôi vẫn gọi đó là cách “thuyết minh đường gấp mười hoặc hơn nữa. Liệu đó đã là đủ hay lối”. Cách giảng dạy là thế nhưng thực tế xã phải chăng không biết bao giờ đủ… hội lại xuất hiện không ít vụ việc, hành động, Triết lý giáo dục dẫn đến cách thức giáo tệ nạn tham nhũng,…của một bộ phận có dục - như chúng ta đã, đang làm trong nhiều chức có quyền gây mất lòng tin của người năm qua, giỏi lắm cũng sẽ tạo ra những cái dân nói chung, người học nói riêng. Vậy nên máy tinh xảo, bộ nhớ được nạp vào khối người học đã không lý giải được mối quan hệ lượng kiến thức khổng lồ… Do đó làm mụ giữa lý luận với thực tiễn cuộc sống, dẫn đến mị đi bao nhiêu bộ óc đáng thương của người nghi ngờ lý luận, chán ghét việc học các môn học - lớp trẻ chúng ta, khiến họ càng học lý luận…Chính vì vậy, riêng với các môn Lý càng bị bào mòn trí óc…một sự lãng phí sức luận chính trị, việc giảng dạy của thầy cũng lực về cả thể chất lẫn tinh thần, trí tuệ của thế như việc học tập của trò nên thay đổi theo hệ tương lai. triết lý giáo dục mới. Vốn tri thức nhân loại là vô tận, càng Giảng dạy các môn Lý luận chính trị, các ngày càng được bổ sung và phát triển vậy giảng viên trước hết, phải tôn trọng tính kinh làm cách nào để người học tiếp thu, lĩnh hội điển và truyền cho sinh viên những nội dung hiệu quả. Theo chúng tôi, phải thay đổi triết mang tính bản chất, cốt lõi, những vấn đề căn lý giáo dục, thực sự hướng tới một triết lý bản trong các tác phẩm kinh điển của Chủ giáo dục mới, tiên tiến: Trang bị cho con nghĩa Mác-Lênin. Thứ hai, trong quá trình người không phải chủ yếu là tri thức mà là giảng dạy, giảng viên phải cho sinh viên thấu trang bị cho họ phương pháp luận và một hệ hiểu các quan điểm triết học có giá trị tạo nền thống các phương pháp để họ tự biết phải tảng cho tri thức nhân loại, chú ý các chân lý làm gì, làm thế nào để chiếm lĩnh tri thức, tự phổ quát đã được kiểm chứng qua thực tiễn. mình đi tìm lấy những gì mình tin là chân lý. Thứ ba, nội dung bài giảng các môn Lý luận Từ đó họ sẽ sống và làm việc theo những chính trị, ngoài những kiến thức căn bản, chân lý tương đối đang vận động trong thực nguyên lý, quy luật hay sự vận dụng của tiễn cuộc sống. Đảng ta như lâu nay chúng ta vẫn thực hiện, Và một triết lý giáo dục mới để đào tạo cần đưa thêm những vấn đề liên quan đến ra những con người mới sáng tạo tất yếu sẽ cuộc sống thật sự đời thường, đang diễn ra thôi thuc phương pháp giáo dục mới phù hợp của người học, những nhu cầu, mong muốn, ra đời, khác với các phương pháp chúng ta lợi ích… nhằm tạo hứng thú học tập cho họ. đang thực thi. Đó là: Tôn trọng tối đa vai trò Đồng thời, bài giảng cũng rất cần liên hệ trực trung tâm của người học, là chủ thể có tiềm tiếp kịp thời, không né tránh mà phân tích năng, độc lập sáng tạo, cần được giải phóng một cách khoa học những tệ nạn (tham và phát huy không giới hạn. Tôi tin rằng: nhũng), thói hư tật xấu trong đời sống xã hội, Nếu người học theo được phương pháp của với triết lý: “Học đi đôi với hành, giáo dục triết lý giáo dục mới thì họ sẽ là những con kết hợp với lao động sản xuất, nhà trường người tự do, có năng lực tư duy độc lập, có ý gắn liền với xã hội”. Nói cách khác, phải làm sao để người học thấu hiểu và biết chuyển
  4. 69 TẠP CHÍ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ GIAO THÔNG VẬN TẢI, SỐ 18-02/2016 kiến thức đã học thành kỹ năng sống, nhằm vấn đề. Chuyển các tri thức khoa học nói giải quyết được, chí ít là cải thiện được các chung, tri thức triết học nói riêng, thành kỹ vấn đề xảy ra trong cuộc sống, dần hình năng sống, nghĩa là giúp sinh viên tạo lập thành và hoàn thiện nhân cách người học. cho bản thân 10 yếu tố cấu thành kỹ năng Việc giảng dạy các môn Lý luận chính trị là sống đó. Có thể thấy, cái cần trang bị cho phải cho người học thấu hiểu: Học để biết, người học không phải là khả năng tính toán học để làm việc, để chung sống và quan mà là tư duy khoa học, định hình rõ nét, liên trọng hơn hết là học để làm người. hệ những khái niệm, phạm trù triết học với Chẳng hạn, môn Triết học - cơ sở thế thực tế khách quan để phát triển. Mỗi loại tri giới quan khoa học, phương pháp luận đúng thức khoa học khác nhau, nếu lĩnh hội được, đắn cho nhận thức và hoạt động thực tiễn của sẽ giúp ta hình thành những kỹ năng sống cụ con người. Từ đó sinh viên hiểu thế nào là thể, khác nhau. thế giới, nhận thức được mình ở trong mối 3. Kết luận quan hệ với thế giới và làm cho nơi ấy trở an Chúng ta phải chủ động và kiên quyết toàn và thân thiện hơn. Triết học cũng cung thay đổi triết lý giáo dục, từ đó thay đổi cấp cho sinh viên những phương pháp luận phương pháp giảng dạy theo hướng tích cực rất quan trọng trong cuộc sống, để sinh viên mới hy vọng nâng cao được chất lượng giáo nhận thức được lý luận, chuyển những tri dục. Một số vấn đề cần được trao đổi, thảo thức đó thành kỹ năng sống của bản thân, luận thêm: góp phần làm nên cốt cách con người.  Về lý luận - logic của vấn đề: Khi mà Sống được xem là bản năng sinh vật, còn Đảng ta đã có Nghị quyết số 29-NQ/TW kỹ năng sống, có thể được xem là tập hợp các ngày 04 tháng 11 năm 2013 Hội nghị lần kỹ thuật được chuẩn hoá thành “luật sống” VIII Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa của con người. Theo Bách khoa toàn thư mở XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và Wikipedia, kỹ năng sống là tập hợp các khả đào tạo đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, năng kỹ thuật mà con người có được thông hiện đại hóa… Và tiếp theo là: Ai (chủ thể qua hoạt động giảng dạy - học tập hoặc kinh nào) thay đổi triết lý giáo dục để thay đổi nghiệm trực tiếp được sử dụng để xử lý phương pháp giảng dạy, giáo dục? những vấn đề, câu hỏi thường gặp trong cuộc  Về thực tiễn, hiện nay thay đổi triết lý sống hàng ngày của con người. Kỹ năng sống giáo dục phải bắt đầu từ đâu? Thay đổi triết còn là "sự thích nghi và hành vi tích cực cho lý giáo dục như thế nào, thực sự là vấn đề phép cá nhân có khả năng ứng phó hiệu quả quan trọng  với nhu cầu và thách thức của cuộc sống hàng ngày" (WHO - Tổ chức Y tế Thế giới) Tài liệu tham khảo Trong lĩnh vực Giáo dục, kỹ năng sống có [1] Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 2, Khóa VIII. thể được xem là một tập hợp những khả năng [2] Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, được rèn luyện và đáp ứng các nhu cầu cụ Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu, Khóa XI. thể của cuộc sống hiện đại; ví dụ cuộc sống [3] Bộ Giáo dục và Đào tạo (2011), Thống kê của Bộ Giáo dục và Đào tạo. bao gồm quản lý tài chính (cá nhân), chuẩn [4] Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết số 29-NQ/TW bị thức ăn,…Trong thực tế, kỹ năng sống có ngày 04 tháng 11 năm 2013, Hội nghị lần thứ tám Ban sự khác biệt, rộng hơn so với các kỹ năng chấp hành Trung ương Đảng khóa XI. nghiệp vụ (trong nghề nghiệp). Kỹ năng sống [5] Vũ Gia Hiền (2013), Kỹ năng giao tiếp, NXB Lao được chia thành hai loại là kỹ năng tâm lý xã Động [6] Nguyễn Sinh Huy, Nguyễn Văn Lê, (1997), Giáo dục hội và kỹ năng cá nhân: lĩnh hội và tư duy; đại cương, Nxb. Giáo dục, Hà Nội. với 10 yếu tố: Tự nhận thức; tư duy sáng tạo; [7] Lương Hoài Nam (2015), Kẻ trăn trở, NXB Thế Giới. kỹ năng giao tiếp ứng xử với người khác; [8] Tạp chí Giáo dục (03/2003), Tìm hiều giáo dục Việt ứng phó với các tình huống căng thẳng và Nam, số 54 cảm xúc; biết cảm thông; tư duy bình luận và Ngày nhận bài: 22/12/2015 phê phán; giao tiếp hiệu quả; cách thương Ngày chấp nhận đăng: 06/01/2016 thuyết; cách quyết định; kỹ năng giải quyết Phản biện: ThS. Lê văn Hợp
nguon tai.lieu . vn