Xem mẫu

  1. n trÞ - Kinh nghiÖm quèc tÕ vµ thùc tr¹ng ë ViÖt Nam THẬN TRỌNG – CÁCH NHÌN MỚI TỪ CHUẨN MỰC KẾ TOÁN QUỐC TẾ #TS. Nguyễn Thục Anh Trường Đại học Ngoại thương Thận trọng là một yêu cầu cơ bản được nhắc đến khá nhiều trong kế toán và ảnh hưởng đến việc ghi nhận, xác định giá trị, trình bày các yếu tố trong báo cáo tài chính (BCTC). Trong gần ba thập niên qua, cách hiểu về nội hàm cũng như vị trí, vai trò của Thận trọng trong hệ thống Chuẩn mực kế toán (CMKT) quốc tế có nhiều thay đổi, tác động lớn đến việc xây dựng cũng như áp dụng các quy định kế toán. Với nỗ lực làm cho thông tin kế toán ngày càng trở nên hữu ích cho người sử dụng, năm 2015, Ủy ban CMKT quốc tế đã công bố Dự thảo Khuôn khổ Khái niệm ED/2015/03, đưa ra một cách nhìn nhận mới về Thận trọng trong kế toán, tạo ra một nền tảng mới cho việc xây dựng cũng như áp dụng các chính sách kế toán. Bài viết này, làm rõ sự thay đổi trong quy định của Ủy ban CMKT quốc tế về khái niệm Thận trọng cũng như tác động của nó đến việc thay đổi các quy định hiện tại của kế toán Việt Nam, trong quá trình cân nhắc đưa CMKT quốc tế vào áp dụng. Trong hệ thống CMKT Việt Nam, Thận trọng được quy định trong CMKT số 01 – Chuẩn mực chung là một trong những nguyên tắc cơ bản của kế toán, để xác định cách xử lý kế toán trong điều kiện không chắc chắn. Theo CMKT Việt Nam, “Thận trọng là việc xem xét, cân nhắc, phán đoán cần thiết để lập các ước tính kế toán trong các điều kiện không chắc chắn. Nguyên tắc thận trọng đòi hỏi: (i) Phải lập các khoản dự phòng nhưng không lập quá lớn; (ii) Không đánh giá cao hơn giá trị của các tài sản và các khoản thu nhập; (iii) Không đánh giá thấp hơn giá trị của các khoản nợ phải trả và chi phí; (iv) Doanh thu và thu nhập chỉ được ghi nhận, khi có bằng chứng chắc chắn về khả năng thu được lợi ích kinh tế, còn chi phí phải được ghi nhận khi có bằng chứng về khả năng phát sinh chi phí”. Trên cơ sở nguyên tắc chung đã được xác định như trên, các quy tại các chuẩn mực và hướng dẫn kế toán cụ thể ở Việt Nam không ghi nhận là tài sản trong một số trường hợp không chắc chắn về lợi ích kinh tế tương lai (LTTM, chi phí nghiên cứu và phát triển) cũng như yêu cầu xác định lại giá trị của tài sản khi có dấu hiệu giảm giá (thông qua trích lập dự phòng tổn thất tài sản), ghi nhận chi phí và nợ có khả năng xảy ra (ghi nhận các khoản nợ tiềm tàng, các chi phí có thể phát sinh trong tương lai) nhưng không xác định lại giá trị của tài sản khi có dấu hiệu tăng cũng như ghi nhận các khoản thu nhập và tài sản tiềm tàng. Cách quy định này của Việt Nam đồng nhất với quan điểm của CMKT Quốc tế (CMKTQT) được quy định trong Khuôn khổ Lập và Trình bày BCTC tồn tại từ năm 1989 đến năm 2010. Trong quá trình phát triển của CMKTQT, Thận trọng là một trong các yêu cầu gây khá nhiều tranh cãi, thể hiện ở việc thay đổi, chỉnh sửa, đưa vào cũng như loại bỏ nguyên tắc này trong các ấn bản khác nhau của Khuôn khổ Khái niệm trong Hệ thống CMKTQT. Trong Khuôn khổ Lập và Trình bày BCTC được ban hành lần đầu của Ủy ban CMKTQT năm 1989, Thận trọng được coi là một yêu cầu cơ bản của thông tin kế toán. Tuy nhiên, sau những cân nhắc về những tác động của Thận trọng đối với tính đáng tin cậy của thông tin kế toán, Ủy ban CMKTQT đã loại bỏ yêu cầu này, trong khi sửa đổi Khuôn Khổ khái niệm năm 2010. Mặc dù, không còn là một yêu cầu cơ bản nhưng sự hiện diện của Thận trọng trong các 182
  2. n trÞ - Kinh nghiÖm quèc tÕ vµ thùc tr¹ng ë ViÖt Nam CMKT cụ thể cũng như trong thực tiễn kế toán cho thấy, sự cần thiết của nguyên tắc Thận trọng trong việc lập và cung cấp BCTC. Chính vì vậy, trong Dự thảo sửa đổi Khuôn khổ khái niệm mới năm 2015, Ủy ban CMKTQT lại đề xuất đưa Thận trọng là một yêu cầu cơ bản của thông tin kế toán nhưng với một sự chỉnh sửa về nội hàm yêu cầu này, sao cho tránh các xung đột với các yêu cầu cơ bản. Vậy Thận trọng được hiểu như thế nào trong cách nhìn của Ủy ban CMKTQT, tác động của Thận trọng đối với chất lượng thông tin kế toán cũng như ảnh hưởng của việc thay đổi nội hàm Thận trọng đối với các xử lý kế toán như thế nào trong tương lai? Quá trình thay đổi quy định về Thận trọng trong CMKTQT Trong Khuôn khổ Lập và Trình bày BCTC được ban hành năm 1989, Thận trọng được coi là một yêu cầu cơ bản nhằm đảm bảo Tính đáng tin cậy (Reliability) của thông tin kế toán. Tính đáng tin cậy được hiểu là thông tin không có sai sót và không thiên lệch, phản ánh đúng nội dung dự định truyền tải. Tuy nhiên, trong quá trình lập BCTC có thể xảy ra một số trường hợp không chắc chắn, ví dụ như nợ phải thu có thể không thu hồi được hoặc, tài sản cố định có thể không mang lại lợi ích như dự kiến…. Trong những trường hợp đó, để đảm bảo thông tin đáng tin cậy, việc ghi nhận cũng như xác định giá trị của các khoản mục trên BCTC, đòi hỏi phải có sự cân nhắc cẩn thận. Chính vì vậy, Khuôn khổ mà Ủy ban CMKTQT đưa ra năm 1989 quy định yêu cầu để đảm bảo Tính đáng tin cậy của BCTC đòi hỏi người cung cấp BCTC phải cẩn trọng trong việc xem xét đánh giá trong điều kiện không chắc chắn. Sự “cẩn trọng” này được giải thích cụ thể hơn là sự cẩn trọng để sao cho tài sản và thu nhập không bị thổi phồng và chi phí và nợ phải trả không bị đánh giá thấp nhưng cũng không cho phép việc tạo lập các quỹ chìm hoặc lập dự phòng quá mức để “cố tình” đánh giá thấp tài sản, thu nhập hoặc thổi phồng chi phí và nợ phải trả. Việc “cố tình” tạo quỹ chìm hoặc dự phòng quá mức được coi như giảm tính “trung lập” của thông tin kế toán và do đó ảnh hưởng đến tính đáng tin cậy của thông tin. Hình 1: Yêu cầu cơ bản của BCTC theo quy định của CMKTQT từ 1989-2010   Dễ hiểu Thích hợp Đáng tin cậy Có thể so sánh Có giá trị Có giá trị Phản ánh Nội dung hơn Trung Thận Đầy dự báo  xác nhận hình thức trung thực lập trọng đủ Trọng yếu (Nguồn: Framework for the Preparation and Presentation of Financial Statement, IASC 1989 được IASB công nhận năm 2001) 183
  3. n trÞ - Kinh nghiÖm quèc tÕ vµ thùc tr¹ng ë ViÖt Nam Như vậy, có thể thấy, khái niệm Thận trọng theo cách hiểu của Khuôn khổ Khái niệm 1989 thể hiện một sự bất cân xứng khi cung cấp thông tin vì nó chỉ cho phép ghi nhận sự giảm xuống của giá trị tài sản thuần trong điều kiện không chắc chắn, trong khi không cho phép ghi nhận giá trị tài sản thuần tăng lên. Lý do của sự bất cân xứng này, là để hạn chế xu hướng tự nhiên là các nhà quản lý doanh nghiệp thường thông tin quá lạc quan về hoạt động của mình và cảnh báo sớm cho nhà đầu tư về những rủi ro mất vốn, vì thông thường, đây là loại rủi ro mà các nhà đâu tư lo lắng hơn so với rủi ro tăng vốn. Tuy nhiên, nhìn từ góc độ lý thuyết trong Khuôn khổ Khái niệm, sự bất cân xứng này được coi là xung đột với yêu cầu về tính trung lập của thông tin kế toán. Yêu cầu về tính trung lập đòi hỏi doanh nghiệp có xử lý kế toán như nhau, không thiên lệch đối với các trường hợp ghi nhận những sự kiện có lợi hoặc bất lợi đối với tài sản, nợ phải trả, thu nhập cũng như chi phí. Một câu hỏi đặt ra là, nếu như mục đích của thông tin kế toán hướng tới việc cung cấp thông tin hữu ích cho chủ sở hữu vốn (bao gồm cổ đông và chủ nợ) như định hướng sử dụng BCTC hiện nay thì việc tạo ra một sự bất cân xứng trong thông tin khi các xử lý kế toán theo nguyên tắc thận trọng dẫn đến việc định giá thấp tài sản và thu nhập do không ghi nhận sự tăng giá của tài sản cũng như không ghi nhận lãi chưa thực hiện khi có những bằng chứng xác thực về khả năng thu được những khoản lãi như vậy liệu có tác động đến nhà đầu tư, trong việc nắm giữ cổ phần của công ty hay không? Liệu những thông tin về tài sản thuần thấp hơn giá trị thực tế có tác động bất lợi đến quyết định đầu tư và khuyến khích nhà đầu tư bán cổ phần của công ty hay không? Việc trì hoãn ghi nhận lãi có ảnh hưởng đến tính hữu ích của thông tin không. Nếu như việc trì hoãn này, làm cho người sử dụng không phân biệt được một công ty thực sự hoạt động kém hiệu quả với một công ty bị đánh giá là kém hiệu quả chỉ bởi vì lợi nhuận tiềm năng chưa được ghi nhận? Nếu trường hợp đó xảy ra, thì tính đáng tin cậy của thông tin kế toán thực sự bị ảnh hưởng và làm cho thông tin kế toán trở nên không hữu ích, không đảm bảo yêu cầu cơ bản đặt ra. Thận trọng với yêu cầu như quy định tại Khuôn khổ Khái niệm 1989, có thể gây ra một sự thiên lệch trong BCTC. Chính vì sự xung đột này, mà trong quá trình sửa đổi Khuôn khổ Khái niệm, đặc biệt là trong dự án thực hiện cùng với Ủy ban CMKT Hoa Kỳ bắt đầu từ năm 2004, Uỷ ban CMKTQT đã cân nhắc việc loại bỏ Thận trọng như là một yêu cầu cơ bản, tương đương với Trung lập. Việc quy định Thận trọng trong các đánh giá, xem xét và cân nhắc làm cho thông tin thiên lệch và do đó ảnh hưởng đến tính Trung lập, một yêu cầu cơ bản của thông tin mà Uỷ ban CMKTQT đánh giá là cần thiết để đảm bảo tính hữu ích. Hơn nữa, Uỷ ban CMKTQT cho rằng, việc quy định Thận trọng để phản ánh giá trị tài sản và thu nhập thấp hơn thực tế ở kỳ này, cũng có thể dẫn đến giá trị tài sản và thu nhập bị thổi phồng ở kỳ sau và như vậy cũng không hẳn là Thận trọng. Kết quả là, trong bản sửa đổi Khuôn Khổ Khái niệm năm 2010, Ủy Ban CMKTQT đã đưa Thận trọng khỏi các yêu cầu cơ bản của kế toán. Thay vì yêu cầu thông tin Đáng tin cậy, Uỷ ban CMKTQT đã thay bằng Phản ánh Trung thực, với yêu cầu rằng, thông tin phải Đầy đủ, Trung lập và Không sai sót (Hình 2). Sửa đổi này của Ủy ban CMKTQT nhận được nhiều ý kiến trái chiều. Một số câu hỏi đã được đặt ra như sau: - Trước hết, liệu có đúng là thông tin mà người sử dụng mong muốn luôn là thông tin không thiên lệch? Trong các mối quan hệ hợp đồng giữa một bên là người ủy thác và một bên 184
  4. n trÞ - Kinh nghiÖm quèc tÕ vµ thùc tr¹ng ë ViÖt Nam là người đại lý như quan hệ giữa cổ đông (người ủy thác) và nhà quản lý (người đại diện), quan hệ giữa chủ nợ và (người ủy thác) và người chủ sở hữu (người đại diện), do sự bất cân xứng về thông tin cũng như trách nhiệm hữu hạn của người đại diện, người ủy thác cần những thông tin mang tính cảnh báo sớm tình hình bất lợi, để họ có thể thực hiện các biện pháp kiểm soát ngay khi có dấu hiệu rủi ro. Trong trường hợp này, thông tin thận trọng có vẻ như hữu ích hơn là thông tin không thiên lệch. - Việc loại bỏ Thận trọng có thể dẫn đến sự “thiếu thận trọng” và thổi phồng lợi nhuận, định giá thấp nợ phải trả như việc áp dụng giá hợp lý dẫn đến việc ghi nhận lợi nhuận chưa thực hiện một cách không hợp lý hay không? Hình 2: Yêu cầu cơ bản của BCTC trong Khuôn Khổ Khái niệm của CMKTQT năm 2010 Thích hợp Phản ánh trung Yêu thực cầu cơ bản Có giá trị Có giá trị Đầy đủ Trung lập Không Yêu cầu dự báo  xác nhận sai sót bổ sung Có thể so Có thể Kịp thời Dễ hiểu sánh xác minh (Nguồn: Conceptual Framework for Financial Reporting 2010, IASB 9/2010) - Trên thực thế thì, Thận trọng hiện diện rất nhiều trong quy định các CMKTQT cụ thể, dẫn đến sự không nhất quán giữa Khuôn khổ Khái niệm – nền tảng để ban hành các CMKTQT cụ thể và bản thân các CMKTQT đó. Sự thận trọng được thể hiện trong việc ghi nhận, xác định giá trị cũng như công bố thông tin. Việc ghi nhận tài sản trong các CMKT cụ thể chặt chẽ hơn so với ghi nhận nợ phải trả, vì thông thường tài sản chỉ được ghi nhận khi có khả năng (gần như chắc chắn) thu được lợi ích kinh tế, giá trị được xác định một cách đáng tin cậy trong khi nợ phải trả có thể được ghi nhận khi có thể xác định một cách đáng tin cậy giá trị nợ phải trả. Trong xác định giá trị, các quy định về đánh giá tổn thất tài sản (impairment test) để xác định lại giá trị tài sản khi có dấu hiệu suy giảm giá trị (impairment loss) hiện diện trong rất nhiều CMKTQT như IFRS 4- Hợp đồng bảo hiểm, IFRS 5 – Tài sản dài hạn nắm giữ để bán và chấm dứt hoạt động, IFRS 9 – Công cụ tài chính, IAS 2 – Hàng tồn kho, IAS 19 – Tài sản cố định hữu hình, IAS 39 – Công cụ tài chính: Ghi nhận và xác định giá trị, IAS 36 – Tổn thất tài sản, IAS 40 – Bất động sản đầu tư; quy định ghi nhận nợ phải trả tiềm tàng nhưng không ghi nhận tài sản tiềm tàng trong IAS 37 – Dự phòng, Nợ phải trả và Tài sản tiềm tàng, ghi nhận nợ khi chưa thực sự tồn tại trong IFRS 2 – Thù lao bằng cổ phiếu; IAS 19 – Lợi ích của Nhân viên…. Thận trọng cũng thể hiện trong các quy định về công bố thông tin như công bố giá trị suy giảm trong Báo cáo kết quả kinh doanh nhưng giá trị tăng lên trong Báo cáo Thu nhập tổng hợp (IAS 16), quy định công bố thông tin về lỗ tiềm tàng nhưng không quy định công bố thông tin về lãi tiềm tàng (IFRS 7 – Công cụ tài chính: Công bố thông tin)… 185
  5. n trÞ - Kinh nghiÖm quèc tÕ vµ thùc tr¹ng ë ViÖt Nam Nhằm đảm bảo tính thống nhất trong Khuôn khổ Khái niệm cũng như sự nhất quán giữa Khuôn khổ Khái niệm và các CMKTQT cụ thể, năm 2015, Uỷ ban CMKTQT đã công bố Dự thảo sửa đổi Khuôn khổ Khái niệm năm 2015, với những thay đổi cơ bản, trong cách hiểu về tính Trung lập cũng như Thận Trọng. - Tính Trung lập: Trung lập bao gồm 2 khía cạnh, trung lập trong lựa chọn chính sách kế toán sao cho có thể phản ánh trung thực bức tranh về tình hình tài chính và kết quả hoạt động của doanh nghiệp và trung lập trong việc áp dụng chính sách kế toán đã lựa chọn. - Thận trọng: Ủy ban CMKTQT phân chia Thận trọng thành hai dạng: (i) Thận trọng mang tính cẩn trọng (cautious prudence) trong đánh giá, xem xét và cân nhắc trong điều kiện không chắc chắn nói chung, không phân biệt việc đánh giá, xem xét và cân nhắc đó liên quan đến việc tạo nên tài sản hay nợ phải trả, lợi nhuận hay thua lỗ; (ii) Thận trọng bất cân xứng (asymmetric prudence) liên quan đến việc ghi nhận lỗ sớm hơn so với việc ghi nhận lãi. Thận trọng mang tính cẩn trọng, không những không ảnh hưởng đến tính Trung lập mà còn cần thiết để đảm báo tính trung lập trong việc áp dụng các chính sách kế toán, hạn chế những lạc quan thái quá của doanh nghiệp khi áp dụng các chính sách kế toán. Trong khi đó, Thận trọng bất cân xứng, khi được sử dụng để lựa chọn chính sách kế toán (tức là khi Ủy ban CMKTQT áp dụng để xây dựng các CMKTQT cụ thể) cũng sẽ không tác động đến tính trung lập của các chính sách kế toán. Tuy nhiên, Thận trọng bất cân xứng không phải là một đặc điểm mong muốn của thông tin tài chính. Với những cân nhắc như trên, Ủy ban CMKTQT đã quyết định đưa Thận trọng trở lại là một trong những yêu cầu cơ bản của thông tin kế toán hỗ trợ tính Trung lập với một cách hiểu mới là “Sự cẩn trọng trong việc nhận định, đánh giá và cân nhắc trong điều kiện không chắc chắn”. Yêu cầu này, nhằm đảm bảo cho tài sản, thu nhập không bị thổi phồng, nợ phải trả và chi phí không bị đánh giá thấp, nhưng đồng thời cũng nhằm để tài sản và thu nhập không bị đánh giá thấp và nợ phải trả, chi phí không bị đánh giá cao. Điều đó có nghĩa là, kế toán mang tính trung lập. Đây là điểm thay đổi lớn trong cách hiểu về thận trọng, đảm bảo sự cân xứng trong xử lý kế toán, khi mà các điều kiện không chắc chắn thay đổi tác động thuận chiều và ngược chiều đối với tài sản, nợ phải trả, doanh thu, chi phí của doanh nghiệp. Hình 3: Yêu cầu cơ bản của BCTC trong Dự thảo Khuôn Khổ Khái niệm của CMKTQT năm 2015 Thích hợp Phản ánh trung thực Yêu cầu cơ bản Có giá trị Có giá trị Đầy đủ Không Trung lập dự báo  xác nhận sai sót Yêu cầu bổ sung Có thể so Có thể Kịp thời Thận trọng Dễ hiểu sánh xác minh (Nguồn: Exposure Draft ED/2015/3, www.ifrs.org) 186
  6. n trÞ - Kinh nghiÖm quèc tÕ vµ thùc tr¹ng ë ViÖt Nam Tác động của quan điểm mới về Thận trọng trong CMKTQT tới các quy định về kế toán hiện hành của Việt Nam và một số lưu ý khi áp dụng Như đã phân tích ở trên, quan điểm về Thận trọng trong hệ thống CMKTVN đồng nhất với quan điểm về Thận trọng của Ủy ban CMKTQT năm 1989, hay nói cách khác là, Thận trọng bất cân xứng. Sự thay đổi các quan điểm về Thận trọng trong quá trình sửa đổi CMKTQT cho thấy, Thận trọng bất cân xứng có thể gây ảnh hưởng đến tính hữu ích của thông tin kế toán, đặc biệt là khi áp dụng các chính sách kế toán. Việc thay đổi cách hiểu về Thận trọng theo hướng là “Sự cẩn trọng trong việc xem xét, cân nhắc trong điều kiện không chắc chắn nói chung, không phân biệt việc đánh giá, xem xét và cân nhắc đó liên quan đến việc tạo nên tài sản hay nợ phải trả, lợi nhuận hay thua lỗ” sẽ có những tác động lớn đến hệ thống kế toán hiện tại. Đòi hỏi phải có sự cân nhắc, chuẩn bị kỹ lưỡng về mặt quy định cũng như môi trường, để đảm bảo duy trì tính hữu ích của thông tin kế toán trong trường hợp đưa CMKTQT vào áp dụng: - Khuôn khổ Khái niệm trong CMKTQT cũng như CMKTVN số 01 tạo ra một cơ sở lý thuyết để xây dựng các chuẩn mực cụ thể và xử lý kế toán trong trường hợp chưa có chuẩn mực cụ thể. Hệ thống kế toán Việt Nam hiện tại được xây dựng trên cơ sở nguyên tắc Thận trọng bất cân xứng và do đó, chưa thực sự phù hợp với cách hiểu mới về Thận trọng. Điều này cũng là thực trạng của một số CMKTQT hiện nay. Như giải thích của UBCMKTQT thì, cách hiểu mới về Thận trọng chủ yếu được ứng dụng trong việc áp dụng chính sách kế toán hơn là lựa chọn chính sách kế toán. Điều đó có nghĩa là, việc ban hành các quy định về kế toán trên cơ sở Thận trọng bất cân xứng vẫn có thể xảy ra và không bị coi là trái ngược với nguyên tắc đưa ra trong Khuôn khổ Khái niệm. Vì vậy, để đảm bảo tính nhất quán và rõ ràng trong khi xây dựng hệ thống kế toán, cần phải làm rõ phạm vi áp dụng cách hiểu về Thận trọng mang tính cẩn trọng và trường hợp có thể áp dụng Thận trọng bất cân xứng. - Do kết quả áp dụng nguyên tắc Thận trọng (bất cân xứng) mà các quy định về kế toán hiện nay đang ghi nhận tài sản và thu nhập chậm hơn ghi nhận nợ phải trả và chi phí. Cách ghi nhận này có những tác dụng nhất định làm giảm chi phí người đại diện (agency costs) do những tác động mang tính cảnh báo sớm rủi ro cho cổ đông, chủ nợ. Khi áp dụng Thận trọng theo cách hiểu mới, những tác dụng trên có thể mất đi, đòi hỏi phải có những biện pháp khác để bảo vệ quyền lợi cho các nhà đầu tư, ví dụ như tăng cường thêm các quy định về công bố thông tin khi ghi nhận tài sản, thu nhập hoặc quy định rõ ràng hơn các tiêu chí ghi nhận tài sản, thay vì tiêu chí tương đối khó đánh giá là “có khả năng” thu được lợi ích kinh tế. - Việc thay đổi khái niệm Thận trọng là tiền đề để đưa giá trị hợp lý vào trong quy định về xác định giá trị. Tuy nhiên, việc xác định giá trị tài sản, nợ phải trả theo giá trị hợp lý vấp phải một khó khăn là khả năng xác minh tính hợp lý của giá trị này. Ngoài trường hợp tồn tại thị trường hoạt động thì việc xác định giá trị hợp lý không đơn giản. Chính vì vậy, để có thể áp dụng CMKTQT đòi hỏi cần có sự hướng dẫn rất sát sao, cụ thể về việc xác định giá trị hợp lý đảm bảo nguyên tắc thận trọng. Kết luận Áp dụng CMKTQT là một xu hướng hiện nay của hầu hết các nước trên thế giới, để tăng cường chất lượng thông tin kế toán, tăng cường khả năng so sánh tình hình tài chính và 187
  7. n trÞ - Kinh nghiÖm quèc tÕ vµ thùc tr¹ng ë ViÖt Nam hiệu quả hoạt động của các tổ chức kinh doanh, qua đó nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực. Tuy nhiên, để có thể áp dụng thành công CMKTQT đòi hỏi phải nắm bắt được quan điểm của Ủy ban CMKTQT, sự thay đổi quan điểm trong quá trình xây dựng CMKTQT để có những chuẩn bị phù hợp cũng như áp dụng đúng tinh thần của các Chuẩn mực. ---------------------------- Tài liệu tham khảo 1. Framework for the Preparation and Presentation of Financial Statement, IASC 1989, www.ifrs.org 2. Conceptual Framework for Financial Reporting 2010, IASB 9/2010, www.ifrs.org 3. Exposure Draft ED/2015/3, Conceptual Framework for Financial Reporting, IASB 5/2015, www.ifrs.org 4. Basis for Conclusion, Exposure Draft ED/2015/3, Conceptual Framework for Financial Reporting, IASB 5/2015, www.ifrs.org 5. ACCA (08/2014). "Prudence and IFRS." ACCA Global Forum for Corporate Reporting. 6. Barker, R. and A. McGeachin (2015). "An Analysis of Concept and Evidence on the Question of whether IFRS Should be Conservative." Abacus 51(2): 39. 188
nguon tai.lieu . vn