Xem mẫu

  1. TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 31 (56) - Thaùng 8/2017 Tên đường phố ở Đà Lạt thời Pháp thuộc từ đầu thế kỷ XX đến năm 1954 Dalat’s street names during the French colonial period from early 20th century to 1954 ThS. Lê Thị Nhuấn, Trường Đại học Đà Lạt Le Thi Nhuan, M.A., Da Lat University Tóm tắt Bài viết tập trung mô tả hệ thống tên đường phố Đà Lạt từ đầu thế kỷ XX đến năm 1954. Thời gian này, người Pháp đã xây dựng thành phố Đà Lạt với dáng dấp và bộ mặt đến nay vẫn còn thể hiện khá rõ nét trên phương diện kiến trúc, giao thông, trong đó có tên đường phố bằng tiếng Pháp. Bên cạnh hệ thống chỉ loại được sử dụng hoàn toàn theo quy định của Pháp, các yếu tố định danh được cấu tạo theo hai kiểu ý nghĩa cơ bản: ý nghĩa mang tính đăng ký và ý nghĩa mang tính mô tả. Bằng các số liệu và dẫn chứng cụ thể, bài viết giúp người đọc hình dung một hệ thống tên đường phố Đà Lạt với những điều kiện lịch sử và chính trị, văn hóa khá đặc thù ở thời kỳ này. Từ khóa: tên đường phố, đô thị Đà Lạt. Abstract The article focuses on describing the street name system in Dalat from early 20th century to 1954. During that period, French people built Dalat city with the appearance which has been still under French colonial’s influence in terms of architecture, traffic, including streets named in French. Besides the system used completely in accordance with the stipulation of the French, the elements of naming were structured in two ways of fundamental significance: the significance of registry nature and the significance of description character. Via specific figures and evidences, the article helps the readers to imagine the system of Dalat street names with the specific historical, cultural and political conditions of this period. Keywords: street names, Dalat city. Đà Lạt nằm ở vị trí trung tâm của cao đặt chân lên cao nguyên này. Trong nguyên Lang Bian, được bao bọc bởi chương trình khai thác thuộc địa lần thứ huyện Lạc Dương ở phía Bắc; phía Đông nhất (1897 - 1914), người Pháp đã chủ và Đông Nam giáp với huyện Đơn Dương; trương xây dựng nơi đây thành một trung phía Tây và Tây Nam giáp với hai huyện tâm nghỉ dưỡng của họ ở Viễn Đông. Lâm Hà và Đức Trọng. Đà Lạt được hình Thông qua các bản đồ án quy hoạch của thành từ năm 1893, khi bác sĩ A. Yersin1 kiến trúc sư, kĩ sư người Pháp, Đà Lạt đã 74
  2. LÊ THỊ NHUẤN có những bước chuyển mình trên nhiều của danh xưng Đà Lạt”4. Quan điểm của phương diện như hoạch định đô thị, thiết Phạm Khắc Hòe khá trùng hợp với Cunhac lập bộ máy hành chính, xây dựng cơ sở hạ – trắc địa viên, công sứ đầu tiên của Đà Lạt tầng theo mô hình đô thị châu Âu. Lâu nay, từ tháng 6 năm 1916 - “ở tại chỗ cái hồ khi nhắc đến Đà Lạt, các nhà nghiên cứu nước trước đó, con suối nhỏ của bộ lạc trong và ngoài nước chủ yếu đề cập đến người Lạch chảy qua và người ta đã gọi suối mảng kiến trúc ở Đà Lạt, còn tên đường này là Đà Lạt (Da hay Dak tiếng Thượng5 phố thời đó ít được các học giả quan tâm. nghĩa là nước) và không hiểu lý do gì mà Trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi người ta đã thay thế danh xưng Việt Nam và chỉ dừng lại khảo sát về tên đường phố ở Cam Ly6. Do đó có thể khẳng định, tên gọi Đà Lạt từ đầu thế kỷ XX đến năm 1954. thành phố Đà Lạt cũng bắt nguồn từ đó: Đạ 1. Quá trình hình thành và phát triển Lạch (suối của người Lạch). đô thị Đà Lạt từ đầu thế kỷ XX đến Với mục đích muốn tìm một nơi nghỉ năm 1954 dưỡng dành cho binh lính Pháp tránh được Trước khi người Pháp thám hiểm Đà nắng nóng ở đồng bằng, theo đề nghị của Lạt, đã có một nhóm người Lạch2 sinh sống bác sĩ A. Yersin, toàn quyền Pháp là Paul ở đó từ lâu đời, lập nên từng cộng đồng theo Doumer7 đã chọn cao nguyên Lang Bian huyết thống (bòn hoặc bon) quanh khu vực làm nơi nghỉ dưỡng. Đây là dấu mốc quan con suối mang tên “Đạ Lạch” (từ khu vực trọng, quyết định vị trí và diện mạo của Đà Học viện Lục quân (ngày nay) men theo Lạt ngày nay. Việc phát hiện Đankia của con suối đổ vào hồ Xuân Hương sau đó Yersin hội đủ yếu tố phát triển đô thị là một chảy đến thác Cam Ly). Tên của bon3 tầm nhìn lớn, vĩ đại, có giá trị. thường được đặt theo tên của dòng họ Gắn liền với quá trình tìm và xây dựng chiếm ưu thế, như: Bon Yồ, Bon Đờng, Bon Đà Lạt, những người Việt đầu tiên có mặt Đa Góut, Bon Nơr, Bon Lâm Biêng… Sinh tại cao nguyên Lang Bian (Đà Lạt) là hoạt kinh tế truyền thống của họ chủ yếu là những người tham gia đoàn thám hiểm của trồng lúa nước. Do đó, tên gọi Đà Lạt đã có Yersin8. Năm 1905, bác sĩ Vassal, J.J đã từ trước khi người Pháp tìm ra cao nguyên viết về những người Việt lên Đà Lạt: Lang Bian. Cho đến nay, mặc dù có nhiều “người Việt chưa thành công trong việc cách lý giải khác nhau về địa danh này; định cư ở miền núi cao trên dãy Trường song, phần lớn đều thống nhất với cách Sơn. Ở Đà Lạt, có một nhóm khoảng 60 hiểu: Đạ là nước/sông/suối, Lạt là Lạch đến 80 người. Hầu hết, họ là những người (con suối của người Lạch). Cũng theo Phạm đi buôn chuyến, sống trong những điều Khắc Hòe, “Đà theo tiếng Cơ Ho là kiện gian khổ, mặc quần áo như ở đồng nước/suối, Lạt là tên một bộ tộc ở dưới chân bằng, bị lạnh, ăn uống thiếu thốn và không núi Lang Bian. Đà Lạt là suối của người có gia đình. Họ đến từ Phan Rang hay Lạt…[…]… Những người rởm chữ bảo Phan Thiết với đôi quang gánh, trước khi rằng, Đà Lạt là tên cấu thành từ 5 chữ cái đến được cao nguyên họ đã đi ngang qua đứng đầu của mỗi chữ trong câu latin: Dat ngôi làng rất độc, những vùng nguy hiểm Aliis Laetitiam Aliis Temperiem có nghĩa là và bị bệnh sốt rét”9. Cuộc sống của người cho người này niềm vui cho người kia sức Việt đầu tiên ở vùng đất mới khá khó khăn, khỏe. Đó là một cách hiểu sai đi ý nghĩa thật gian khổ. Họ phải đối phó với khung cảnh 75
  3. TÊN ĐƯỜNG PHỐ Ở ĐÀ LẠT THỜI PHÁP THU C TỪ ĐẦU THẾ KỶ XX ĐẾN NĂM 1954 thiên nhiên còn hoang sơ. Nhưng sự có mặt thế giới (1914-1918 và 1939-1945) đã làm của họ đã góp phần làm cho Đà Lạt biến cho những người Pháp ở Đông Dương đổi, mở đầu cho sự ra đời của một đô thị không thể về Pháp nghỉ hè. trên cao nguyên Lang Bian. Cũng trong Một điều kiện thuận lợi là về giao năm này, Paul Champoudry - thị trưởng thông như đường ô tô, đường sắt từ Sài đầu tiên của đô thị Đà Lạt - “không thị Gòn và các tỉnh miền Trung lên Đà Lạt đã dân”10 đã trực tiếp phác thảo đồ án quy được hoàn thiện. Nhờ đó, sự giao lưu giữa hoạch Đà Lạt theo phương pháp quy hoạch Đà Lạt với các vùng khác khá thuận tiện. phân khu chức năng (zonning), kèm theo Từ năm 1914, những công trình công cộng dự án chỉnh trang và phân lô đất. đầu tiên được xây dựng, các trục đường Năm 1906, Đà Lạt không thay đổi chính trong thành phố cũng được hình nhiều do giao thông đi lại khó khăn và kinh thành dưới thời Thị trưởng Đà Lạt là phí đầu tư còn hạn chế. Năm 1908, trong Canlvey (1909-1916). Trục đường chính một chuyến lên Đà Lạt, một người Pháp đã phía Nam suối Cam Ly nơi đặt địa điểm mô tả Đà Lạt như sau: “Đà Lạt! Tám hay của khu trung tâm hành chính gồm các mười nóc nhà tranh của người Việt, một đường Paul Doumer, Yersin, Jean O’Neill. nhà sàn bằng ván thô sơ dành cho lữ khách, Về hành chính, Đà Lạt trở thành một một vòi nước, quảng trường, chợ, một nhà tỉnh lỵ của tỉnh Lang Bian sau quyết định bưu điện đơn sơ và trên ngọn đồi, sau hàng ngày 6/1/1916 của toàn quyền Paul rào và giữa rặng thông xanh vào cái nhà Doumer. Tiếp đến, vào tháng 3 năm Bính gạch của trung tâm thành phố Đà Lạt11. Thìn tức năm 1916, vua Duy Tân cho thiết Năm 1910, ngoài cư dân tại chỗ còn có số lập thị xã Lâm Viên. Sách “Đại Nam thực ít người Việt là nhân viên đo đạc. Họ cư trú lục chính biên đệ lục kỷ phụ biên”, mục tập trung ở hai bên suối Cam Ly – con suối thứ 2032 cho biết: “Lúc đầu, vì địa thế chính của Đà Lạt. Một số người ở Mỏ Cày Lâm Viên rộng rãi, khí hậu mát mẻ, tương (Bến Tre) đã đến Phan Rang (Ninh Thuận) lai có thể thành nơi đô hội đông đúc, đã đặt thành lập sở muối Cà Ná và lên Đà Lạt mở riêng làm một tỉnh. Lúc ấy, nghĩ đặt thêm ở lò làm gạch tại suối Cam Ly giữa Hồ Xuân xứ Đà Lạt một thị xã và dinh thự nhà cửa, Hương ngày nay. Thời gian này, những cùng công sảnh biện sự Đông Dương đều người Việt được đưa lên cao nguyên Lang lần lượt xây dựng, còn nhân dân như ai Bian là những tù nhân tham gia phong trào muốn tới ở đất quan phòng quanh thành, kháng thuế ở Trung kỳ, họ là những người xây dựng nhà cửa làm ăn sinh sống cũng thay vì phải lưu đày ở Lao Bảo hay Côn cho, chuẩn theo lời nghị mới tuân hành12. Lôn đã bị đưa lên Ðà Lạt để khai phá đất Vua Duy Tân còn chuẩn bàn cấp cho tri hoang, xây dựng nhà cửa, đường sá. Ngoài huyện người Việt ở tỉnh Lâm Viên ấn, ra, một bộ phận những người giúp việc kiếm đều một quả, ấn khắc chữ Lâm Viên trong các phái đoàn nghiên cứu, những Nam Tri Huyện, kiếm khắc hai chữ Lâm người đi buôn... cũng tìm đến Đà Lạt. Viên13. Có thể thấy rằng, sách “Đại Nam Những nguyên nhân dẫn đến sự thay chính biên đệ lục kỷ phụ biên” đã có những đổi nhanh chóng kể trên của Đà Lạt trước ghi chép cụ thể về việc đặt tri huyện người hết phải kể đến sự tác động của tình hình Việt đầu tiên cho tỉnh lỵ mới Lâm Viên chính trị trên thế giới. Hai cuộc chiến tranh cùng với chỉ dụ của vua Duy Tân cho 76
  4. LÊ THỊ NHUẤN thành lập thị xã Lâm Viên ở xứ Đà Lạt. cư như Bellevue, Cité des Pics, đường René Về quy hoạch đô thị, gồm các đồ án Robin, đường Trại Hầm15. quy hoạch của các kiến trúc sư, kĩ sư như Theo Nghị định ngày 2-9-1941, Toàn Jean O’Neill, Ernest Hébrard… Jean quyền Decoux đã giao cho Nha Quy hoạch O’Neill đã đưa ra đồ án quy hoạch vào năm đô thị và Kiến trúc Đông Dương nghiên 1919. Ông bố trí 1 khu cho người Việt gọi cứu và hoàn thành đồ án. Năm 1942, là “làng người An Nam” tại khu vực ấp Jacques Lagisquet đã thiết lập đồ án chỉnh Ánh Sáng ngày nay, nhằm đảm bảo nguồn trang và phát triển Đà Lạt. Đà Lạt sẽ được nhân công ổn định cho các công trường tổ chức thành một thể thống nhất tập trung đang triển khai ồ ạt tại Đà Lạt. Ernest ở hai trục đường khung sườn của thành phố Hébrard đã đưa ra bản đồ án quy hoạch vào và sự phát triển được dự tính sẽ về Nam năm 1923. Trong đồ án của Hébrard là suối Cam Ly, theo hướng Tây và Tây muốn xây dựng Đà Lạt thành thủ phủ liên Bắc16. Đồ án này đã làm rõ và nổi bật các bang Đông Dương với khoảng 300.000 đặc tính riêng của Đà Lạt: trung tâm nghỉ dân. Trong bản đồ án này, Đà Lạt gồm 3 dưỡng, thành phố học đường, trung tâm văn khu đô thị lớn là: Khu đô thị của người Việt hóa, du lịch... Các phân khu chức năng (284 ha); khu đô thị cho người Âu (280 ha); được tổ chức hợp lý, phù hợp với thực tế và và 02 khu trung tâm hành chính14... (người xác định cụ thể phạm vi của những không dân tộc tại chỗ như người Lạch gần như gian trống, những khu vực bất kiến tạo để không được di dân về đô thị). bảo vệ cảnh quan thiên nhiên Đà Lạt thời Từ năm 1923, dưới thời Thị trưởng kỳ bước vào đỉnh cao của thực dân Pháp. Ganier (1920-1926) thành phố được quy Các đồ án của mỗi kiến trúc sư, kĩ sư hoạch theo đồ án của kiến trúc sư Ernest tuy có nhiều khác biệt, nhưng luôn mang Hébrard. Từ các trục đường chính của tính kế thừa lẫn nhau và được điều chỉnh thành phố đã phát triển thêm những đường để phù hợp với điều kiện thực tế của từng khu vực gồm đường cấp 1 khu dân cư và thời kỳ. Theo đó, các điểm cao, sườn đồi và đường cấp 1 khu thương mại như đường thung lũng được khai thác để xây dựng Pasteur; Gia Long, Đồng Khánh, công trình với những quy định nghiêm ngặt Maréchal Foch, Cầu Quẹo, Hôpital, Gare. về quy mô và khoảng cách hợp lý, hòa Một số tuyến nhánh chính cũng được hình nhập và làm tăng thêm giá trị địa hình và thành: Robinson, Rue des Missions, Prenn, cảnh quan tự nhiên cho Đà Lạt. Jean O’Neill, Bourgery… Cùng với việc xây dựng đô thị, dân số Trong những năm đầu thập niên 30 của ở Đà Lạt gia tăng khá nhanh. Năm 1923 là thế kỷ XX, Đà Lạt đã thu hút được nguồn 1.500 người và năm 1930, Đà Lạt có tài chính lớn để phát triển, tiếp tục được khoảng 350 người châu Âu, 10.000 người đầu tư và trở thành một thành phố nghỉ mát Việt, 1.700 cư dân từ Sài Gòn lên nghỉ nổi tiếng. Cùng với các công trình xây dựng mát17. Quá trình tập trung dân số trong nội và tuyến đường giao thông trong khu vực thành đô thị đã khiến Đà Lạt phát triển các nội thành được mở rộng dưới thời các Thị loại hình dịch vụ để phục vụ cho sinh hoạt trưởng Darles Auguste, Champoudry, của một tầng lớp thị dân như rạp hát, rạp Lucien Auger. Các đường cấp 2 khu trung chiếu bóng, khu vui chơi, giải trí... Điều tâm thương mại quanh chợ; đường khu dân này chứng tỏ lối sống thị dân ở đô thị Đà 77
  5. TÊN ĐƯỜNG PHỐ Ở ĐÀ LẠT THỜI PHÁP THU C TỪ ĐẦU THẾ KỶ XX ĐẾN NĂM 1954 Lạt đã hình thành. - Avenue: Paul Doumer, Pierre 2. Tên đường phố Đà Lạt từ đầu Pasquier, Albert Sarraut, Roume, René Robin, thế kỷ XX đến năm 1954 Graffeuil, Docteur Yersin, Jean O’Neil 2.1. Từ 1915 đến trước năm 1945 - Rue: Pasteur, Calmette, Champoudry, 2.1.1. Yếu tố chỉ loại Cunhac, Gia Long, Minh Mạng,... Giống như mọi đơn vị định danh, mỗi - Route de Dankia, Prenn, Robinson, Route tên đường (74 con đường thời kỳ này) là fédérale No 11 (Đường Liên bang số 11),... một phức thể địa danh gồm hai phần chỉ Với phương thức sử dụng từ chỉ loại loại và phần định danh. Trên “Sơ đồ Đà này, chính quyền Pháp đã áp đặt hoàn toàn Lạt” (Plan de Dalat) do Tòa Thị chính Đà ý nghĩa của các từ tiếng Pháp vào khi xây Lạt ấn hành trước năm 1954, Đà Lạt có 3 dựng tên cho đường phố Đà Lạt. Giữa phần loại đường: đại lộ (boulevard, avenue), chỉ loại và phần định danh thường được nối đường nhựa (rue), đường trải đá (route). bằng phân từ sở hữu là de, des khi phần - Boulevard Lamartine định danh là một danh từ. Bảng 1. Tên đường phố mang phân từ sở hữu STT Tên cũ (trước năm 1945) Tên mới (thay đổi về sau) 1 De Gaulle (quảng trường) Diên Hồng 2 De Lattre de Tassigny Trình Minh Thế, Khởi nghĩa Bắc Sơn 3 Louat de Boart Cô Giang + Phó Đức Chính 4 Cité des Pics Bảo Long, Vạn Kiếp 5 Rue de la Gare Nguyễn Trãi 6 Rue des Missions Nhà Chung Place de Saint Nicolas (Quảng 7 Công trường Cộng Hòa trường Thánh Nicolas) Nguồn: Tác giả tổng hợp và phân loại 2.1.2. Cấu tạo phức thể tên đường phố a. Lớp tên mang ý nghĩa đăng ký Đà Lạt Khi người Pháp đến Đà Lạt đặt tên cho Từ góc độ ngữ nghĩa, nhà địa danh học các đường phố và những công trình xây người Nga Superanskaja đã chia địa danh dựng đều được ghi bằng tiếng Pháp. Hệ làm 5 loại, tương ứng với các phương thức thống tên đường phố Đà Lạt giai đoạn cấu tạo địa danh ý nghĩa là địa danh kí Pháp thuộc chiếm vị trí hết sức đặc biệt, bị hiệu, địa danh mô tả, địa danh đăng ký, địa quy định bởi điều kiện chính trị, lịch sử đặc danh thể hiện ước vọng và địa danh do yếu thù của giai đoạn này đó là lớp địa danh sử tố lịch sử18. Tuy nhiên, trong quá trình dụng loại tên có giá trị đăng ký theo hệ khảo sát tên đường phố Đà Lạt chúng tôi thống phân loại của các nhà địa danh học. nhận thấy ở đây chỉ có các lớp địa danh Với mục đích khẳng định hơn nữa vị đăng ký, địa danh mô tả. trí, quyền lực của mình tại Việt Nam, 78
  6. LÊ THỊ NHUẤN khẳng định ý tưởng xây dựng một đô thị đoàn truyền giáo như Missions (nay là Nhà thuộc địa của Pháp, chính quyền thực dân Chung); tên của một số nhà bác học, bác sĩ đã ra quy định về việc sử dụng nhân danh nổi tiếng, nhà thơ... cũng được xuất hiện và lựa chọn tên cho đường phố: Tên của trên một số đường phố như Pasteur (đường toàn quyền Đông Dương; tên của thống Hai Bà Trưng ngày nay), đường Calmette – chế, đô đốc, tướng Pháp; tên của thị trưởng mang tên bác sĩ đã tìm ra thuốc phòng bệnh Đà Lạt; tên của các đoàn truyền giáo; tên lao cho trẻ sơ sinh (nay được đổi thành của các nhân vật lịch sử Việt Nam... đường Ngô Quyền), đường Yersin (nay là Từ quy định này, việc sử dụng nhân đường Trần Phú), đường Lamartine (nay là danh trở thành khuynh hướng chủ yếu đường Bà Huyện Thanh Quan). Ngoài ra, trong việc đặt tên các con phố ở Đà Lạt. tên của doanh nhân Pháp cũng được đặt tại Phần lớn, tên của các nhà chính trị, quân sự Đà Lạt như đường Bourgery. Trong những có liên quan hoặc có công trong công cuộc năm 1930, ông Robert Clément Bourgery xâm lược và bình định Việt Nam như: Paul là doanh nhân người Pháp đã xây dựng Doumer - nguyên Bộ trưởng Bộ Tài chính ngôi biệt thự ở Đà Lạt. Con đường từ biệt Pháp đồng thời là tác giả của “Chương thự này đến đường Graffeuil mang tên trình khai thác thuộc địa lần thứ nhất” và Bourgery, sau đó Bảo Đại đã mua lại biệt cũng là người thiết kế cho chế độ thuộc địa thự Bourgery và đặt tên là Dinh Gia Long. Pháp ở Đông Dương. Chính Paul Doumer Mặt khác, thực dân Pháp còn đặt tên một đã đánh đòn quyết định vào chủ quyền số địa danh như Annam (Trung Kỳ22), thống nhất vốn có của Việt Nam, thắt chặt France (nước Pháp) ở Đà Lạt để nhằm mục các quyền tự chủ của nhân dân Việt Nam đích tôn vinh. so với “Hiệp ước 1884”. Cùng với các tên đường phố mang tên Tiếp đến, tên của các toàn quyền Đông người Pháp, tên đường phố mang tên người Dương như Albert Pierre Sarraut – toàn Việt cũng xuất hiện trên một số con phố. quyền lần thứ nhất từ năm 1911 – 191419; Theo thống kê tên phố của Đà Lạt trước toàn quyền Ernest Nestor Roume từ năm năm 1945 cho thấy, ở Đà Lạt chỉ có một số 1915-191620; toàn quyền Đông Dương ít con đường mang tên người Việt Nam. Eugène Jean Louis René Robin từ năm Ngoài tên của một số nhân vật lịch sử như 1930 - 1932; toàn quyền Đông Dương Jean Gia Long (đường Lê Đại Hành ngày nay), Decoux từ năm 1940 – 194521… Bên cạnh Minh Mạng (nay là Trương Công Định), đó, tên của khâm sứ Pháp như Graffeuil Đồng Khánh (nay là Nguyễn Chí Thanh), (nay là đường Hùng Vương); tên của thống Khải Định (nay là Nguyễn Văn Cừ)…; tên chế, đô đốc, tướng Pháp: Maréchal Foch một số người Việt thân với Pháp cũng (nay là đường Ba Tháng Hai)...; tên của các được sử dụng như Quận Công Long Mỹ thị trưởng Đà Lạt: Champoudry làm thị (nay là đường Thủ Khoa Huân); Hà Văn trưởng từ 1901-1908 (nay là đường Lê Ký (nay là Nam Kỳ Khởi Nghĩa). Hồng Phong), Cunhac làm thị trưởng từ b. Lớp địa danh có ý nghĩa mô tả 1916-1920, Helgouach từ 1926-1930, Cùng với hệ thống địa danh mang tính Auguste Darles từ 1930-1934…; tên của đăng ký bằng tên người, sự tồn tại của kiến trúc sư, kĩ sư thiết kế Đà Lạt như Jean nhóm địa danh mang tính mô tả đã tạo nên O’Neill (nay là Hoàng Văn Thụ); tên của nét đặc thù của đô thị Đà Lạt từ đầu thế kỷ 79
  7. TÊN ĐƯỜNG PHỐ Ở ĐÀ LẠT THỜI PHÁP THU C TỪ ĐẦU THẾ KỶ XX ĐẾN NĂM 1954 XX đến năm 1954. Thứ ba, dùng tên các loài hoa để đặt Trước hết, lớp địa danh này được thể tên đường như đường Rue des Roses hiện qua tên phố chỉ nghề nghiệp như Lò (đường Hoa Hồng, nay là đường Huỳnh Gạch (nay là Hoàng Diệu) – khu vực có Thúc Kháng), Rue des Glaieuls (đường nhiều người ở Quảng Nam, Quảng Ngãi, Hoa Lay – ơn)… Thừa Thiên – Huế và Nam Bộ đến Đà Lạt 2.2. Từ năm 1945 đốt lò làm gạch. Sau khi Nhật đảo chính Pháp, Đà Lạt Tiếp đó, cùng với địa danh mang ý được giao cho người Việt Nam quản lý. nghĩa mô tả nghề nghiệp, đối với một số Ngày 25-8-1945, Ủy ban Cách mạng lâm phố khác, phương thức mô tả vẫn được sử thời Thị xã Đà Lạt được thành lập, báo dụng như một phương thức rất thuận lợi và hiệu thời kỳ độc chiếm nơi đây của người hữu hiệu. Đối tượng sử dụng để mô tả Pháp sắp kết thúc. Nhưng sau đó, Bảo Đại tương đối đa dạng. Dưới đây là những loại đã ký thỏa hiệp với Pháp về vấn đề Đà Lạt đối tượng chủ yếu được lựa chọn: và Tây Nguyên vào năm 1949. Theo thỏa Thứ nhất, chọn một địa điểm có tính hiệp này, Pháp nhìn nhận Việt Nam là một đặc trưng nhất như Cité des Pics (Cư xá quốc gia “độc lập và thống nhất”, nhưng Đỉnh núi)23 (Vạn Kiếp ngày nay); Prenn trên thực tế là một sự mặc cả giữa Bảo Đại (Nguyễn Tri Phương24 + Đặng Thái Thân + và Bollaert. Pháp đã khuyên Bảo Đại nên Trần Nhân Tôn) – tiếng Thượng với nghĩa tách Tây Nguyên thành một đơn vị hành là cây cà đắng, là một món ăn được đồng chính riêng. Theo đó, ngày 14-4-1950, Bảo bào các dân tộc tại chỗ ở đây ưa thích và Đại ra Dụ số 6-QT/TD lập nên “Hoàng mọc khá nhiều dọc theo con suối cùng tên; triều cương thổ” và chọn Đà Lạt làm trung Hôpital (nay là đường Hải Thượng) vì gần tâm. Sau đó, ngày 10-11-1950, Bảo Đại bệnh viện, Dốc Nhà Bò (ngày xưa, ở cuối tiếp tục ra Dụ số 4-QT/TD với nội dung dốc có một trại nuôi bò của người Pháp) sửa đổi địa giới hành chính thị xã Đà Lạt (nay là đường Đào Duy Từ); Gare (nhà và sáp nhập một phần tỉnh Lâm Viên vào ga); Jardins (vườn rau)... tỉnh Đồng Nai Thượng25. Bởi sự thay đổi Thứ hai, chọn đặc điểm về hình dạng đó, kể từ đây, người Việt không còn tự do địa lý của phố như trường hợp Clémenceau lên định cư ở Đà Lạt như trước. Năm 1952, (ngã tư); Dốc Trại Hầm (nay là đường trước tình hình thất bại của quân đội Pháp, Hoàng Hoa Thám); Dankir là một hồ nước chính phủ Pháp đã cố bám lấy giải pháp gần nơi cư trú của người Lạch ở huyện Lạc “trung lập” ở Đà Lạt bằng cách bàn với Dương; Cầu Quẹo để chỉ con đường bị Bảo Đại cho phép dân di cư lên Đà Lạt để cong. Basse du Camly (Cam Ly Hạ) - thực hiện chương trình kiến thiết “Hoàng người Lạch gọi thác Cam Ly là Liang Tô triều cương thổ”26. Sra (Thác ông Tô, bà Sra). Khi chuyên Năm 1953, nhà báo Nguyễn Vỹ - Chủ viên trắc địa người Pháp vẽ bản đồ hỏi nhiệm kiêm Chủ bút báo Dân chủ, Dân ta trưởng buôn thác nước tên gì, ông tưởng xuất bản ở Đà Lạt, Chủ tịch Hội đồng Thị hỏi tên ông nên trả lời: “K’Mlơi”. Người xã Đà Lạt đã đổi hầu hết tên đường tiếng Pháp ghi K’Mlơi là Camly. Từ đó, từ Pháp ở Đà Lạt sang tiếng Việt, chỉ giữ lại Camly được dùng để gọi tên thác Liang Tô tên nhà bác học Pasteur, các bác sĩ: Sra và dòng suối Cam Ly. Calmette, Yersin. Các tên đường Gia Long, 80
  8. LÊ THỊ NHUẤN Khải Định, Duc de Long Mỹ được đổi Hổ, Trần Nhật Duật, Cô Bắc27... Tại làng thành Lê Đại Hành, Cường Để, Thủ khoa Đa Thành (nay là Phường 7) ở Đà Lạt Huân; Cầu Quẹo thành Phan Đình Phùng, trước năm 1953 có 5 con đường làng mang Lò Gạch thành Hoàng Diệu, đường tên: Đệ nhất lộ, Đệ nhị lộ, Đệ tam lộ, Đệ tứ Bourgery thành Lý Thái Tổ, đường lộ, Đệ ngũ lộ. Sau năm 1953, đã có sự thay Graffeuil thành đường Lê Thái Tổ... và đặt đổi từ đường mang tên Pháp sang đường thêm nhiều con đường mới như Tăng Bạt mang tên Việt. Bảng 2. Tên đường làng Đa Thành Đà Lạt năm 195328 Tên đường cũ Tên Pháp Tên đường mới từ năm 1953 Đệ nhất lộ Première route de Da Thanh Cao Bá Quát Đệ nhị lộ Deuxième route de Da Thanh Nguyễn Siêu Đệ tam lộ Troisième route de Da Thanh Đinh Công Tráng Đệ tứ lộ Quatrième route de Da Thanh Bạch Đằng Đệ ngũ lộ Cinquième route de Da Thanh Cao Thắng Tóm lại, các tên đường phố ở Đà Lạt từ Chú thích đầu thế kỷ XX đến trước năm 1945 chủ yếu 1 Alexandre John Émile Yersin (1863-1943) - bác mang tên người Pháp, chỉ có một số ít là sĩ, Viện trưởng Viện Pasteur Nha Trang, đã đặt người Việt. Việc đặt tên đường phố mang chân lên cao nguyên Lang Bian ngày 21-6-1893. tên Pháp của các nhà cầm quyền Pháp ở Đà 2 Người Lạch là một trong 6 nhóm địa phương của Lạt với mục đích muốn biến nơi đây thành dân tộc Cơ Ho (Làc/Lạch, Cil, Srê, Cơ-dòn, Nộp, xứ “tự trị” trong liên bang Đông Dương T’ring). 3 Bòn là đơn vị tổ chức xã hội cơ bản của nhiều dân thuộc Pháp. Những dấu ấn người Pháp để tộc thuộc nhóm Môn – Khmer. Từ bon có nghĩa lại cho Đà Lạt như kiến trúc và giao thông tương tự như làng trong tiếng Việt. đô thị đều nằm ngoài ý muốn chủ quan của 4 Phạm Khắc Hòe (1983), Từ triều đình Huế đến họ. Cố nhiên, do những biến động của tình chiến khu Việt Bắc, Nxb Hà Nội, tr.226-227. 5 hình chính trị ở thế giới và Việt Nam, nên Thượng/thượng du, những người ở vùng dưới thường gọi những cư dân ở khu vực Trường Sơn – những chủ đích của chính quyền thực dân Tây Nguyên là người Thượng. đều không thể thực hiện được. Do đó, năm 6 Xem: Ủy ban nhân dân thành phố Đà Lạt (2008), Địa 1945 – thời điểm kết thúc giai đoạn phát chí Đà Lạt, Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh. triển đỉnh cao của đô thị Đà Lạt. Sau 1953, 7 Paul Doumer – Toàn quyền Đông Dương đã lên hầu hết tên đường phố ở Đà Lạt mang tên cao nguyên Lang Bian vào tháng 3 năm 1899 và ký Nghị định thành lập trạm hành chính trên Cao người Pháp đều được đổi thành tên người nguyên Lang Bian. Việt. Từ việc nghiên cứu tên đường phố Đà 8 Ủy ban nhân dân Thành phố Đà Lạt (1993), Đà Lạt, chúng tôi hy vọng góp phần nhận diện Lạt thành phố cao nguyên, Nxb Thành phố Hồ bước chuyển mình của Đà Lạt từ mô hình Chí Minh, tr. 100. 9 nông thôn sang mô hình đô thị phương Tây J.J. Vassal (1907), “Le Langbian”, Revue Indochinoise, Hanoi, No 53 - 54, page 358 (tài liệu hiện đại. lưu tại Thư viện Pasteur Thành phố Hồ Chí Minh). 81
  9. TÊN ĐƯỜNG PHỐ Ở ĐÀ LẠT THỜI PHÁP THU C TỪ ĐẦU THẾ KỶ XX ĐẾN NĂM 1954 10 27 Những năm đầu thế kỷ XX, cư dân tại chỗ là một Cô Bắc (1908-1943), tên thật là Nguyễn Thị số bong làng người Lạch cư trú ở Đà Lạt không Bắc, sinh trưởng trong một gia đình nhà nho phải là thị dân. Do đó, họ không thuộc cư dân thanh bạch ở phủ Lạng Thương (nay là tỉnh Bắc trong các đồ án quy hoạch của người Pháp. Trong Giang). Là đảng viên Việt Nam Quốc Dân quá trình xây dựng đô thị Đà Lạt, người Pháp đã Đảng, bà cùng với em là Nguyễn Thị Giang đảm di dời các buôn làng ở quanh hồ Grand Lac (nay nhiệm việc giao liên, tuyên truyền và phát triển là hồ Xuân Hương) về chân núi Lang Bian. Việt Nam Quốc Dân Đảng trong binh lính. Sau 11 Paul Duclax (1994), Dalat de 1907, A. Chaval khi khởi nghĩa Yên Bái thất bại, bà bị bắt, dan la nature Sanvoge, Revue Indochine, N099 – nhưng vẫn hiên ngang, bất khuất trước Hội đồng Dẫn theo Trương Phúc Ân (2000), Bí mật thành đề hình họp ngày 28-3-1930 tại Yên Bái, lên án phố hoa Đà Lạt, Nxb Văn nghệ Thành phố Hồ chế độ thực dân Pháp ở Việt Nam. 28 Chí Minh, tr.95. Nguyễn Hữu Tranh, Tên đường phố Đà Lạt (bản 12 Quốc sử quán triều Nguyễn (2012), Đại Nam đánh máy), cung cấp năm 2015. thực lục chính biên đệ lục kỷ phụ biên, Cao Tự Thanh (dịch), Nxb Văn hóa văn nghệ, tr.240. TÀI LIỆU THAM KHẢO 13 Quốc sử quán triều Nguyễn (2012), Sđd, tr.240. 1. Trương Phúc Ân (2000), Bí mật thành phố hoa 14 Hébrard, Ernest (1923), Futur plan de Dalat. Đà Lạt, Nxb Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh. 15 Ủy ban nhân dân thành phố Đà Lạt (2008), Tài 2. Bản đồ Thị xã Đà Lạt (1960), Phân cục Địa liệu đã dẫn, tr.246-247. dư Đà Lạt. 16 Ủy ban nhân dân thành phố Đà Lạt (1993), Tài 3. Hébrard, Ernest (1923), Futur plan de Dalat. liệu đã dẫn, tr.162. 17 4. Phạm Khắc Hòe (1983), Từ triều đình Huế Quốc sử quán triều Nguyễn (2012), Sđd, tr.240. đến chiến khu Việt Bắc, Nxb Hà Nội. 18 Nguyễn Thị Việt Thanh (2014), “Địa danh hành 5. J.J. Vassal (1907), “Le Langbian”, Revue chính Thăng Long – Hà Nội thế kỷ XIX”, in trong 25 năm Việt Nam học theo định hướng Indochinoise, Hanoi, No 53 – 54 (tài liệu tại liên ngành, tr.343. Thư viện Pasteur Thành phố Hồ Chí Minh). 19 Albert Pierre Sarraut đã mua chuộc, tầng lớp 6. Mộ nhân công lên cao nguyên miền Nam thượng lưu trí thức mới hình thành, bộ máy (1952), Phông Phủ Thủ hiến Trung Việt, Hồ chính quyền ấy đã có những điều chỉnh nhất sơ 2479 (Tài liệu lưu tại Trung tâm lưu trữ định cho có vẻ “Pháp – Việt đề huề”. Quốc gia IV). 20 Roume đã quyết định tiếp tục xây dựng Đà Lạt 7. Quốc sử quán triều Nguyễn (2012), Đại Nam từ năm 1915. thực lục chính biên đệ lục kỷ phụ biên, Cao 21 Jean Decoux đã có ý định biến Đà Lạt thành thủ Tự Thanh (dịch), Nxb Văn hóa văn nghệ. đô của 3 nước Đông Dương (Việt Nam, Lào, Campuchia). 8. Nguyễn Thị Việt Thanh (2014), “Địa danh 22 hành chính Thăng Long – Hà Nội thế kỷ Theo “hiệp ước Harmand” ký năm 1883, Trung Kỳ (tiếng Pháp gọi là Annam) kéo dài từ Đèo XIX”, in trong 25 năm Việt Nam học theo Ngang đến phía Bắc tỉnh Bình Thuận. định hướng liên ngành, tr.343. 23 Còn gọi là Decoux. 9. Nguyễn Hữu Tranh (2001), Đà Lạt năm xưa, 24 Từ năm 1976, đường Nguyễn Tri Phương đổi Nxb Thành phố Hồ Chí Minh. thành đường 3 tháng 4. 10. Ủy ban nhân dân Thành phố Đà Lạt (1993), 25 Ủy ban nhân dân thành phố Đà Lạt (2008), Tài Đà Lạt thành phố cao nguyên, Nxb Thành liệu đã dẫn, tr.16. phố Hồ Chí Minh. 26 Mộ nhân công lên cao nguyên miền Nam 11. Ủy ban nhân dân Thành phố Đà Lạt (2008), (1952), Phông Phủ Thủ hiến Trung Việt, Hồ sơ Địa chí Đà Lạt, Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ 2479 (Tài liệu lưu tại Trung tâm lưu trữ Quốc Chí Minh. gia IV). Ngày nhận bài: 29/9/2015 Biên tập xong: 15/8/2017 Duyệt đăng: 20/8/2017 82
nguon tai.lieu . vn