Xem mẫu

  1. Thân chủ và mối quan hệ giữa thân chủ với nhà tham vấn- nhìn từ các cách tiếp cận tâm lý trị liệu chính yếu 1. Trị liệu tâm động: con bệnh và người thầy thuốc 2. Trị liệu hành vi: chuyên gia củng cố khách hàng 3. Trị liệu nhận thức: tất cả vì mục tiêu đã thoả thuận 4. Thân chủ/ Con người-trọng tâm trị liệu: tình huynh đệ * CÁC TỪ KHOÁ: - Con người bình thường, cân bằng: khái niệm mang tính thao tác, chỉ một sự cân bằng động và tương đối về một cá thể với các biểu hiện về nhân cách, trí tuệ, đạo đức, thể lý, tình cảm, quan hệ xã hội, khả năng sáng tạo,... đều đạt ở mức độ xã hội, người khác và bản thân chấp nhận được. - Lý thuyết học hỏi (Learning Theory): nền tảng của những cách tiếp cận nhận thức và hành vi. Con người học hỏi bằng cách tạo liên tưởng (điều kiện hoá cổ điển/ classical conditioning), và bởi sự quan sát cũng như bắt chước, mô phỏng (các lý thuyết về nhận thức/ cognitive theories). - Tham vấn (Counselling): dịch vụ giúp đỡ, hỗ trợ tâm lý để thân chủ tự giúp chính mình. - Thân chủ (Client): người có vấn đề về tâm lý tìm đến nhà tham vấn, trị liệu để nhờ giúp đỡ, hỗ trợ hầu giúp bản thân đương đầu tốt hơn trong hiện tại, giải quyết vướng mắc cảm xúc hoặc dự kiến tương lai tho ả mãn tiềm năng của cái tôi. - Các cách tiếp cận hệ thống (Systematic approaches): lý thuyết các hệ thống (systems theory) mà điểm mấu chốt là hiện thực được tìm thấy trong các mối quan hệ. Gia đình cũng như một số kiểu dạng nhóm khác nhau hình thành các hệ thống, và chúng ảnh hưởng, tác động lẫn nhau. Vấn đề, sự trưởng thành của cá nhân nào đó cũng sẽ ảnh hưởng đến các thành viên liên quan trong hệ thống. - Các cách tiếp cận Nhân văn (Humanistic approaches): các lý thuyết nhấn mạnh việc cá nhân tự do lựa chọn định hướng tương lai, chú trọng năng lực nội tại trong nỗ lực đạt đến sự trưởng thành, vào giá trị tự thân và tiềm năng cho việc thực hiện đủ đầy, toàn mãn bản ngã (self-fulfillment). - Tiếp cận tâm động (Psychodynamic approach): lý thuyết của Sigmund Freud. Theo đó, động cơ của hành vi được nhiều lực lượng điều khiển, thường là xung đột nhau, và b ị che đậy khỏi nhận thức của người ta; nhân cách được định hình từ kinh nghiệm đời sống, đặc biệt là sự phát triển thời thơ ấu. - Trị liệu (Therapy): có nhiều điểm tương đồng với tham vấn; tuy nhiên, điều cơ bản của việc trị liệu nằm ở chiều sâu của vấn đề cần giúp đỡ và lượng thời gian tiến hành lâu dài hơn. - Trị liệu Cảm xúc thuần lý (Rational Emotive Therapy): thuyết trị liệu của Albert Ellis d ựa trên niềm tin rằng sai lạc, lầm lỗi và những ý nghĩ rối rắm có cội nguồn từ hành động của cái tôi thất bại (self- defeating actions). Một sự
  2. kiện hoạt hoá nào đó đào sâu thêm niềm tin này và dẫn đến không ít hậu quả xảy ra. Do đó, nếu niềm tin là phi lý thì nhà tham vấn, trị liệu phải trao đổi, xem xét nó nhằm tạo ảnh hưởng tích cực cho thân chủ. - Trị liệu chiến lược (Strategic Therapy): thuyết trị liệu liên nhân cách (interpersonal therapy) của Milton Erickson dựa trên cơ sở việc muốn giành sự kiểm soát mối quan hệ tạo ra tâm bệnh lý (psychopathology). Nhà trị liệu chiến lược chủ động khởi sự và chịu trách nhiệm với thân chủ về những gì xảy đến trong tiến trình trị liệu, thiết kế các chiến lược cho mỗi một vấn đề nảy sinh. - Tư vấn (Consultant): thể hiện tính chuyên gia, nặng về kỹ thuật, đưa ra lời khuyên, cung cấp giải pháp xử lý vấn đề mà hầu như vắng bóng cái tôi của thân chủ. *MỞ ĐẦU Mọi loại hình, cách tiếp cận tham vấn hay trị liệu tâm lý đều bắt đầu từ sự nhìn nhận rằng, mỗi một thân chủ/ khách hàng (client) hiện diện như một nhân cách duy nhất và chịu trách nhiệm với sinh mệnh của chính mình. Hiểu biết của nhà tham vấn, trị liệu tâm lý về tính độc sáng của thân chủ, do đó, là bước tiên khởi cho việc xây dựng mối bang giao hợp tác, hữu nghị- điều kiện cực kỳ cần thiết để cuộc tham vấn, trị liệu thành công. Điều cốt yếu luôn là nhà tham vấn, trị liệu lắng nghe và thể hiện sự quan tâm chân thành, chấp nhận thân chủ ở mọi mức độ; tất cả phẩm chất này được biểu lộ sâu xa từ nội tâm, ở bình diện nhân cách của nhà tham vấn chứ không đơn giản và thuần tuý bên ngoài, thể hiện qua lời nói hay kỹ năng hành nghề. Đồng thời, nhà tham vấn, trị liệu đối xử với thân chủ như là một nhân cách đơn nhất xứng đáng để nhà tham vấn, trị liệu tập trung mọi sự chú ý và cố gắng nỗ lực tối đa. Từ viễn tượng chung này, các phương thức, phong cách tiếp cận tham vấn, trị liệu đ ược phơi bày. Trị liệu theo cách tiếp cận Con người -trọng tâm (Person-Centered Therapy) của Carl Rogers (1902-1987) tập trung cho tiến trình triển nở cảm xúc của thân chủ thông qua lòng thành thật, tính thấu cảm và sự chấp nhận của nhà tham vấn, trị liệu. Ở các cực đối lập, trị liệu Hành vi (Behavioral Therapy) chú trọng vào sự thay đổi hành vi bằng việc học hỏi liên tưởng và củng cố; trị liệu Nhận thức (Cognitive Therapy) thì nhấn mạnh đến những suy nghĩ và niềm xác tín, những cảm xúc và hành vi, ngoài ra còn tận dụng nhiều kỹ thuật khác nhau nhằm giúp thân chủ chuyển biến; trị liệu Ngắn gọn (Brief Therapy) tuy được biểu hiện dưới nhiều dạng thức khác nhau, song điều quan tâm căn bản của nó là thiết lập một tiến trình tham vấn, trị liệu trong giới hạn thời gian nhất định. Mặt khác, thực tiễn cũng cho thấy nhiều nhà tham vấn trong quá trình hành nghề đã tìm kiếm những yếu tố tích hợp từ các cách tiếp cận trị liệu khác nhau; họ phát triển các phong cách riêng tập trung vào mối quan hệ với thân
  3. chủ hơn là việc tuân thủ và ứng dụng một mô hình trị liệu duy nhất. Và thường thì có 3 yếu tố chính trong mối quan hệ trị liệu: sự liên kết, đồng minh trong trong làm việc; các dạng thức chuyển dịch; và những mối quan hệ thực tế. Các biên tập viên cuốn "The Heart & Soul of Change: What Works in Therapy" (Đặc trưng mấu chốt cho sự đổi thay: những điều xảy ra trong trị liệu) đã dẫn kết quả nghiên cứu thực nghiệm của Lambert (1992) khẳng định rằng, sự khác nhau trong thành tựu của các cách tiếp cận tâm lý trị liệu phụ thuộc vào những yếu tố chiếm tỷ lệ rõ ràng như sau: - 40%: thân chủ và những yếu tố nằm ngoài phạm vi trị liệu (sức mạnh của cái tôi, hỗ trợ xã hội,...); - 30%: quan hệ trị liệu (thấu cảm, nồng nhiệt, và khuyến khích dấn thân); - 15%: sự mong đợi và các hiệu ứng giả dược (placebo); - 15%: các kỹ thuật độc đáo dùng trong những loại hình trị liệu riêng biệt. (http://counsellingresource.com/picks/) Nói cách khác, hầu như tất cả sự tiến bộ khiến cho thân chủ tốt đẹp hơn nằm ở những yếu tố thuộc về chính thân chủ và các phẩm chất của nhà tham vấn. Từ đây, cũng gợi ý việc trình bày khái niệm cơ bản- thân chủ- sẽ bao gồm một số nét chung :tác giả; quan điểm lý luận chủ yếu của phương pháp; kỹ thuật đặc trưng; phẩm chất cần thiết của nhà trị liệu, tham vấn; mối quan hệ nhà tham vấn- thân chủ,... của mỗi một cách tiếp cận trị liệu, tham vấn. 1. Trị liệu tâm động: con bệnh và người thầy thuốc ("Thân chủ và mối quan hệ giữa thân chủ với nhà tham vấn- nhìn từ các cách tiếp cận tâm lý trị liệu chính yếu", bài 2) Lịch sử tâm lý trị liệu hiện đại khởi từ những gì Sigmund Freud (1836-1939) tiến hành tại Vienna trong thập niên 80 của thế kỷ 19. Vốn là người được đào tạo thành chuyên gia Bệnh học thần kinh (neurologist), Freud bắt đầu tiến hành trị liệu cá nhân (1886) và đến năm 1896, ông đã phát triển một phương pháp làm việc với các bệnh nhân hysteria, đặt tên là "phân tâm" (psychoanalysis). Các tên tuổi như Alfred Adler, Snador Ferenczi, Karl Abraham và Otto Rank đều từng có khoảng thời gian học nghề sơ yếu (brief apprentice-type trainning) theo phương pháp này trước khi trở thành những nhà Phân tâm học thực thụ. Những người được gọi là các nhà phân tâm học mới (neo-Freudian) nổi tiếng có thể kể: Erik Erikson, Karen Horney và Erich Fromm. Để biết Phân tâm học quan niệm về thân chủ ra sao, không thể không am hiểu nền tảng lý thuyết về con người đã chỉ đạo đuờng lối trị liệu của họ. Đội ngũ kế tục xuất sắc cách tiếp cận trị liệu của Freud (kể cả Carl Jung, cộng tác viên thân thiết với Freud khoảng thời gian 1907-1913) từng góp phần tạo nên thuật ngữ "tâm động" (psychodynamics), với tiêu điểm tập trung vào những động lực của mối liên hệ giữa các thành phần trong tâm thần với thế giới bên ngoài. Dựa trên các kỹ thuật quan sát lâm sàng và tìm hiểu bệnh sử, không mang tính thống kê mà Freud đi đến định hình phương pháp phân tâm (phân tích tâm lý) bao hàm 4 ý/
  4. thao tác như sau: 1. Đối lập - làm cho bệnh nhân thấy rằng anh ta đang lẩn tránh cái gì đó, anh ta cần nhận dạng hiện tượng tâm lý nào là đối tượng phân tích; 2. Xếp lớp- xếp các chi tiết quan trọng vào tiêu điểm một cách chính xác; 3. Giải thích- cải biến các chi tiết không được ý thức thành ý thức được, ở đây nhà phân tâm sử dụng cái vô thức của riêng mình, sự thấu cảm và linh cảm cũng như lý luận của bản thân; 4. Xử lý- cẩn thận tổ hợp biện pháp và quá trình xuất hiện sau bừng hiểu, hoạt động này mở đường sang thay đổi và cần thời gian dài đ ể khắc phục sự chống đối cản trở việc hiểu biết dẫn đến sự thay đổi có cấu trúc vững chắc. Với họ, sự phát triển của một con người bình thường, trưởng thành sẽ phải trải qua 5 giai đoạn tâm tính dục: mồm miệng (oral); hậu môn (anal); dương vật (phallic); ẩn tàng (latency) và sinh dục-vị thành niên (genital-adolescence) Theo Phân tâm học, nhân cách của chúng ta (personality) được xây dựng từ trong vô thức (unconscious); gồm 3 thành phần chính yếu: cái ấy (id), hoạt động trên nguyên tắc khoái lạc (pleasure principle); cái tôi (ego), dựa vào nguyên tắc hiện thực (reality principle) và cái siêu tôi (superego). Chính sự đòi hỏi tức thì, mạnh mẽ của cái ấy và sự trấn áp không khoan nhượng của cái siêu tôi đã tạo ra sự lo âu của cái tôi. Để giải toả trạng thái căng thẳng này, trong cái tôi xuất hiện các cơ chế phòng vệ. Thuật ngữ phòng vệ (defense) xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1894 trong bài viết của Freud "The Neuro-Psychoses of Denfense"/Các biểu hiện loạn thần kinh chức năng của sự phòng vệ; nó mô tả cuộc đấu tranh của cái tôi chống lại những ý tưởng hay tác động gây đau đớn, không thể chịu đựng nổi. Freud đã sử dụng hai thuật ngữ "phòng vệ" và dồn nén, ức chế" (repression) một cách đồng nghĩa. (Hope R. Conte & Robert Plutchik, eds. Ego Defenses: Theory and Measurement. New York: John Wiley & Sons, Inc, 1995, pp. 38-39). Nhìn chung, tản mác trong các bài viết lâm sàng và lý luận của mình, Freud đã mô tả tất cả 10 cơ chế phòng vệ: *Dồn nén (repression, 1893), khái niệm này liên quan đến việc thanh lọc (catharsis) của Freud trong trị liệu: giúp bệnh nhân mang lên bề mặt ý thức ý tưởng hoặc tác động gây đau đớn, không thể chịu đựng nổi. Vì thế, sự phân tích sự đề kháng (ressistance) tức là phân tích sự phòng vệ, đóng vai trò trung tâm trong kỹ thuật trị liệu của trường phái tâm lý bản ngã theo cách tiếp cận phân tâm học (ego psychological school of psychoanalysis). * Thăng hoa và hình thành phản ứng (sublimation and reaction formation, 1905): theo định hướng phát triển của chủ thể, dường như chỉ là những cảm xúc chán ghét, tội lỗi và đức hạnh. Chuyển năng lượng tính dục sang lĩnh vực sáng tạo nghệ thuật; ý muốn trái ngược với hành vi biểu hiện ra ngoài. * Cô lập và huỷ hoại (isolation and undoing, 1926): cả hai thường thấy trong các rối loạn thần kinh ám ảnh. * Phóng chiếu (projection, 1911) :gán những xung lực không chấp nhận được của bản thân cho người khác. Điểm mấu chốt cho việc hình thành các triệu chứng hoang
  5. tưởng. * Đồng nhất hoá (introjection/ identification, 1917): nguồn gốc cơ bản hình thành bệnh trầm cảm (depression); với ý làm gia tăng lòng tự trọng bằng cách đồng nhất hoá, tích hợp với một cái tôi, hình ảnh khác, là phản ứng trước việc bị tước đoạt đối tượng yêu mến. * Thoái lui (regression, 1916): quay về giai đoạn kém phát triển của chức năng tâm lý; biểu hiện tính trẻ con (nhi hoá), nét hành vi phụ thuộc ở người lớn. * Đảo ngược và chống đối lại cái tôi (reversal and turning against the self, 1915): hai quá trình- chuyển đổi dạng thức, như từ chủ động sang bị động (bạo dâm-thụ dâm) và chuyển đổi nội dung, ví dụ yêu-ghét. ( Hope R. Conte & Robert Plutchik, p. 45). Chính Freud thổ lộ rằng, các nhà phân tâm học như ông chịu ơn rất lớn từ thuật thôi miên (hypnotism/mesmerism). Ông đã đi đến việc chỉ ra sự khác biệt giữa ám thị sau thôi miên và ám thị phân tâm (ít nhất ở việc chế ngự những sự đề kháng nội tại); rằng, bệnh thần kinh chỉ khỏi khi không còn xung đột giữa cái tôi và sự khát dục (libido: năng lượng tạo nên bởi xung năng tính dục) nữa, cái tôi đã chế ngự được khác dục; rồi ông khẳng định: ...Phương pháp phân tâm buộc người bệnh cũng như thầy thuốc cần có những cố gắng khó nhọc để chế ngự được những sự đề kháng nội tại. Khi những sự đề kháng đó đã thất bại, đời sống tinh thần của người bệnh sẽ thay đổi lâu d ài, được nâng lên một trình độ cao hơn và vẫn được bảo vệ chống lại những căn bệnh mới có thể xảy ra. Chống lại mọi sự đề kháng là công việc cơ bản của phân tâm học và chính bệnh nhân (patient) phải làm công việc này, thầy thuốc chỉ dùng sự ám thị (suggestion) để giúp đỡ người bệnh bằng cách giáo dục anh ta mà thôi. Cho nên, người ta có lý khi cho rằng việc chữa bệnh theo phân tâm học là m ột lối giáo dục. Sau một thời gian dài hành nghề, Freud phát triển một phương pháp mới: tự do liên tưởng (free association). Nhờ nghe bệnh nhân tự do liên tưởng mà thầy thuốc tìm ra nguồn gốc của các triệu chứng (nơi khát d ục của người bệnh thần kinh ẩn nấp); đó có thể là sự việc nào đó gây đau đớn, khó chịu, đáng sợ, khốn nhục,... từ trong quá khứ mà người bệnh không muốn nhớ lại một cách có ý thức. (ibid., xiv). Freud cũng đã tự mình tiến hành phân tích bản thân, mỗi ngày dành nửa giờ từ năm 1897 và tiếp tục cả cuộc đời; đ iều đó, càng làm ông tăng thêm lòng tin tưởng vào lý thuyết nhân cách của bản thân. Bên cạnh việc giải mộng (interpretation of dreams), Freud cũng phát hiện "một yếu tố quan trọng khó thể nào lường trước được", mối dây liên lạc tình cảm nồng nhiệt giữa con bệnh và nhà phân tâm: sự chuyển dịch (transference). Bệnh nhân không thoả mãn nếu chỉ coi nhà phân tâm như là người giúp đỡ và cố vấn cho họ...; ngược lại, con bệnh lại nhìn thấy qua nhà phân tâm, một hình ảnh quan trọng thời thơ ấu hay quá khứ của họ. Và vì thế, họ sẵn sàng bộc lộ mọi tình cảm và phản ứng mà chắc chắn là đã được dành cho hình ảnh ấy "dịch chuyển" sang phía nhà phân tâm. (ibid.loc.cit). ...Ảnh hưởng của phân tâm học thực sự rất lạ thường, dù số người hành nghề còn ít ỏi. Hơn một nửa các nhà tâm lý trị liệu hiện đại sử dụng ít nhất một phần các hình thức
  6. trị liệu phân tâm khác nhau trong công việc chuyên môn của mình. Tại Hoa Kỳ, đạt đến đỉnh cao hâm mộ phân tâm học vào giữa những năm 1950, nhưng chỉ có 619 bác sĩ phân tâm (medical analyst) và khoảng 500 người hành nghề nghiệp dư (lay analysist). (Morton Hunt. The Story of Psychology. New York: Anchor Books, 1994, p. 566) Dù không có số liệu điều tra cụ thể, song hầu hết các nhà phân tâm làm việc 8 tiếng đồng hồ mỗi ngày và gặp gỡ bệnh nhân của mình hàng tuần từ 4-5 lần (ibid.loc.cit). Thường thì nhà phân tâm nói cực ít, hoàn toàn lắng nghe bệnh nhân kể lể, tường thuật triệu chứng và đ ẩy về phía họ, bằng một số câu hỏi tránh né như "Cớ chi điều đó lại có vẻ quan trọng đối với ông?", "Tại sao ông nghĩ tôi nên cảm nhận theo cách ấy?" (ibid, p.567). Tuy bị khiêu khích, song nhiều bệnh nhân vẫn chẳng đủ khả năng từ bỏ điều trị. Trong Tạp chí Phân tâm học Quốc tế (The International Journal of psycho-Analysis), có đăng lời chỉ trích kịch liệt của bệnh nhân về một trong những ngày tồi tệ của bà ta (ibid.loc.cit): "Tôi đang buồn chán lắm đây. Suốt một năm tôi cứ như vậy- một năm lộn xộn, khốn nhục, lãng phí. Mà vì điều gì kia chứ? Chẳng vì cái quái gì, có trời mới biết. Mấy ngày nay tôi cố liều mạng đ ể bỏ ra ngoài với ông và không quay về nữa. Tại sao tôi nên trở về? Vì ông chả làm gì cho tôi cả, không hề. Năm này qua năm khác, ông chỉ mỗi việc lắng nghe. Ông muốn bao nhiêu hả? Ông có nghĩ còn ai ngoài ông là kẻ phải xuống địa ngục? Ông nỡ nào làm thế- chẳng thay đổi điều chi, không chữa trị gì cả, chỉ chăm chăm moi tiền và đi nghỉ cuối tuần ở Bermuda; ông đâu có đủ can đảm để mà thừa nhận rằng mình đang trao đổi buôn bán với thứ hàng giả kia chứ. Cái ả rác rưởi trong tôi còn có nhân tính hơn ông nhiều. (There's more humanity in my garbageman than in you). Việc trị liệu theo cách tiếp cận phân tâm chia làm hai giai đoạn: 1. khát dục tách rời khỏi các triệu chứng để định cư trên sự chuyển dịch; 2. sự tranh đấu diễn tiến chung quanh đối tượng mới để sau cùng làm cho khát dục thoát khỏi đối tượng này. (Sigmund Freud, sđd, tr. 516-517). Cũng cần lưu ý, do quan niệm "phương pháp trị liệu phân tâm học giống như một cuộc giải phẫu", nghĩa là phải được thực hiện trong những điều kiện khiến cho những cơ hội thất bại được rút đến mức tối thiểu nên Freud tự đặt cho mình một nguyên tắc: không chữa chạy cho bất cứ ai nếu người đó không độc lập với người thân. (ibid., tr.522-525). Vì thế, mô hình y khoa, được Freud lấy làm quy chuẩn: nếu gặp điều kiện thuận tiện, chúng ta đã thu lượm thực sự thành công rực rỡ trong công việc chữa chạy, không kém gì những sự thành công huy hoàng nhất của môn nội thương trong y học. (ibid., tr.521). Muốn chữa bệnh, lưỡi dao giải phẫu phải cắt chứ làm sao bây giờ? (ibid., tr.527). Một trong những vấn nạn có thể làm nản lòng không ít thân chủ tuân thủ việc điều trị phân tâm học là chi phí tốn kém và thời gian tiến hành lâu dài, không thể thành công nhanh chóng, lại khó đo lường hiệu quả trị liệu. Tuy vậy, mặc cho cách tiếp cận phân tâm còn nhiều bất cập, hạn chế, điều không thể
  7. chối bỏ ở đây là thái độ dũng cảm và hoài nghi khoa học của Freud, là khả năng thay đổi các ý tưởng trong suốt cuộc đời; Freud đã dám sống hết mình trong vai trò người đi tiên phong khám sự thật về cõi vô thức. Còn chưa nói, kỳ lạ thay, lý thuyết phân tâm/tâm động dù thể hiện sâu đậm sự suy đoán (một cách xuất sắc) và dường như tỏ ra lỗi thời, vẫn tìm được mảnh đất để tồn tại trong thực tiễn trị liệu tâm lý cho đến hiện nay. Tóm lại, phân tâm học quan niệm thân chủ như một bệnh nhân; đặc biệt, đối tượng nghiên cứu của Freud là những hành vi lệch lạc (lỡ lời, đọc sai, quên chốc lát, lầm lẫn,...), bất thường, bị rối nhiễu tâm thần, chứ không phải hành vi của con người b ình thường. Vì thế, sự liên hệ giữa nhà trị liệu với thân chủ thực chất là sự ràng buộc, phụ thuộc của con bệnh vào năng lực chuyên môn và cái tôi của người thầy thuốc, trên cơ sở áp dụng triệt để mô hình y khoa. Cần nói thêm, theo quan điểm phân tâm học cổ điển, liên hệ giữa nhà trị liệu và thân chủ biểu lộ tính chất vi mô (microcosmic) nằm trong những vấn đề rộng lớn hơn của thân chủ. (Jeffrey A. Kottler, Thomas L. Sexton & Susan C. Whiston. The Heart of Healing: Relationship in Therapy. San Francisco: Josey-Bass Publisher, 1994, p. 160). 2. Trị liệu hành vi: chuyên gia củng cố khách hàng ("Thân chủ và mối quan hệ giữa thân chủ với nhà trị liệu- nhìn từ các cách tiếp cận tâm lý trị liệu chính yếu", bài 3) Trong kiểu trị liệu hành vi, diễn ra một sự gắn bó giữa thân chủ và nhà trị liệu, như những thành viên cùng một equip, đang không ngừng cam kết đồng cam cộng khổ vì mục tiêu chung của công việc. Cách tiếp cận này dựa trên các nguyên tắc phản xạ có điều kiện (conditioned reflex) của I.P. Pavlov (1849-1936), củng cố thao tác (operant reinforcement) của John B. Watson (1878-1958) và B.F. Skinner (1904-1990), và lý thuyết học hỏi (learning theory). Theo đó, các cá nhân vừa là người sáng tạo đồng thời cũng là kết quả của môi trường xung quanh được chứa đầy những kích thích củng cố, trung hoà hay trừng phạt. Mỗi khi nhận ra mối quan hệ giữa chúng ta với môi trường, con người có khả năng học hỏi và hình thành những hành vi mong muốn, kinh nghiệm sâu sắc hơn việc tự am hiểu và tự kiểm soát. Nguyên tắc chủ đạo của cách tiếp cận này: hành vi chỉ được xem là yếu tố trong sự phát triển nhân cách. Xét từ góc độ ảnh hưởng di truyền, khi mới sinh ra các cá nhân như những tấm bảng trống trơn (blank slates). Nhân cách không gì khác hơn là sự trưng bày của các loại kinh nghiệm khác nhau. Chính môi trường, chứ không phải tinh thần, ý tưởng hay tâm hồn, là thành phần năng động trong sự phát triển. Do đó, nếu các nét nhân cách chỉ là thành tố trong mối quan hệ tương tác hành vi và môi trường- không phải là cái gì đ ược ấn định từ khi người ta chào đời- thì phải diễn ra khả năng thay đổi những hành vi không mong muốn. Am hiểu tính chủ đạo trong cách kiểm soát môi trường là chìa khoá để trị liệu hành vi thành công. Nhà tham vấn bàn bạc với mỗi một thân chủ, rồi cùng quyết định chính xác những kiểu hình kinh nghiệm môi trường gì sẽ thực thi tốt nhất đối với cá nhân
  8. đó; thậm chí, ngay cả khi biết rõ đ iều mang lại ý nghĩa cho cá nhân có thể chẳng là gì đối với kẻ khác. Mục tiêu "thay đổi hành vi che đậy bên ngoài" (covert behavior change) nhấn mạnh việc gánh lấy trách nhiệm về phía thân chủ, cũng như niềm tin của nhà trị liệu là thân chủ có năng lực học hỏi những hành vi mong muốn. Giả thiết xem xét trường hợp của M., một phụ nữ trong độ tuổi 20. (D ưới đây, những đoạn minh hoạ tiến trình trị liệu sẽ đ ược đặt trong ngoặc đơn). (Sau vài thủ tục xã giao, M. mào đầu: "Tôi thực sự bấn loạn." Xuất phát từ quan niệm rằng, chỉ hành vi là giải pháp cho cái tôi tự định đoạt (self-determination), khái niệm bản thân (self-concept) và lòng tự trọng (self-esteem), nhà trị liệu hành vi ngụ ý việc thảo luận về các cảm xúc củ thân chủ sẽ làm xao lãng những vấn vấn đề thực tế, nên ông nêu câu hỏi: "Những việc gì khiến cô nghĩ là mình đang bấn loạn?" M. chuẩn bị kể về kinh nghiệm thơ ấu, nhưng nhà trị liệu ngăn lại: "Tôi không nghi ngờ chút nào rằng tuổi thơ của cô rất khó khăn. Song để cải thiện chất lượng cuộc sống hiện tại của cô, không cần thêm một lần nữa làm sống lại nỗi đau ấy.") Những vấn đề riêng biệt và việc điều chỉnh hành vi đều được gợi lên trong tiến trình trị liệu. Hành vi có thể thay đổi bằng cách sử dụng các hình thức tăng cường tích cực (tặng thưởng thực phẩm, tiền bạc, khen ngợi,...) hay tiêu cực (những điều kiện không thoải mái) cho đến khi người ta rời xa một số hành vi không mong muốn hoặc ngăn cản sự củng cố tích cực đủ làm những hành vi bất xứng đó chấm dứt. (M. trao đổi cảm nhận của mình về các hậu quả hài lòng và không ưng ý, rồi đồng tình cùng nhà trị liệu vạch kế hoạch khen thưởng cho mỗi bước tiến tích cực khi cô không tỏ ra phản ứng bề ngoài trước sự chỉ trích của mẹ mình. Tiếp đó, M. nhận thấy sau lần gặp mẹ, cô bị các cơn đau đầu dồn dập. Tạm thời gạt qua khả năng do chế độ ăn uống và thuốc men, nhà trị liệu giải thích với M.: "Sức ép thể lực làm sản sinh những cơn đau đầu như thế là giai đo ạn cuối của một loạt áp chế vi tế. Đau đầu biểu hiện cho sự củng cố phủ định, tiêu cực nhằm khuyến khích cô tập trung thẳng vào những phản ứng của mình. Cơ chế phản hồi sinh học có thể đã làm ngừng sớm hơn các dấu hiệu ức chế, căng thẳng đang trên đà phát triển.) Thân chủ bắt đầu tiếp cận với các thiết bị âm thanh, hình ảnh giúp cho thân chủ nhận ra những chuyển biến tế vi của thân nhiệt, độ cảm ứng điện trở vùng da, hơi thở và sự căng cơ. Kết quả là thân chủ học được cách phân biệt những biểu hiện thể lý nhỏ nhặt, không dễ nhận ra và sự truyền năng lượng gián tiếp trước khi cúng trở nên quá mức chịu đựng. (M. nhất trí là việc đó sẽ giúp cô biết được nhiều cách thức làm mới mẻ và ít huỷ hoại mối quan hệ hơn lúc tương tác với mẹ m ình. Nhà trị liệu hành vi đ ề xuất liệu pháp trò chơi (role playing) hay diễn tập (rehearsal); trong đó, M. sẽ thực hành để củng cố những đáp ứng quả quyết, trước hết trong phạm vi an toàn của bối cảnh trị liệu, rồi sau đó lúc tiếp xúc với mẹ mình.) Những xu hướng củng cố khác trong trị liệu hành vi bao gồm việc giao kèo (contracting) và thưởng quy đổi (token economies). "Giao kèo hành vi" (tỏ ra hiệu quả trong việc giảm cân, quản lý thể trọng, điều trị các chứng nghiện rượu, ma tuý,
  9. thuốc lá) nhằm mục đích tạo ra biểu đồ hành vi riêng biệt cho từng thân chủ đúng như những gì chúng diễn tiến, đi đến thống nhất một hệ thống thưởng phạt thích hợp, và kết nối với mạng lưới những thành viên hỗ trợ tích cực. "Thưởng quy đổi", theo thiết kế, thường được nhìn nhận là những củng cố thứ yếu: trả công cho những hành vi mong đợi; điều ấy hàm nghĩa "mua" lại nhiều biểu hiện xứng đáng hơn nữa, tức là củng cố hành vi. Trong mọi trường hợp củng cố, lịch trình và việc xác định thời điểm khen thưởng phải được nhà trị liệu tính toán một cách cẩn thận nhằm định hướng, chỉnh sửa điều kiện hoặc tạo nặn hành vi của thân chủ đúng ý đồ. Các nhà trị liệu hành vi cũng cho rằng môi trường tồn tại nhiều kích thích bất mãn, khó chịu, ngược đãi là nguyên nhân đưa đ ến hành vi bỏ trốn, lẩn tránh hay hãi sợ; chung quy là giảm thiểu chuyện có thể bị trừng phạt. Thân chủ ngập mình trong các cuộc trị liệu kéo d ài khi không ngừng hướng đến những tác nhân kích thích đáng sợ và hấp dẫn liên quan tới lối ứng xử không được ưa thích. Sự chán ngán là kiểu giải thích nhẹ nhàng hơn trạng thái cuốn phăng này. Một số kỹ thuật xoá bỏ nỗi ác cảm, ghét bỏ khác như trị liệu khép âm/ bùng nổ nội tâm (implosive therapy) rất thành công trong các trường hợp rối loạn chức năng tình dục (sexual dysfunction), cưỡng bức văng tục (complusive obscence language), ám sợ (phobia), thử nghiệm lo âu (test anxiety) và ám ảnh (obsession), nhờ vào việc các đáp ứng không ưng ý, mong muốn cứ lặp lại liên tục mà chẳng hề được thưởng công gì cho đến khi đáp ứng bị dập tắt. Cách trị liệu này, xem như là giải pháp cuối dùng cho các đối tượng nghiện rượu và ma tuý. Thân chủ chấp nhận chịu đựng một số tác nhân kích thích không ưng ý và khó chịu cao độ như shock điện, gây nôn mửa (emetic), hoặc những kích thích thị giác không thật dễ chịu, như là hậu quả tất yếu phát sinh của hành vi cho đ ến khi mối gắn bó giữa hành vi và hậu quả của nó ghê gớm đến độ mà thân chủ không đủ khả năng để tiếp tục thực hiện nữa. Có thể nói, trị liệu hành vi là tổ hợp chiến lược nhấn mạnh vào vấn đề ngăn chặn, phòng chống và chỉnh sửa thông qua một sự xác định rõ ràng, đo lường được trong việc đặt để các mục tiêu do chính thân chủ và nhà trị liệu cùng nghĩ ra kế hoạch. Thành công của cuộc trị liệu đòi hỏi nhà trị liệu phải được đào tạo chuyên sâu, và cần sự giáo dục về phía thân chủ. Trong mỗi giai đoạn trị liệu, nhà trị liệu hành vi phải tỏ ra dễ hiểu, trong sáng, đúng đắn và cung cấp (M. ghi âm một số phát ngôn, tuyên bố chua cay của mẹ đã và đang phá vỡ tâm trí bình an của cô. Nhà trị liệu hành vi không ngừng lặp lại một hoặc nhiều hơn các điều trong danh sách đó, cùng với M. kiểm soát hành vi vào những lúc ngừng nghe băng từ tác động cho đến khi cách diễn đạt của người mẹ chỉ còn là những con chữ rỗng không, chẳng mang nghĩa lý gì và phản ứng chống đối của M. tiêu tan.) Một số kỹ thuật xoá bỏ nỗi ác cảm, ghét bỏ khác như trị liệu khép âm/ bùng nổ nội tâm (implosive therapy) rất thành công trong các trường hợp rối loạn chức năng tình dục (sexual dysfunction), cưỡng bức văng tục (complusive obscence language), ám sợ (phobia), thử nghiệm lo âu (test anxiety) và ám ảnh (obsession), nhờ vào việc các đáp
  10. ứng không ưng ý, mong muốn cứ lặp lại liên tục mà chẳng hề được thưởng công gì cho đến khi đáp ứng bị dập tắt. Cách trị liệu này, xem như là giải pháp cuối dùng cho các đối tượng nghiện rượu và ma tuý. Thân chủ chấp nhận chịu đựng một số tác nhân kích thích không ưng ý và khó chịu cao độ như shock điện, gây nôn mửa (emetic), hoặc những kích thích thị giác không thật dễ chịu, như là hậu quả tất yếu phát sinh của hành vi cho đ ến khi mối gắn bó giữa hành vi và hậu quả của nó ghê gớm đến độ mà thân chủ không đủ khả năng để tiếp tục thực hiện nữa. Có thể nói, trị liệu hành vi là tổ hợp chiến lược nhấn mạnh vào vấn đề ngăn chặn, phòng chống và chỉnh sửa thông qua một sự xác định rõ ràng, đo lường được trong việc đặt để các mục tiêu do chính thân chủ và nhà trị liệu cùng nghĩ ra kế hoạch. Thành công của cuộc trị liệu đòi hỏi nhà trị liệu phải được đào tạo chuyên sâu, và cần sự giáo dục về phía thân chủ. Trong mỗi giai đoạn trị liệu, nhà trị liệu hành vi phải tỏ ra dễ hiểu, trong sáng, đúng đắn và cung cấp nhiều kiến thức, thông tin cần thiết. Yêu cầu thân chủ biết một cách chính xác những hành vi nào là đáng mong đợi, mục tiêu của mỗi bài thực hành hay chiến lược, thành quả dự định, và mức độ anh/ chị ta tham gia đến đâu trong tiến trình trị liệu. Thân chủ cũng cần ý thức rằng anh/ chị ta đang làm việc với một chuyên gia được đào tạo b ài bản; tinh thần trách nhiệm và sự cộng tác chặt chẽ, đầy đủ đó là yếu tố đưa cuộc trị liệu đạt đến thành quả như ý. 3. Trị liệu nhận thức: tất cả vì mục tiêu đã thoả thuận (Thân chủ và mối quan hệ giữa thân chủ và nhà trị liệu- nhìn từ các cách tiếp cận tâm lý trị liệu chính yếu, bài 4) Trị liệu nhận thức, đôi khi còn được gọi là trị liệu nhận thức hành vi (behavioral cognitive therapy) bởi vì nền tảng của nó là các ý tưởng hành vi, hoặc là trị liệu nhận thức xã hội (social cognitive therapy) do sự liên kết của nó với lý thuyết học hỏi xã hội. Đây là sự tích hợp của nhiều nhà thực hành hiện đại như thuyết giải mẫn cảm hệ thống của Wolpe (Wolpe\'s Systematic Desensitization); trị liệu cảm xúc thuần lý của Ellis (Ellis\'s Rational Emotive Therapy); hình tượng cảm xúc của Lazarus (Lazarus\' Emotive Imagery); của Cautela, Mahoney; sự thay đổi hành vi nhận thức của Meichenbaum (Meichenbaum\'s Cognitive Behavior Modification), v.v... Theo các lý thuyết gia nhận thức, các vấn đề nhân cách và hành vi của thân chủ được tạo tác bởi những suy nghĩ sai lạc. Thân chủ nhận thức lầm và gán nhãn nhầm cả từ tâm trạng ở trong ra đến hành vi bên ngoài, do đó gây nên những niềm tin, hình tượng, đối thoại nội tâm tiêu cực. Suy nghĩ không thích nghi tốt đ ưa đ ến các hành vi của một cái tôi thất bại (self-defeat). Tuy vậy, thân chủ có thể học hỏi để tập trung nghĩ về việc nâng cao cái tôi (self- enhancing), điều đó sẽ sản sinh các hành vi, thái độ thích nghi và củng cố nhận thức. Thân chủ tham gia xác định vấn đề, lượng giá, phát triển kế hoạch cho một giờ trị liệu
  11. và duy trì chương trình, tất cả đều thể hiện ở mỗi giai đoạn trị liệu. Thân chủ học hỏi để nhìn nhận về chính bản thân họ không những như đối tượng chịu ảnh hưởng vào bối cảnh nội tâm m à còn như những người quản lý môi trường. M. bắt đầu buổi trị liệu với lời than phiền: "Tôi thực sự bấn loạn." Tiến hành việc xác định vấn đề nhờ những gì M. cung cấp theo quan điểm cá nhân, nhà trị liệu có thể chỉ ra sự không nhất quán và thiếu sót trong suy nghĩ của M. đ ã dẫn cô tới trạng thái tiêu cực, phủ định. Ông đáp: "H ãy kể tôi nghe những gì cô muốn diễn đạt khi dùng từ 'bấn loạn'?" Để hỗ trợ dễ dàng cho mục tiêu "thay đổi hành vi che đậy bên ngoài", nhà trị liệu hành vi và thân chủ cùng cộng tác để phân tích hành vi, xác định các vấn đề, rồi chọn mục tiêu xứng đáng để tiến hành. Nhà trị liệu, người đào tạo về việc thay đổi hành vi, hành động như một nhà tư vấn, huấn luyện viên, thầy giáo, nhà thông thái dày dạn kinh nghiệm, người khuyên b ảo với sự chứng tỏ những yếu tính của lòng chân tình, độ am hiểu, quan tâm và tình người, như những nhân tố củng cố cơ bản cho mối liên hệ trị liệu. Nhà trị liệu cũng tư vấn đối với người hỗ trợ thân chủ, các thành viên trong gia đình khi tình hình đòi hỏi. Cảm nhận bầu không khí hợp tác, M. bắt đầu kể chuyện thời thơ ấu. Khi cô vén lộ dần nhiều sự kiện xảy ra bất ngờ khác nhau trong quá khứ, nhà trị liệu hành vi đề nghị cô nói về những gì cô nghĩ về động cơ của bố mẹ mình, cách cô diễn dịch các sự kiện ra làm sao, những ý nghĩa gì cô đã bổ sung thêm vào những khoảnh khắc khác nhau. Họ cùng nhau khám phá cô đã khéo léo gia công, tô vẽ ra sao thế giới mà cô đang hiện hữu. Theo tiến trình trị liệu, thân chủ được giới thiệu những viễn tượng về việc quản lý cái tôi (self-management). Nhà trị liệu hy vọng thân chủ trở thành cộng tác viên tích cực nhờ những kỹ năng thực hành cụ thể và các kỹ thuật củng cố cái tôi cả về mặt hành vi lẫn nhận thức. Cả hai bàn bạc để chọn ra một mục tiêu quan trọng có thể đo lường và đạt tới được, rồi họ viết bản giao kèo hành vi cụ thể, rành mạch. Các đối tượng của bất cứ mục tiêu thực hiện tăng cường hay tiêu trừ đều biểu hiện rất rõ ràng, với một thời hạn hoàn thành được dự phòng một cách thận trọng. Cùng nhau, họ giám sát chiến lược hành vi sự lượng giá mục tiêu từng bước một, lập tức ghi âm hay vẽ biểu đồ hành vi như nó đang là, và tính tần suất xảy ra. Ban đầu, thân chủ xử sự một cách chủ động tránh lặp lại những tình huống trước đây đã tạo ra những hành vi không ưa thích, và sửa đổi các tình huống nhờ thực hành nhận thức và điều chỉnh hành vi chẳng tương hợp với hành vi không muốn có. Hiệu quả được nhận diện tùy ý nghĩa của mỗi cá nhân. Lập sẵn một kế hoạch nhằm tập luyện và củng cố khi gặp sự cố bất ngờ. Các chiến lược hành vi là sự mô hình hoá, có thể được nhà trị liệu công khai tự nhiên nhằm minh hoạ cho những đáp ứng tích cực, hoặc bật mí cho thân chủ biết cách thức đáp ứng tích cực mà thân chủ khao khát học hỏi, nếu cần có thể sử dụng băng hình video làm ví dụ. Thông qua mô hình, nhà trị liệu hướng dẫn thân chủ hình dung những biểu tượng về
  12. hành vi mong muốn. Khi diễn tập hành vi, như trong khoá hướng dẫn thói quen quyết đoán, nhà trị liệu giúp thân chủ thực hành và ông hy vọng thân chủ đáp ứng một cách như ý trong các tình huống thực tế. M. ao ước giá như cô ít bị động và kiềm chế được những biểu hiện trên khuôn mặt mẹ mình. Cô dành khá nhiều thời gian ở b ên mẹ hơn là được ở một mình thoải mái hơn, và cô cảm thấy mẹ mình thúc đ ẩy thêm bản tính dễ dãi, chiều theo ý người khác của cô. Nhà trị liệu hướng M. tưởng tượng đến cảnh viếng thăm mẹ, ở đó cô cố đáp ứng các hình thức quyết đoán khác nhau. Trong môi trường an toàn và tích cực ở phòng trị liệu, M. có khả năng chọn cách đáp ứng và cô cảm thấy phù hợp với bản tính gây tổn thương, ích kỷ, và luyện tập cùng nhà trị liệu cho đến khi cô tích hợp được cảm giác lối phản ứng đặc trưng của mẹ mình vừa không thích hợp vừa không hiệu quả. Ngoài các kỹ thuật đã nêu, còn có thể kể thêm lối hướng dẫn thư giãn, tựa như thiền định (mediation), thường đ ược sử dụng kết hợp với một số chiến lược khác để dạy cho thân chủ biết cách giảm thiểu sự căng thẳng thể lý và tâm thần,... Trong khi đó, chiến lược tiêm nhiễm stress chuẩn bị cho thân chủ vượt trước thời gian để tiên liệu những tình huống có vấn đề. M. sửa soạn cho lần thăm viếng mẹ mình sắp tới. Nhà trị liệu giải thích cho cô nỗi lo lắng bộc lộ cái tôi của cô làm tăng thêm nỗi sợ hãi ngay trước khi gặp mẹ mình. Họ cùng bàn tính bài tập ở nhà: nghe loại nhạc dịu nhẹ, ghi nhật ký những cảm xúc và ý nghĩ, chống lại bất cứ tính chất phủ định nào b ằng những lời b ình luận tích cực, tạo nên những đoạn phát ngôn củng cố mà cô có thể lặp lại với chính mình, lắng nghe băng ghi âm buổi trị liệu trước. Đến lúc gặp mẹ mình, M. tin cô có khả năng vận hành khung tham chiếu tâm trí, một cảm giác vững chãi về cái tôi, hoàn toàn quyết đoán và đáp ứng theo hướng bảo vệ bản thân, và một cảm giác mạnh mẽ rằng cô có thể xoay xở, giải quyết được mọi điều có thể xảy ra đến trong đời. Vậy là, ai đó lần đầu tiên cơ bản nghe nói đến cách tiếp cận trị liệu nhận thức có thể đưa ra nhận xét đơn giản rằng, một quan điểm không phản ánh chính xác thực tế thì không thể thật sự làm họ cảm thấy/ feel tốt hơn chút nào. Song, nếu đề nghị một nhà trị liệu nhận thức chỉ bảo với thân chủ điều gì đó là sai lầm thôi thì vô hình trung, lại vẽ biếm hoạ về cách tiếp cận này. Đối với một số người khác thì nhà trị liệu nhận thức chủ yếu là tâm lý gia nhận thức, vốn có đủ đầy kinh nghiệm để thường xuyên cung cấp các giải pháp vấn đề. Thường tỏ ra đặc biệt hữu ích đối với các thân chủ bị trầm cảm, lo hãi, hoảng sợ và rối loạn ám ảnh cưỡng bức, trị liệu hành vi và trị liệu nhận thức tương tự nhau về mặt lý thuyết; ranh giới giữa chúng thường khá mập mờ và mưu mẹo trị liệu chuyên biệt có thể tìm thấy như nhau cùng ở cả hai cách này. Do đó, dễ dàng nhận ra sự lưu giữ trong quan niệm về thân chủ của cách tiếp cận này. Thiên về kỹ thuật tác nghiệp, nhà trị liệu nhận thức- hành vi nhìn thân chủ dưới biểu tượng của một người học việc đang cần nắm vững những thao tác mong muốn, luyện tập và củng cố.
  13. Mối quan hệ giữa họ vì thế, pha trộn giữa sự khách quan, rành mạch trong phân công lao động với thái độ sẻ chia, cảm thông nhất định của tình huynh đệ. Nhà trị liệu có khuynh hướng đưa ra các ý tưởng, hay bài tập ở nhà/ homework, một điều gì đó để thân chủ thực hành nhằm giúp thân chủ đương đ ầu hữu hiệu khi xảy ra tình huống tương tự trong thực tiễn đời sống. Thời gian, với niềm khao khát đạt được mục tiêu đã nhất trí đề ra trở thành vấn đề quan tâm chung của cả hai bên trong quá trình hợp tác. 4. Con người-trọng tâm trị liệu của Carl Rogers: Tình huynh đệ (Thân chủ và mối quan hệ giữa thân chủ và nhà trị liệu- nhìn từ các cách tiếp cận tâm lý trị liệu chính yếu, bài 5) Dường như một nhà trị liệu giỏi nên được đào tạo để biết gìn giữ những ranh giới một cách rõ ràng, làm thế nào nhận ra lúc thân chủ cần có những nhu cầu đặc biệt như thuốc men hay nhập viện; ngoài ra, nhà trị liệu giỏi có lẽ cũng phải biết tất cả những triệu chứng chính mà đồng nghiệp thuộc các trường phái, cách tiếp cận khác vẫn sử dụng. Sự khác biệt căn bản là các nhà trị liệu Nhân văn xem hành vi của thân chủ từ ý nghĩa nhận thức hơn là từ quan điểm lượng giá và chẩn đoán. Nhà trị liệu giỏi thì cần phải biết làm thế nào để nhận ra cơn trầm cảm, nỗi lo hãi, ý tưởng tự sát, suy nghĩ lệch lạc, v.v... và điều ấy chỉ có thể thực hiện qua đào tạo. Nhà trị liệu cần được đào tạo đủ tốt để ông/ b à ấy đáp ứng tự nhiên với những dấu hiệu nguy hiểm, song sự đáp ứng này phải thuộc phong cách Nhân văn. Dĩ nhiên, vấn đề không chỉ có vậy. Dường như ý nghĩa của tinh thần trị liệu của Carl Rogers còn là ở chỗ không thực sự cần đến những kỹ thuật được đào tạo như phân tích giấc mơ, d ạy những câu nói khẳng định một cách tích cực, v.v... Cùng với lý luận về con người trong tiến trình tự khẳng định mình/ theory of humans in the process of actualization, quan điểm của Carl Rogers trở thành cơ bản nhất so với các trường phái tâm lý trị liệu Nhân văn khác: các thân chủ (chứ không phải bất cứ ai khác) luôn luôn là chuyên gia giỏi nhất, người thông tỏ nhất về cuộc sống của chính họ/ the clients ar always their own best experts about their lives. (David J. Cain & Julius Seeman (eds).Humanistic Psychotherapies: Handbook of Research and Practice.(2nd edn.). Washington, DC: American Psychological Association, p.147). Với Carl Rogers, người xin được giúp đỡ, hỗ trợ tâm lý- đối tác của nhà tham vấn trong tiến trình trị liệu chưa bao giờ xuất hiện trong tâm trí ông như một kẻ yếu đuối, đang mang bệnh theo mô thức của y khoa. Ông tâm sự: Tôi chưa bao giờ cảm thấy thoải mái với thuật ngữ bệnh nhân/ patient (N.T nhấn mạnh). Tôi chưa từng làm việc với những bệnh nhân; chí ít vì tôi không phải là bác sĩ. Tôi không hề muốn bị cáo buộc hành nghề y mà không có bằng cấp chuyên môn. Ngay cả khi phải khái quát hoá, chúng tôi cũng chưa từng liên đới với bệnh nhân. V à tôi biết mình đã rất có ý thức trong việc cố tìm ra một thuật ngữ thích hợp hơn. Dù không thực sự hoàn hảo, song thuật ngữ thân chủ/client (N.T nhấn mạnh) thoả mãn tương đối nhiều khía cạnh những gì tôi muốn đề cập. Có thể xem những lời liền mạch dưới đây của Carl Rogers như là định nghĩa trực tiếp
  14. về thân chủ: Thân chủ là người tự chịu trách nhiệm, dù tìm đến một ai đó để nhờ giúp đỡ, song nơi lượng giá và quyết định vẫn nằm bên trong chính bản thân anh ấy. Và anh ấy không đặt chính mình vào bàn tay của một ai khác. Anh ấy vẫn giữ óc phán đoán riêng. Dường như đây là thuật ngữ tốt nhất mà tôi có thể tìm thấy. / A client is self-responsible ,going to someone else for help but still containing the locus of evaluation within himself, the locus of decision. And he's not putting himself in the hands of someone else. He still retains his judgment. It seemed like the best term I could find. (ibid.loc.cit). Nhà trị liệu con người/ thân chủ- trọng tâm theo phong cách Carl Rogers, xa xưa còn được gọi là "nhà trị liệu không hướng dẫn"/ non-directive therapist từ bỏ dứt khoát việc diễn giải, chẩn đoán hay khuyên nhủ; do xuất phát từ quan niệm rằng những chỉ thị, hướng dẫn như thế quấy rối/ interfere tiến trình trị liệu. Tuy vậy, con người- trọng tâm trị liệu không phải là cách tiếp cận thụ động, tiêu cực. Sau khi chào hỏi xã giao, M. b ắt đầu bằng câu: "Tôi thực sự bấn loạn". Nhà trị liệu muốn cùng M. lưu lại kinh nghiệm nên truyền thông với M. là cô được hiểu chính xác, và không hề có bất kỳ sự đánh giá nào về các cảm xúc của cô. Nhà trị liệu nghe M. nói và đáp lại: "Ngay lúc này đây cô đang cảm nhận rằng giá như mọi điều đừng trở nên tồi tệ như thế. Đó là lý do vì sao cô đ ến đây." Thân chủ được xem là người có những nguồn lực nội tại cho sự tự am hiểu bản thân đủ để thay đổi quan niệm về bản ngã/ self, những thái độ, hành vi, và để vươn tới toàn bộ năng lực tiềm tàng trong mình. Khía cạnh quan trọng nhất của trị liệu là mối quan hệ giữa thân chủ và nhà tham vấn. Danh xưng thân chủ/ con người- trọng tâm trị liệu duy trì tiêu điểm của thân chủ hơn là tập trung vào các vấn đề, mục tiêu, hành vi, ho ặc vào tư cách chuyên gia của nhà tham vấn, trị liệu. Thân chủ đối mặt với nhà tham vấn cảm nhận một cách trung thực, thích đáng/ congruent, thấu cảm/ empathic understanding và chấp nhận/ accept thân chủ như một con người đơn nhất đáng quan tâm, chứ không phải thân chủ đang gặp gỡ một kỹ thuật viên đề nghị, khuyến cáo, thuyết phục hay phân tích. Trong phạm vi giới hạn của mối quan hệ trị liệu này, điều luôn được nhấn mạnh là tình bạn đồng hành giữa người với người hơn là b ản hợp đồng giữa một bên ở vị thế hỗ trợ và bên kia trong vai được giúp đỡ. Nhà trị liệu tin tưởng thái độ ấy sẽ giúp thân chủ nhận ra giá trị riêng có của bản thân cô, đ ể rồi cô bắt đầu gánh lấy toàn bộ trách nhiệm lựa chọn việc sống ở đời, đến độ những sự lựa chọn đó sẽ trở nên tương hợp với tiềm năng thực sự của chính cô. Có một vài điều kiện phải được thoả mãn trong cách tiếp cận con người-trọng tâm, và nếu được thoả mãn, sự thay đổi mang tính tâm lý trị liệu sẽ diễn ra và chúng làm thay đổi cấu trúc nhân cách. Đến đây, có thể bật ra câu hỏi: các cụm từ "sự thay đổi mang tính tâm lý trị liệu"/ psychotherapeutic change, "sự thay đổi trong cấu trúc nhân cách"/ constructive personality change vừa nêu thực sự hàm nghĩa gì? Có thể hiểu nôm na rằng, đó là sự thay đổi trong cấu trúc nhân cách của cá nhân, cả
  15. trên bề mặt và những tầng bậc sâu thẳm hơn, trong chiều hướng mà các nhà lâm sàng có thể hài lòng tích hợp thêm những ý nghĩa lớn lao nữa, ít hẳn xung đột nội tâm, nhiều năng lượng hiệu dụng hơn cho việc sống đời có ý nghĩa; thay đổi trong hành vi, tránh xa những hành vi thường được xem là thiếu chín chắn và hướng đến những hành vi trưởng thành. Trong khi thân chủ tiêu biểu cho sự lo hãi, tổn thương hay trạng thái không thích đáng thì trái lại, nhà trị liệu đại diện cho sự chân thành, trung thực, nhận thức tràn đầy và không phòng vệ khi hồi đáp những phản ứng của thân chủ. Nhà trị liệu trung thực, hợp nhất trong nhận thức, cảm xúc và hành vi cho phép thân chủ cũng thực sự thích đáng tương tự. Kinh nghiệm của thân chủ về việc nhà trị liệu biểu lộ cái tôi như thế được thân chủ nhìn nhận là hữu ích hơn so với những d ấu hiệu giảng giải liên quan đến hành vi và ý tưởng của thân chủ (mà chính thân chủ đón nhận chúng như là sự đánh giá). Sự chống đối hay ủng hộ từ phía thân chủ có thể được giải toả nhờ đối thoại chân tình. Trong những cơ hội hiếm hoi rất đáng mong đợi ấy, khi mà nhà trị liệu tỏ ra không đủ khả năng đáp ứng thân chủ với sự chấp nhận toàn thể, thì năng lực cảm xúc thích đáng và các biểu lộ của cái tôi bị giảm bớt nét hấp dẫn. Lúc M. đào sâu kinh nghiệm hồi còn bé ở nhà, cô bắt đầu nói nhanh dần, không ngừng nghỉ; cái giọng kể chuyện này gợi lên nét dính dấp sâu xa của cảm xúc vào nội dung câu chuyện. Nhà trị liệu nhận ra mình không có khoảng không gian nào để suy xét về những sự kiện được nghe, nên ông nói: "Tôi đang ngập trong các chi tiết. Chúng ồ ạt xuất hiện đến nỗi tôi không thể tiếp thu kịp. Và tôi đang tự hỏi có phải đó cũng là cách mà đôi khi cô cảm nhận về bản thân mình?" Tại bất kỳ thời điểm nhà trị liệu kinh nghiệm sự bối rối hay sự thiếu tri nhận, ông yêu cầu được hiểu rõ ràng hơn, hoặc diễn đạt bằng cách khác những từ của thân chủ trong nỗ lực muốn nắm vững toàn bộ ý nghĩa và cảm xúc của thân chủ. Kết quả của việc điều chỉnh và giải thích chi tiết ấy của thân chủ làm cho nhà trị liệu và thân chủ trở thành bạn đồng hành, cùng nhau tìm kiếm cảm nhận về kinh nghiệm diễn ra một cách thật chính xác. M. nói rằng giá như cô là đứa con gái ngoan hơn thì mẹ cô có thể đã là bà mẹ tốt hơn. Nhà trị liệu phản hồi: "Cô đ ã kể tội lỗi của mình trước đây. Có có nghĩ rằng ý định trở thành đứa con gái ngoan là một phần ý thức về tội lỗi?". Từ việc hạn định từ ngữ của chính cô và ấn tượng với việc điều chỉnh của nhà trị liệu, M. tiến sâu nữa vào cảm giác tội lỗi và nhận ra rằng cô thực sự là đứa con gái ngoan và không có lý do gì để nghĩ ngược lại- M. đạt đến sự bừng tỉnh đáng giá mang tính trị liệu. Trong cách tiếp cận con người-trọng tâm, nhà trị liệu nhìn nhận thân chủ với thái độ tôn trọng tích cực vô điều kiện/ unconditional positive regard, một ước muốn để thân chủ được là họ và để họ diễn đạt bất cứ điều gì trong mỗi khoảnh khắc; chấp nhận hiện trạng của thân chủ là hệ trọng như với chính thân chủ cảm nghĩ; và tôn trọng những khả năng, nguồn lực nội tại của thân chủ. Thái độ của nhà trị liệu quan tâm nhưng không chiếm hữu/ non-possesive caring là rất
  16. cần thiết để giúp thân chủ đi đến việc khám phá giá trị bản ngã/ self-worth. Điều cơ bản là việc tôn trọng và chấp nhận/ acceptance diễn ra một cách có chủ ý và hài hoà nhằm tránh tạo nên những quyết định cho thân chủ, đủ để thân chủ kinh nghiệm những mức độ khác nhau của sự độc lập và tự chịu trách nhiệm với chính bản thân mình. Trong tiến trình trị liệu, M. nhận thấy mình không bao giờ buộc phải cảm thấy sai trái. Nhờ nhà trị liệu, cô kinh nghiệm những cảm xúc của mình là thứ đáng giá để cô có thể sử dụng như những trạm chỉ đường ngõ hầu sắp xếp chuyện đời mình và đặt những mục tiêu cho tương lai. Khi tính tự tin tăng lên, cô phát hiện những cách thức tương hợp để diễn đạt và bảo vệ bản thân trong quan hệ với mẹ và với những người khác. Kết đôi với sự chấp nhận là cảm xúc sâu xa của nhà trị liệu muốn thấu hiểu/ empathic understanding một cách sát hợp thế giới của thân chủ như chính thân chủ nhìn nó. Nhấn mạnh sự thấu cảm này không chỉ giúp nhà trị liệu kinh nghiệm sự tôn trọng tích cực vô điều kiện mà còn cho phép thân chủ nhận ra những lúc nào thì cô được lắng nghe hoàn toàn hay không. Được lắng nghe và "nhìn thấy" bởi nhà trị liệu là chìa khoá thành công của một cuộc trị liệu; ở đó, thân chủ còn học hỏi về tình yêu thương bản ngã/ self-love. M. phát lộ là cô ghét mẹ mình, lý do duy nhất khiến cô còn tiếp tục giữ quan hệ với bà là vì cô thấy mình quá tội lỗi nếu không làm thế. Nhà trị liệu không phản đối mà cũng không biểu đồng tình với tuyên bố của cô, song ông tỏ ra chấp nhận sự trung thực của nó trong giây phút này: "Ngay cả khi cô không muốn tiếp xúc nữa, cô vẫn cảm thấy một nhu cầu không muốn từ bỏ mẹ mình dù có lần bà ấy đã bỏ rơi cô." Có vẻ tiến trình thành nhân đ ã khởi sự thông qua mối quan hệ trị liệu với nhà tham vấn, giờ đây đang tiếp tục diễn ra trong thân chủ M. Nhiều nghiên cứu khẳng định: cách tiếp cận này tỏ ra đặc biệt hấp dẫn với các thân chủ có nhu cầu sâu xa trong việc định hướng sự khám phá cảm xúc bản thân; họ là người coi trọng trách nhiệm đối với chính mình. Trong khi đó, với những ai thích được các nhà trị liệu, tham vấn đưa cho lời khuyên bao quát, chẩn đoán những vấn đề, hay giúp họ phân tích tâm lý/ tinh thần bản thân sẽ chắc chắn nhận thấy sự kém hiệu quả trong cách tiếp cận theo tư tưởng của Carl Rogers. Tóm lại, không thể không lưu ý b iểu hiện nghịch lý trong quan hệ trị liệu, bất kể cách tiếp cận trị liệu ra sao, luôn tạo nên nhiều vấn đề cho cả thân chủ và nhà trị liệu; bởi mỗi bên phải quyết định làm thế nào có thể bao hàm cả tính dân chủ và quyền uy, tinh thần cộng tác và việc không "bằng vai phải lứa", khả năng bình đẳng và hoàn toàn chẳng bình đẳng gì... Một khái niệm nào đó, như phóng chiếu/ projection xuất phát từ Freud hay sơ đồ/ schema trong trị liệu Nhận thức- hành vi không còn thể hiện sức mạnh thao tác của nó chỉ ở riêng cách tiếp cận cụ thể, duy nhất mà thực tế, người ta còn tìm thấy các biểu hiện của nó cả trong các cách tiếp cận khác nữa. Vì tự bản chất sâu xa, trị liệu chính là quan hệ và sự thay đổi chỉ diễn ra bên trong sự gặp gỡ, tiếp xúc liên nhân cách giữa nhà tham vấn và thân chủ.
  17. Dù dưới bất cứ nền văn hoá nào, đặc tính cơ bản của mối quan hệ này cũng đều đ ược nhìn nhận tựa như một cuộc hành trình chia sẻ.
nguon tai.lieu . vn