Xem mẫu
- THÁO GỠ RÀO CẢN PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG
KHỞI NGHIỆP KHU VỰC NÔNG THÔN
PGS.TS. Kiều Hữu Thiện
Học viện Ngân hàng
Tóm tắt
Khởi nghiệp đã khó nhưng khởi nghiệp trong khu vực nông thôn còn khó
hơn, vì đây là lĩnh vực đầy rủi ro cần đầu tư lâu dài. Nông dân muốn khởi nghiệp
phải được hỗ trợ đầy đủ 5 yếu tố về đất đai, vốn, nguồn nhân lực, ứng dụng khoa
học công nghệ, cơ sở hạ tầng đi kèm. Những điều kiện này nông dân không thể
làm được một mình mà cần sự đồng hành của Đảng, Nhà nước, các bộ ngành và
cả hệ thống chính trị vào cuộc. Câu hỏi đặt ra hiện nay là làm thế nào để tháo gỡ
rào cản nhằm phát triển hoạt động khởi nghiệp trong khu vực nông thôn, qua đó
không những giúp người dân có công ăn việc làm tăng thu nhập mà còn góp
phần thực hiện chương trình mục tiêu nông thôn mới ở Việt nam hiện nay. Bài
viết sẽ tập trung nghiên cứu: (i) Hoạt động khởi nghiệp ở khu vực nông thôn Việt
Nam hiện nay, (ii) Rào cản đối với hoạt động khởi nghiệp tại khu vực nông thôn
và (iii) một số vấn đề đặt ra trong thời gian tới.
Từ khóa: Hoạt động khởi nghiệp khu vực nông thôn, tài chính vi mô
1. Hoạt động khởi nghiệp khu vực nông thôn
Nhận được sự quan tâm của lãnh đạo Đảng và Nhà nước cũng như ý chí
khát vọng vươn lên làm giàu của các tầng lớp dân chúng trong xã hội, đặc biệt là
trong giới trẻ, khởi nghiệp trong nông nghiệp hiện nay đang dần trở thành một xu
hướng mới tại Việt Nam. Ngày càng nhiều các công ty đầu tư vào lĩnh vực nông
nghiệp, nhiều bạn trẻ sẵn sàng từ bỏ cơ hội được làm tại các doanh nghiệp lớn để
về quê hương khởi nghiệp trong lĩnh vực nông nghiệp, những năm gần đây, cụm
từ “khởi nghiệp” được nhắc đến nhiều và rất phổ biến ở Việt Nam. Theo kết quả
khảo sát trong mạng lưới khởi nghiệp toàn cầu, có 76% người trưởng thành Việt
Nam cho rằng doanh nhân là một nghề được xã hội tôn trọng, 74% số người
trưởng thành có mong muốn trở thành doanh nhân, và cứ 1 trong 5 người trưởng
thành ở Việt Nam thì có 1 người có kế hoạch sẽ khởi nghiệp trong 3 năm tới
(Bảo Ngọc, 2017). Tại các vùng nông thôn, hoạt động khởi nghiệp cũng không
kém phần sôi động với hàng loạt các tấm gương với ý chí khát vọng mạnh mẽ
vươn lên làm giàu thông qua việc áp dụng các tiến bộ kỹ thuật mới trong canh
tác cây trồng, vật nuôi cho năng suất, chất lượng và hiệu quả cao. Thậm chí có
những gương thanh niên từ chối các công việc tại các thành phố lớn với mức thu
361
- nhập cao trở về nông thôn tiến hành khởi nghiệp và có những thành công rất
đáng khích lệ. Những năm qua, triển khai thực hiện chương trình mục tiêu quốc
gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010-2020 theo Quyết định số 800/QĐ-
TTG của Thủ tướng Chính phủ thì điều kiện hạ tầng các vùng nông thôn Việt
Nam có những bước cải thiện rất đáng kể - đây chính là tiền đề để khuyến khích
và thúc đẩy khởi nghiệp khu vực nông thôn. Tuy vậy, điều kiện hạ tầng tốt mới
chỉ là điều kiện ban đầu cho hoạt động kinh doanh, các điều kiện khác như vốn
tài chính, chất lượng nguồn nhân lực cũng có tầm quan trọng đặc biệt cho việc
khởi nghiệp. Với những tiềm năng lợi thế lớn về tự nhiên cho phép phát triển các
hoạt động nuôi trồng, khai thác, chế biến nông sản, thủy hải sản, khai thác phát
triển hoạt động du lịch sinh thái, văn hóa, tâm linh…, nếu được đầu tư khái thác
tốt gắn với chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng Nông thôn mới thì khu
vực nông thôn Việt Nam sẽ có sự phát triển bền vững. Hoạt động khởi nghiệp
khu vực nông thôn nếu được khuyến khích thúc đẩy sẽ là biện pháp khai thác tốt
nhất các tiềm năng thế mạnh này trong khu vực nông thôn. Tuy vậy, thực tiễn
cho thấy, khởi nghiệp tại Việt Nam dù đã phát triển và khởi tạo song chủ yếu vẫn
ở các thành phố lớn, trong lĩnh vực công nghệ thông tin, công nghệ ứng dụng,
còn đối với nhiều ngành, nghề khởi nghiệp vẫn còn khiêm tốn, nhận thức khởi
nghiệp còn mơ hồ và thấp (Nguyễn Tuyền, 2016).
Vài năm trở lại đây, chính phủ Việt Nam kh ng định quan điểm nhất quán là
khuyến khích, thúc đẩy hoạt động khởi nghiệp với những kết quả đạt được tương
đối khả quan, thể hiện ở việc các doanh nghiệp thành lập mới gia tăng nhanh.
H nh 1. Diễn biến số lượng doanh nghiệp giai đoạn từ tháng 5/2016
đến tháng 5/2017
Nguồn: https://dangkykinhdoanh.gov.vn/
362
- Mặc dù số lượng doanh nghiệp thành lập mới và giải thể liên tục diễn biến
trong giai đoạn 5/2016-5/2017 nhưng nhìn chung số lượng doanh nghiệp thành
lập mới luôn lớn hơn số lượng doanh nghiệp bị giải thể. Tuy vậy, “thể trạng” các
doanh nghiệp đang khá yếu: trong gần nửa triệu doanh nghiệp hiện đang hoạt
động, có tới 97% có quy mô vừa và nhỏ, 60% có quy mô rất nhỏ, với vốn đầu tư
thấp, trang thiết bị lạc hậu, nên hiệu quả kinh doanh không cao, lợi nhuận thấp,
điều này dẫn tới kết quả là mặc dù số lượng doanh nghiệp tăng nhanh song sự
phát triển không có nền tảng bền vững. Số lượng doanh nghiệp thành lập mới
tăng kỷ lục nhưng đóng góp vào tăng trưởng kinh tế quý 1-2017 gần như không
đáng kể. Năm 2016 có hơn 110.000 doanh nghiệp được thành lập, theo Bộ Kế
hoạch và Đầu tư. Tuy nhiên, chỉ có 41% trong số này đi vào hoạt động và tạo ra
doanh thu tính tới quý 1-2017; trong khi hơn 60.000 doanh nghiệp còn lại gần
như chưa tạo ra tác động đến bức tranh kinh tế nói chung. (Tư Hoàng, 2017).
Như vậy, vấn đề đặt ra hiện nay vẫn là phải có các giải pháp cần thiết và hiệu quả
nhằm tăng sức sống cho các doanh nghiệp khởi nghiệp thông qua cơ chế chính
sách gắn với các hỗ trợ đủ liều lượng, chủ yếu hướng vào các doanh nghiệp khởi
nghiệp khu vực nông thôn. Mặt khác, các cơ chế chính sách và sự hỗ trợ này
cũng cần hướng tới các doanh nghiệp khởi nghiệp gắn với các hoạt động bao tiêu
sản phẩm trong khu vực nông thôn, qua đó tạo hiệu ứng chính sách thúc đẩy khu
vực nông nghiệp gắn với thực thi chiến lược nông thôn mới của Đảng và Nhà
nước đề ra.
2. Các rào cản đối với hoạt động khởi nghiệp
Rào cản lớn nhất mà doanh nghiệp nói chung, trong đó đặc biệt là các
doanh nghiệp khởi nghiệp Việt Nam đang gặp phải chính là chi phí đầu vào bao
gồm giá xăng, điện, nước, nhân công... Có đến 61% doanh nghiệp kh ng định
đây là lí do khiến họ chậm phát triển, khó phát triển trong thời gian qua. Bên
cạnh đó, biến động nhu cầu thị trường sản phẩm và sự trỗi dậy của đối thủ cũng
là những khó khăn lớn đối với doanh nghiệp khởi nghiệp.
363
- H nh 2. Những rào cản phát triển doanh nghiệp Việt Nam
giai đoạn 2012-2015
Nguồn: An Nhiên, 2016
Về các quy định của Chính phủ: Có tới 22% doanh nghiệp được khảo sát
cho rằng chính các quy định của Chính phủ lại trở thành rào cản phát triển doanh
nghiệp1. Mặc dù Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ luôn nhấn mạnh quan điểm
“kiến tạo” một môi trường bình đ ng để khuyến khích các doanh nghiệp khởi
nghiệp, song đâu đó thông điệp này chưa được chuyển tải đúng tới các sở, ngành,
các cấp chính quyền địa phương nên các quy định đưa ra đâu đó vẫn gây khó
khăn cho các doanh nghiệp hoạt động, đặc biệt là các thủ tục hành chính còn khá
nhiêu khê với 33,9% số doanh nghiệp than vãn về vấn đề này.
Bên cạnh các khó khăn trên đây thì các doanh nghiệp khởi nghiệp vẫn rất
khó khăn về nguồn vốn do vốn tự có hạn chế trong khi lại rất khó khăn trong tiếp
cận nguồn vốn tín dụng chính thức cũng như các dịch vụ tài chính khác. Cho dù
trong thời gian vừa qua, Chính phủ và các cơ quan chức năng đã có nhiều giải
pháp hỗ trợ doanh nghiệp trong việc tiếp cận tín dụng: thúc giục các NHTM tăng
1
Tại buổi đối thoại trực tiếp giữa Thủ tướng Chính phủ với các doanh nghiệp tư nhân ngày
31/7/2017 tại Hà Nội, một số ý kiến cho rằng các chủ doanh nghiệp Việt Nam đang phải đương đầu
với rất nhiều vấn đề, tốn nhiều thời gian, công sức và chi phí, ch ng hạn, việc đóng thuế rất khó khăn,
cần có một loạt các giấy phép con để thực hiện các công việc đơn giản, các thủ tục xuất nhập khẩu
phức tạp và không rõ ràng, sự phối hợp giữa các bộ ngành hoặc giữa chính quyền trung ương và địa
phương thiếu đồng bộ…(Tư Giang, 2017)
364
- cho vay tín chấp, ban hành Nghị định 59/2009/NĐ - CP để đưa ra chủ trương và
chính sách hỗ trợ doanh nghiệp theo ngành nghề và địa phương, kêu gọi thành
lập vườm ươm doanh nghiệp, quỹ bảo lãnh tín dụng DN. Các năm 2014 và 2015,
NHNN cũng kêu gọi các NHTM chủ động tiếp cận khách hàng có nhu cầu vay
vốn, bật đèn xanh cho NHTM thúc đẩy cho vay tín chấp, kêu gọi ngân hàng cải
thiện hệ thống nội bộ xếp hạng khách hàng. Chính phủ cũng thúc đẩy các bộ,
ngành như NHNN, Bộ Tài chính, Kế hoạch và Đầu tư, Công Thương tiếp tục
hoàn thiện và thực hiện các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ... nhưng
thực tế cho thấy nhiều doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp khởi nghiệp khu
vực nông thôn rất khó khăn trong việc tiếp cận vốn tín dụng. Theo Chủ tịch Hiệp
hội doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam thì chỉ khoảng 30% các doanh nghiệp
này có thể tiếp cận được vốn tín dụng ngân hàng bởi lý do là đa phần doanh
nghiệp vừa và nhỏ thiếu các điều kiện để ngân hàng yên tâm khi cho vay, như
thiếu tài sản thế chấp, năng lực quản trị doanh nghiệp chưa cao, dự án chưa thực
sự lớn và đáng tin cậy… Còn ngân hàng thì vẫn chủ yếu huy động vốn ngắn hạn,
trong khi doanh nghiệp cần vay dài hạn.
Mặt khác qua nghiên cứu chỉ ra rằng, việc tiếp cận đất nông nghiệp khi
triển khai dự án đầu tư gặp khó khăn do một số quy định của Luật Đất đai năm
2013 bộc lộ bất cập, cản trở nhu cầu tích tụ, tập trung ruộng đất, pháp luật đất đai
hiện hành chưa quy định rõ vai trò của Nhà nước trong hỗ trợ doanh nghiệp thuê
lại hoặc nhận góp vốn bằng quyền sử dụng đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá
nhân cho nên việc triển khai các dự án đầu tư của doanh nghiệp sản xuất nông
nghiệp quy mô lớn trên thực tế còn nhiều khó khăn, thậm chí “bế tắc” trong một
số trường hợp liên quan công tác giải phóng mặt bằng. Ngoài ra, chưa hình thành
khung pháp lý cần thiết về việc chính quyền thuê đất của hộ gia đình, cá nhân,
sau đó cho doanh nghiệp thuê lại, một số quy định của pháp luật đất đai thiếu
thống nhất, chưa rõ ràng trong mối quan hệ với các quy định khác có liên quan…
3. Vấn đề đặt ra và khuyến nghị chính sách
3.1. Những vấn đề đ t ra
Qua nghiên cứu thực trạng khởi nghiệp khu vực nông thôn Việt Nam
những năm qua có thể thấy rằng mặc dù hoạt động này được Chính phủ quan tâm
cũng như khát vọng khởi nghiệp là khá lớn trong một bộ phận dân chúng, đặc
biệt là giới trí thức trẻ xuất thân từ các vùng nông thôn, song hoạt động này vẫn
còn khá nhiều tồn tại, bất cập, đặt ra những vấn đề cần quan tâm xử lý:
365
- Thứ nhất, mặc dù Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ đã đưa ra thông điệp
khuyến khích hoạt động khởi nghiệp thông qua việc xây dựng Chính phủ kiến
tạo, liêm chính, hành động vì sự phát triển của người dân, doanh nghiệp, song
thực tế cho thấy rằng hoạt động khởi nghiệp vẫn còn gặp rất nhiều rào cản. Kết
quả khảo sát của Diễn đàn Kinh tế Tư nhân Việt Nam cũng cho thấy chỉ có 33-
37% doanh nghiệp nhìn thấy những thuận lợi trong ngành kinh doanh của mình,
có tới 44% doanh nghiệp đã từng lỡ cơ hội vì rào cản pháp lý và hạn chế thị
trường, do giấy phép có quá nhiều thủ tục; khởi nghiệp khó hoặc không xin được
giấy phép do ngành nghề kinh doanh không có trong danh mục; giấy phép
chuyên ngành xuất nhập khẩu nhiều và phức tạp; thủ tục hành chính phiền hà;
tiếp cận đất đai, vốn khó khăn; chính sách thuế, bảo hiểm còn nhiều bất cập...
(Khánh An, 2017)
Thứ hai, chất lượng nguồn nhân lực hỗ trợ cho hoạt động khởi nghiệp khu
vực nông thôn còn khá nhiều bất cập. Chất lượng nguồn nhân lực trong hoạt
động khởi nghiệp càng cao thì những rủi ro tiềm ẩn gắn với hoạt động khởi
nghiệp càng được giảm thiểu. Thường thì chất lượng nguồn nhân lực trong các
khu vực nông thôn Việt Nam bị hạn chế đáng kể nếu so sánh với các khu vực đô
thị, do vậy nó tạo ra rào cản lớn cho các hoạt động khởi nghiệp. Chính vì vậy, để
cho các hoạt động khởi nghiệp ở khu vực nông thôn thành công thì không thể
thiếu được các hoạt động hỗ trợ đào tạo khởi nghiệp2. Thường thì hoạt động này
được tiến hành thông qua các Hội nghề nghiệp hoặc trực tiếp Nhà nước đứng ra
tổ chức các lớp hướng dẫn, các buổi Hội thảo/Tọa đàm dưới sự chủ trì của các
chuyên gia, nhà quản lý chuyên ngành. Các hoạt động hỗ trợ không chỉ liên quan
đến hoạt động kinh doanh mà còn phải chú ý đào tạo, hướng dẫn về quản lý, đầu
tư tài chính cá nhân, kỹ thuật phòng vệ rủi ro… chỉ có như vậy thì các nhà khởi
nghiệp mới có thể vững tin trong hoạt động khởi nghiệp của họ. Để các hoạt
động đào tạo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho các dự án khởi nghiệp tại
khu vực nông thôn thì không thể thiếu vai trò của hoạt động TCVM thông qua
việc hỗ trợ tài chính cho các hoạt động đào tạo, hội thảo/tọa đàm nói chuyện
chuyên đề về vấn đề khởi sự doanh nghiệp cũng như vấn đề quản lý tài chính và
2
Theo thống kê thì chỉ khoảng 4,3% thanh niên Việt Nam tốt nghiệp cao đ ng, đại học, nhưng khu
vực nông thôn thì tỷ lệ này còn thấp hơn nhiều, tỷ lệ thanh niên chưa tốt nghiệp tiểu học lên tới
10,7%. Nhiều địa phương ở vùng miền núi phía Bắc, Tây Nguyên và Tây Nam Bộ, nơi có điều kiện
kinh tế khó khăn có trên 50% thanh niên lứa tuổi 16-19 ngừng học. (Mỹ Hà, 2016). Do vây, việc đào
tạo hướng dẫn cho người dân khu vực nông thôn các kỹ năng hoạt động kinh doanh nói chung, trong
đó đặc biệt là kỹ năng về quản lý tài chính là rất quan trọng trong hoạt động khởi nghiệp
366
- phòng ngừa rủi ro trong hoạt động, mặc dù những năm qua công tác đào tạo của
Việt Nam đã được chú ý nhằm từng bước nâng cao chất lượng nguồn nhân lực,
song thực tế thì chất lượng nguồn nhân lực của Việt Nam vẫn còn khá nhiều bất
cập, chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn sử dụng lao động, nhất là lao động
trong các khu vực công nghệ cao (Quỳnh Lam, 2015). Kết quả khảo sát của
Vietnam Report 2015 cho thấy có tới khoảng trên 40% ý kiến doanh nghiệp cho
rằng các yếu tố liên quan đến thị trường lao động của Việt Nam là kém và rất
kém, trong đó chủ yếu vẫn là các đánh giá về kỹ năng, kinh nghiệm nghề nghiệp
còn bất cập. Đối với việc bố trí nguồn vốn ngân sách, cần tiếp tục lồng ghép các
chương trình, đồng thời tích cực huy động các nguồn vốn khác, đảm bảo nguyên
tắc không áp dụng các chính sách hỗ trợ đại trà, có chính sách ưu đãi chung và
chính sách ưu đãi riêng; tập trung tạo quỹ đất sạch ở địa phương cho phát triển
nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, quy mô lớn hướng đến xuất khẩu đối với
các doanh nghiệp lớn; có chính sách hỗ trợ doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ
tham gia đầu tư sản xuất nông sản cung cấp cho thị trường nội địa hoặc tham gia
vào chuỗi giá trị xuất khẩu; có chính sách đặc thù, cụ thể cho các doanh nghiệp
khởi nghiệp nông nghiệp, các doanh nghiệp đầu tư vào các vùng có địa bàn khó
khăn. Trên cơ sở đó xây dựng các ưu đãi chung (bảo hiểm nông nghiệp, đào tạo,
xúc tiến đầu tư, xúc tiến thương mại,...) và ưu đãi riêng cho doanh nghiệp (chính
sách tín dụng, chính sách thuế...) và theo từng giai đoạn (hình thành, đầu tư vào
dự án, giai đoạn sản xuất; giai đoạn tiêu thụ sản phẩm).
Hình 3. Kết quả khảo sát hạ tầng kinh tế của Việt Nam
Nguồn: Vietnam Report, 2015
367
- Kết quả trên đây mặc dù chỉ là để tham khảo do đối tượng khảo sát là các
doanh nghiệp lớn, nhưng nó cũng giúp minh chứng thêm cho nhận định trước đó
về chất lượng nguồn nhân lực của Việt Nam hiện nay.
Hoạt động khởi nghiệp hiện nay ở Việt Nam chủ yếu vẫn hướng vào các
khu vực đòi hỏi công nghệ cao và để đáp ứng những kỳ vọng của Nhà nước về
khởi nghiệp gắn với cuộc cách mạng công nghệ 4.0 thì càng có những đòi hỏi
khắt khe hơn về chất lượng nguồn nhân lực, bao hàm cả năng lực nghề nghiệp
cũng như ý thức tuân thủ kỷ luật lao động.
Thứ ba, hoạt động khởi nghiệp là hoạt động có tính mạo hiểm cao trên cơ
sở các nhận thức của nhà đầu tư về cơ hội đầu tư sinh lợi, do vậy sẽ rất khó khăn
trong việc định hướng hoạt động này. Tuy nhiên, trong một nền kinh tế thì tất cả
các hoạt động đều phải được quản lý nhằm bảo đảm chúng tuân thủ mục tiêu kinh
tế xã hội mà Chính phủ kỳ vọng trên cơ sở một sự phối kết hợp hiệu quả giữa tất
cả các doanh nghiệp, tổ chức nhằm khai thác và phát huy tốt nhất các tiềm năng và
lợi thế trong nền kinh tế, tránh các hành vi cạnh tranh quá mức dẫn tới mất ổn định
môi trường kinh tế vĩ mô. Làm thế nào để có thể định hướng tốt hoạt động khởi
nghiệp vẫn đang là đòi hỏi cấp thiết nhằm khai thác, sử dụng tốt nhất các nguồn
lực trong nền kinh tế để phát triển kinh tế xã hội. Với khu vực nông thôn, để hoạt
động khởi nghiệp đúng định hướng của Chính phủ thì nên lồng ghép hoạt động
này với việc thực hiện chương trình mục tiêu Nông thôn mới.
Thứ tư, trong điều kiện hiện nay gắn với cuộc cách mạng kỹ thuật công
nghệ 4.0 thì hoạt động khởi nghiệp sẽ càng khó khăn do nó đòi hỏi nguồn vốn hỗ
trợ hoạt động này lớn hơn nhưng hiện nay vốn vẫn là khó khăn mang tính thách
thức đối với hầu hết các doanh nghiệp khởi nghiệp Việt Nam.
Hình 2 cho thấy rằng mặc dù chỉ khoảng 11,9% các doanh nghiệp được
khảo sát cho rằng họ khó tiếp cận dịch vụ tài chính nhưng quy mô doanh nghiệp
khác nhau cũng quyết định cơ hội tiếp cận tín dụng chính thức. Kết quả khảo sát
từ PCI 2015 cho thấy trong số các doanh nghiệp trả lời khảo sát, tỷ lệ các doanh
nghiệp nhỏ và vừa có khoản vay từ ngân hàng là thấp hơn đáng kể so với doanh
nghiệp quy mô lớn: trung bình chỉ có 40% số doanh nghiệp siêu nhỏ tiếp cận
được nguồn vốn ngân hàng. Con số này ở doanh nghiệp nhỏ là 62%, 74% số
doanh nghiệp vừa và lên tới 81% đối với các doanh nghiệp quy mô lớn (Văn
Nguyễn, 2017). Hiện chỉ khoảng 30% - 40% doanh nghiệp nhỏ và vừa tiếp cận
được với nguồn vốn từ ngân hàng, 70% còn lại phải sử dụng nguồn vốn tự có
hoặc vay từ nguồn vốn khác với chi phí rất cao (Nguyên Mạnh, 2016). Các
doanh nghiệp khởi nghiệp hầu hết đều có quy mô nhỏ hoặc siêu nhỏ và điều này
cũng có nghĩa rằng cơ hội thành công trong kinh doanh sẽ không cao, khả năng
368
- “chết yểu” sẽ lớn nếu những trở ngại trong tiếp cận vốn tín dụng chính thức
không được dỡ bỏ trong điều kiện các nguồn vốn hỗ trợ chính thức khác cho hoạt
động khởi nghiệp là tương đối thấp. Điều này đang đặt ra yêu cầu cấp thiết phải
có các biện pháp hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp khởi nghiệp. Thực tế là các
doanh nghiệp khởi nghiệp khu vực nông thôn đa phần quy mô nhỏ do thiếu vốn
đầu tư và vì quy mô nhỏ, hoạt động có tính mạo hiểm cao nên các NHTM rất khó
khăn khi đưa ra các quyết định cho vay. Đặt trong điều kiện xử lý nợ xấu còn rất
khó khăn thì chúng ta không thể và không nên trách cứ các NHTM khi họ phải e
ngại khi cho vay doanh nghiệp khởi nghiệp. Chính vì vậy, Chính phủ phải tìm
giải pháp đúng để xử lý khó khăn về vốn cho các doanh nghiệp khởi nghiệp. Với
việc gắn các chương trình khuyến khích hoạt động khởi nghiệp khu vực nông
thôn với việc thực hiện chương trình mục tiêu xây dựng Nông thôn mới sẽ giúp
xử lý tốt hơn các yêu cầu về vốn tài chính của các doanh nghiệp khởi nghiệp nếu
như các doanh nghiệp này giúp triển khai thực hiện các chương trình mục tiêu
hướng tới tại các khu vực nông thôn.
Thứ năm, hoạt động khởi nghiệp là hoạt động mang tính chất cá biệt cao trên cơ
sở nhận thức được các cơ hội đầu tư sinh lời của từng cá nhân hay tổ chức và do vậy
chủ yếu phải do cá nhân hay tổ chức tự bỏ vốn đầu tư, tự khai thác thị trường các yếu
tố đầu vào - đầu ra trong hoạt động kinh doanh, nhưng nếu như hoạt động này nhận
được sự hậu thuẫn cần thiết thì khả năng tồn tại và phát triển sẽ cao hơn.
3.2. Một số khuyến nghị chính sách
Thứ nhất, thúc đẩy khởi nghiệp là một chủ trương đúng đắn của Chính phủ
nhằm tạo ra một đội ngũ doanh nhân hùng hậu làm nền tảng phát triển kinh tế đất
nước trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế diễn ra rất sâu sắc hiện nay và trong
tương lai. Tuy nhiên, do đây là hoạt động có mức độ rủi ro cao, đặc biệt là hoạt
động khởi nghiệp ở khu vực nông thôn, do chịu sự tác động của các yếu tố thời
tiết, mùa vụ,… nên Chính phủ cần tạo lập môi trường kinh doanh ổn định cũng
như thiết kế hệ thống các cơ chế chính sách để khuyến khích doanh nghiệp khởi
nghiệp, đặc biệt là các chính sách có liên quan đến yếu tố ổn định thị trường đầu
vào – đầu ra. Quan trọng hơn, Chính phủ cần có các chính sách nhằm định hướng
hoạt động khởi nghiệp theo mục tiêu mà Chính phủ kỳ vọng thông qua đưa ra các
thông điệp chính sách cũng như hỗ trợ nguồn lực đủ mạnh, bao gồm cả nguồn lực
tài chính (hỗ trợ vốn thông qua lồng ghép với việc thực hiện chiến lược mục tiêu
xây dựng nông thôn mới, chính sách miễn giảm thuế) và phi tài chính.
Thứ hai, từ thực tiễn hoạt động của các doanh nghiệp khởi nghiệp thời gian
qua cho thấy rằng mặc dù số lượng doanh nghiệp ngày càng tăng lên rất nhanh
nhưng thể trạng doanh nghiệp còn rất yếu, chủ yếu các doanh nghiệp khởi nghiệp
369
- có quy mô nhỏ và siêu nhỏ, đóng góp đối với sự phát triển kinh tế xã hội rất hạn
chế. Thực trạng này do sự chi phối của nhiều nhân tố, trong đó chủ yếu vẫn do
chi phí đầu vào trong hoạt động kinh doanh quá cao, thủ tục hành chính còn chưa
phù hợp, các cơ chế chính sách cũng chưa thực sự tạo thuận lợi cho doanh
nghiệp hoạt động, đặc biệt, các doanh nghiệp khởi nghiệp khu vực nông thôn rất
khó khăn về vốn hoạt động nhưng việc tiếp cận tín dụng từ các kênh chính thống
rất khó khăn. Nghiên cứu các giải pháp tài chính nhằm tháo gỡ những khó khăn
về thủ tục hành chính cũng như tạo ra các cơ chế thuận lợi trong tiếp cận các dịch
vụ tài chính chính thức đang được đặt ra rất cấp thiết hiện nay và trong tương lai
gần. Chính phủ nên đưa ra các biện pháp quyết liệt hơn nữa để tạo lập một môi
trường thực sự có tính chất “kiến tạo”. Hơn nữa, nhằm định hướng các hoạt động
đầu tư theo đúng kỳ vọng thì Chính phủ cần thường xuyên đưa ra các thông điệp
về định hướng ưu tiên đầu tư, các cơ hội tiếp cận những ưu đãi từ phía Chính phủ
theo các định hướng ưu tiên này, bao gồm những ưu tiên về các cơ hội tiếp cận
các dịch vụ “đầu vào” và “đầu ra” với chi phí thấp.
Thứ ba, thành lập Quỹ đầu tư mạo hiểm nhằm hỗ trợ vốn cho các doanh
nghiệp khởi nghiệp khu vực nông thôn. Quỹ đầu tư mạo hiểm có thể được thành
lập thông qua việc sử dụng nguồn vốn thu hồi từ việc thoái vốn khỏi các DNNN.
Về nguyên tắc thì nguồn vốn thu về từ việc thoái vốn khỏi các DNNN vẫn phải
tiếp tục được tái đầu tư bởi chỉ có như vậy thì vai trò kinh tế của Nhà nước mới
tiếp tục được kh ng định và củng cố. Nhưng nếu nguồn vốn này Nhà nước lại đem
đầu tư xây dựng các DNNN khác thì có thể hiệu quả không cao. Nhưng nếu như
nguồn vốn này được sử dụng nhằm hình thành nên quĩ đầu tư mạo hiểm để hỗ trợ
quá trình khởi nghiệp thì sẽ đem lại hiệu quả cao, bởi vì: (i) sử dụng quỹ mạo hiểm
Nhà nước hỗ trợ cho các hoạt động khởi nghiệp sẽ làm tăng niềm tin cho các
doanh nghiệp khởi nghiệp, từ đó, kích thích các nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư; (ii)
thông qua các thông điệp về quan điểm ưu tiên, cơ chế chính sách ưu đãi Nhà nước
sẽ định hướng được các hoạt động khởi nghiệp theo kỳ vọng gắn các mục tiêu phát
triển kinh tế xã hội trong từng giai đoạn mà Nhà nước đã hoạch định. Đây là cách
tốt nhất để làm tăng tính hiệu lực của các chiến lược, mục tiêu phát triển kinh tế xã
hội cũng như phát huy liên kết công – tư trong hoạt động đầu tư phát triển kinh tế
xã hội3; (iii) Nhà nước sẽ tham gia sâu vào các doanh nghiệp khởi nghiệp thông
3
Ch ng hạn, nếu như có quĩ đầu tư mạo hiểm của Nhà nước thì có thể thông qua hoạt động hỗ
trợ vốn đầu tư sẽ khuyến khích các doanh nghiệp khởi nghiệp khu vực nông thôn, đưa ra các chính
sách ưu đãi đặc biệt với các doanh nghiệp khởi nghiệp hỗ trợ “đầu vào” và “đầu ra” các sản phẩm
nông nghiệp, bao gồm cả các doanh nghiệp kinh doanh lẫn các định chế tài chính, bảo hiểm, khi đó,
những khó khăn trong sản xuất kinh doanh khu vực nông nghiệp và nông thôn sẽ từng bước được
tháo gỡ hiệu quả thay vì phải loay hoay đi tìm cách xử lý từng tình huống phát sinh riêng rẽ trong khu
vực này như hiện nay.
370
- qua xét duyệt nhân sự ở các doanh nghiệp này, thậm chí sẽ đề cử nhân sự tham gia
quản trị doanh nghiệp khởi nghiệp - đây là biện pháp tốt nhất để định hướng các
hoạt động kinh doanh theo đúng quĩ đạo mà Nhà nước mong muốn.
Thứ tư, nghiên cứu thành lập Trung tâm tư vấn hoạt động khởi nghiệp khu
vực nông thôn. Các phân tích trên đã chỉ ra thực tế này, bên cạnh nguyên nhân
thiếu vốn thì một trong những nguyên nhân quan trọng khác khiến hoạt động
khởi nghiệp bị thất bại là do chất lượng nguồn nhân lực trong các doanh nghiệp
khởi nghiệp bị hạn chế. Do vậy, để giúp khắc phục một bước các rào cản cho
hoạt động khởi nghiệp, qua đó giúp các doanh nghiệp khởi nghiệp thành công thì
cần thiết phải thành lập Ủy ban Tư vấn hoạt động khởi nghiệp, trong đó các lĩnh
vực cần tư vấn cho các doanh nghiệp khởi nghiệp khu vực nông thôn bao gồm:
(i) Tư vấn về thủ tục thành lập doanh nghiệp, trợ giúp pháp lý cho hoạt động
khởi nghiệp. Đây hiện vẫn là khâu yếu nhất của hầu hết các doanh nghiệp khởi
nghiệp khu vực nông thôn; (ii) Tư vấn về kỹ năng, kinh nghiệm kinh doanh, tiếp
cận thị trường; (iii) Tư vấn về quản trị hoạt động kinh doanh; (iv) Tư vấn về
quản lý tài chính công ty cũng như quản lý tài chính cá nhân; (v) Trực tiếp mở
các lớp huấn luyện, đào tạo kỹ năng nghề nghiệp cho cán bộ, nhân viên các
doanh nghiệp khởi nghiệp.
Thứ năm, cần giải quyết vấn đề về đất đai, vướng mắc lớn nhất của các
doanh nghiệp là vấn đề tích tụ ruộng đất. Các giải pháp đưa ra là hoàn thiện cơ
chế, chính sách về đất đai đồng bộ, tạo điều kiện cho doanh nghiệp được thuê
đất, giao đất phù hợp cho hoạt động sản xuất theo hướng tạo quỹ đất sạch để
cung cấp cho doanh nghiệp thay cho việc doanh nghiệp phải tự đi thỏa thuận với
người dân để có đất sử dụng. Cần có chính sách tích tụ ruộng đất, sớm hình
thành thị trường đất đai đúng nghĩa nhằm giải quyết khó khăn về mặt bằng sản
xuất, tạo điều kiện cho doanh nghiệp có nguồn lực tài chính để đầu tư vào cơ sở
hạ tầng nhà xưởng, máy móc thiết bị, nhanh chóng ổn định sản xuất và nắm bắt
được cơ hội kinh doanh.
Nhận diện những “rào cản” phát triển hoạt động khởi nghiệp khu vực nông
thôn là rất cần thiết nhằm đề xuất chính sách pháp lý phù hợp, đáp ứng yêu cầu
giải quyết hài hòa quyền lợi của người nông dân có đất cũng như các doanh
nghiệp. Bên cạnh đó giúp “cởi trói”, tạo điều kiện thúc đẩy hoạt động đầu tư,
khởi nghiệp trong lĩnh vực nông nghiệp trong thời gian tới.
371
- TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. An Nhiên, 2016: Bị xăng, điện, nước... ngáng chân, doanh nghiệp Việt
Nam phát triển như "rùa bò", truy cập tại http://cafef.vn/bi-xang-dien-
nuoc-ngang-chan-doanh-nghiep-viet-nam-phat-trien-nhu-rua-bo-
20160413143755283.chn.
2. Bảo Ngọc (2017), 5 năm tới sẽ là 5 năm quốc gia khởi nghiệp, truy cập
tại http://vov.vn/khoi-nghiep/5-nam-toi-se-la-5-nam-quoc-gia-khoi-
nghiep-589187.vov
3. Đào Văn Hùng (2005), Phát triển hoạt động tài chính vi mô ở Việt Nam,
NXB Lao động - Xã hội
4. Khánh An (2017), Diễn đàn Kinh tế tư nhân Việt Nam 2017: Đầu tư
niềm tin, truy cập tại: http://baodautu.vn/dien-dan-kinh-te-tu-nhan-viet-
nam-2017-dau-tu-niem-tin-d67304.html.
5. Lam Phong (2017), Giải mã “truyền thuyết” cứ 10 startup thì 8 dự án
thất bại, truy cập tại http://baodautu.vn/giai-ma-truyen-thuyet-cu-10-
startup-thi-8-du-an-that-bai-d46125.html
6. Mỹ Hà: Hơn 10% thanh niên Việt Nam chưa tốt nghiệp tiểu học, truy cập
tại http://dantri.com.vn/giao-duc-khuyen-hoc/hon-10-thanh-nien-viet-
nam-chua-tot-nghiep-tieu-hoc-20160302221016838.htm.
7. Ngụy Kiệt & Hạ Diệu (1993), Bí quyết cất cánh của bốn con rồng nhỏ.
NXB Chính trị Quốc gia
8. Nguyễn Đức Hải, Trần Huy Tùng, Chu Khánh Lân và các cộng sự
(2015), Hoạt động của các tổ chức tài chính vi mô bán chính thức ở Việt
Nam, Đề tài Cấp ngành 2014
9. Nguyên Mạnh (2016), Chỉ 30% tiếp cận được vốn: Vì sao doanh nghiệp,
ngân hàng khó gặp nhau?, truy cập tại: http://cafef.vn/chi-30-tiep-can-
duoc-von-vi-sao-doanh-nghiep-ngan-hang-kho-gap-nhau-
20161202211851848.chn.
10. Nguyễn Thu Hằng và Lê Thanh Tâm (2014), Mô hình phát triển bền
vững cho các tổ chức tài chính vi mô: trường hợp Việt Nam, VEPR.
11. Nguyễn Tiến Đông (2016), Quản lý các tổ chức tài chính vi mô tại Việt
Nam. Kỷ yếu Hội thảo Quốc gia “Vai trò của các tổ chức tài chính vi mô
đối với phát triển kinh tế xã hội Việt Nam”, NXB Dân Trí
372
- 12. Nguyễn Tuyền (2016), Khởi nghiệp, thanh niên Việt sợ thất bại hơn
người trung niên, truy cập tại http://genvietnam.net/vn/khoi-nghiep--
thanh-nien-viet-so-that-bai-hon-nguoi-trung-nien_458.html.
13. Phạm Văn Hồng (2016): Vai trò của tài chính vi mô trong quá trình phát
triển của khu vực hộ kinh doanh cá thể ở Việt Nam. Kỷ yếu Hội thảo
quốc gia “Vai trò của các tổ chức tài chính vi mô đối với phát triển kinh
tế xã hội Việt Nam”, NXB Dân Trí
14. Phí Trọng Hiển (2016): Bài toán phát triển hoạt động tài chính vi mô tại
Việt Nam. Kỷ yếu Hội thảo Quốc gia “Vai trò của các tổ chức tài chính vi
mô đối với phát triển kinh tế xã hội Việt Nam”, NXB Dân Trí
15. Quỳnh Lam (2015), doanh nghiệp FDI “kêu” chất lượng nhân lực Việt,
truy cập tại http://vneconomy.vn/doanh-nhan/doanh-nghiep-fdi-keu-chat-
luong-nhan-luc-viet-20150305050940669.htm.
16. Trần Huy Tùng, 2017, Financial Consumer Protection in Microfinance
Sector: Case of Vietnam, Slide presented at The OECD-ADBI-SBV
Conference on Financial Literacy and Consumer Protection, accessed
from: http://www.oecd.org/daf/fin/financial-education/vietnam-oecd-
financial-education-conference-2017.htm
17. Tư Giang (2017), Lần thứ hai trong năm Thủ tướng đối thoại trực tiếp
với doanh nghiệp tư nhân, truy cập tại: http://tiepthithegioi.vn/goc-
nhin/ca-phe-sang/lan-thu-hai-trong-nam-thu-tuong-doi-thoai-truc-tiep-
voi-doanh-nghiep-tu-nhan/
18. Tư Hoàng (2017), Thể trạng doanh nghiệp Việt Nam vẫn èo uột, truy cập
tại http://www.thesaigontimes.vn/158941/The-trang-doanh-nghiep-Viet-
Nam-van-eo-uot.html.
19. Văn Nguyễn (2017), doanh nghiệp tư nhân dường như bị gạt ra khỏi
guồng quay của nền kinh tế, truy cập tại http://nongnghiep.vn/doanh-
nghiep-tu-nhan-duong-nhu-bi-gat-ra-khoi-guong-quay-cua-nen-kinh-te-
post194974.html.
373
nguon tai.lieu . vn