Xem mẫu

  1. MỤC LỤC TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG Trang Số 16 - Tháng 6/2020 Mô hình nuôi cá bông lau (Pangasius krempfi) 3-13 trong ao đất ở tỉnh Sóc Trăng. VIỆN NGHIÊN CỨU Culture model of Pangasius krempfi in earthen NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II pond in Soc Trang province. Giấy phép xuất bản NGUYỄN VĂN HIỆP, ĐẶNG VĂN TRƯỜNG, số 47/GP-BTTTT NGUYỄN QUANG TRUNG, HỒ MỸ HẠNH, cấp ngày 8/2/2013 LÂM VĂN TÙNG, LÊ TRUNG TÂM Xuất bản hàng quý HỘI ĐỒNG BIÊN TẬP: Thực nghiệm mô hình tôm sú - lúa luân canh 14-26 Tổng biên tập: trên vùng đất phèn nhiễm mặn ở huyện Long Mỹ, tỉnh Hậu Giang. TS. NGUYỄN VĂN SÁNG Phó tổng biên tập: Trial the shrimp - rice rotational farming model on saline – affected acid sulphate soils in Long My TS. PHAN THANH LÂM district, Hau Giang province. Thư ký tòa soạn: LÊ KIM NGỌC, NGUYỄN HOÀNG TÂM, ThS. HOÀNG THỊ THỦY TIÊN PHẠM CÔNG LỊNH, TRẦN VĂN ĐẸP, SƠN NGỌC HUYỀN, HỨA HUY BÌNH, NGUYỄN THỊ THÙY LAM, NGUYỄN THỊ CẨM NGÂN CÁC ỦY VIÊN: * PGS. TS. NGUYỄN QUANG HUY * PGS. TS. VÕ NAM SƠN 27-37 Khảo sát sự hiện diện của vi bào tử trùng En- * TS. NGUYỄN THANH TÙNG terocytozoon hepatopenaei trên tôm nuôi, thức * TS. LÊ HỒNG PHƯỚC ăn công nghiệp và các loài động vật khác trong * TS. NGUYỄN THỊ NGỌC TĨNH ao nuôi tôm. * TS. LA XUÂN THẢO The presence of microsporidian (Enterocytozoon * TS. NGUYỄN VĂN NGUYỆN hepatopenaei) in whiteleg shrimp, shrimp feed and wild animal in the grow-out shrimp ponds. * TS. VŨ ANH TUẤN LÊ HỒNG PHƯỚC, TRƯƠNG HỒNG VIỆT, * TS. NGUYỄN NHỨT TRẦN MINH THIỆN, ĐOÀN VĂN CƯỜNG, THỚI NGỌC BẢO Trình bày: ThS. Hoàng Thị Thủy Tiên Tòa Soạn: Khảo sát và đánh giá chất lượng thức ăn ương 38-50 Viện Nghiên Cứu Nuôi Trồng nuôi tôm giống nước lợ tại Đồng bằng sông Cửu Long. Thủy Sản II 116 Nguyễn Đình Chiểu, Q.1, TP.HCM Feed quality for nursery stage of brackishwater ĐT: 028 3829 9592 - Fax: 028 3822 6807 shrimp in the Mekong delta. Email: ria2@ mard.gov.vn PHẠM DUY HẢI, VÕ THỊ QUỲNH NHƯ, NGUYỄN QUỐC CƯỜNG, LÝ HỮU TOÀN, In tại: Công ty In Liên Tường LÊ THỊ LÂM, NGUYỄN VĂN NGUYỆN 240/59-61-63 Nguyễn Văn Luông Quận 6, TP. HCM
  2. VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II Ảnh hưởng của β-glucan và Lactobacillus plan- 51-61 Hiện trạng khai thác và nuôi trồng cá sát sọc 75-84 tarum đối với tăng trưởng và khả năng chịu Pangasius macronema Bleeker, 1850 ở tỉnh Tiền stress của cá tra (Pangasianodon hypophthal- Giang. mus). Status of capture and aquaculture of Pangasius Effect of β-glucan and  Lactobacillus plantarum macronema Bleeker, 1858 in Tien Giang province. on growth and stress resistance in tra catfish (Pan- HUỲNH VĂN ĐỨC, NGUYỄN PHÚ HÒA gasianodon hypophthalmus). VÕ THỊ QUỲNH NHƯ, PHẠM DUY HẢI, NGUYỄN QUỐC CƯỜNG, LÊ THỊ LÂM, NGUYỄN VĂN NGUYỆN Các yếu tố tác động lên phát triển bền vững 85-99 sinh kế nghề nuôi cá măng sữa Chanos chanos ở vùng biển Đông Nam Việt Nam. Analysis of the factors affecting on sustainable Sử dụng hình thái đá tai định loại một số loài cá 62-74 livelihoood development of milkfish Chanos cha- vùng hạ lưu sông Mê Kông. nos farming in the Southeastern coastal region of Otoliths used for fish identification in the lower Vietnam. Mekong basin. NGUYỄN THỊ MỸ DUNG, LÊ CÔNG TRỨ, VŨ VI AN, NGUYỄN NGUYỄN DU, NGUYỄN PHÚ HÒA, NGUYỄN TẤN PHÙNG NGUYỄN VĂN PHỤNG 2 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 16 - THÁNG 6/2020
  3. VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II MÔ HÌNH NUÔI CÁ BÔNG LAU (Pangasius krempfi) TRONG AO ĐẤT Ở TỈNH SÓC TRĂNG Nguyễn Văn Hiệp1*, Đặng Văn Trường1, Nguyễn Quang Trung2, Hồ Mỹ Hạnh2, Lâm Văn Tùng3, Lê Trung Tâm3 TÓM TẮT Nuôi cá bông lau được thử nghiệm tại huyện Kế Sách và huyện Cù Lao Dung từ 31/01/2018 đến 30/7/2019. Tại mỗi địa điểm nghiên cứu, cá được thực hiện nuôi trên 3 ao cho mỗi huyện với mật độ dao động từ 1-2 con/m2 có sục khí và quạt nước. Cá bông lau giống thả nuôi có khối lượng trung bình 6,06 g/con. Sau thời gian nuôi 11 tháng, khối lượng cá bông lau ở Kế Sách chỉ đạt 312-345 g/ con thấp hơn nhiều so với khối lượng cá ở Cù Lao Dung là 1.090-1.200 g/con. Tốc độ tăng trưởng tuyệt đối của cá ở vùng nuôi Cù Lao Dung trung bình là 3,1 g/ngày, cao hơn nhiều so với vùng Kế Sách trung bình là 1,0 g/ngày. FCR dao động từ 2,5-2,8. Tỷ lệ sống của cá nuôi ở Kế Sách là khá thấp dao động từ 7,1-51,4%, trung bình là 22,3% so với ở Cù Lao Dung khá cao dao động 72,4- 90,0%, trung bình đạt 79,3%. Năng suất cá trung bình ở Kế Sách đạt khá thấp (0,81 tấn/ha), trong khi ở Cù Lao Dung là 14,9 tấn/ha. Các hộ nuôi ở vùng nước lợ có lời và lợi nhuận bình quân đạt 38,0 triệu đồng trên 1.000 m2 sau 11 tháng nuôi. Các thảo luận đánh giá về những vấn đề kỹ thuật cần giải quyết tiếp theo nhằm nâng cao hiệu quả nuôi ở cả môi trường nước lợ và ngọt được bao gồm trong bài báo. Từ khóa: Pangasius krempfi, nuôi thương phẩm, nuôi ao, nước lợ. I. MỞ ĐẦU 203 ha, Long Phú 11 ha, Mỹ Tú 05 ha, thành Nuôi trồng thủy sản là ngành kinh tế mũi phố Sóc Trăng 01 ha. Nguyên nhân chính gây nhọn và có tiềm năng phát triển của tỉnh Sóc thiệt hại cho tôm nuôi là do yếu tố môi trường Trăng. Tổng diện tích nuôi thủy sản đến tháng thời tiết nắng nóng xen mưa lớn làm cho điều 9/2019 là 71.462 ha đạt 98,3% kế hoạch, tăng kiện môi trường ao nuôi biến động tạo điều kiện 0,73% so với cùng kỳ năm 2018. Trong đó, diện cho dịch bệnh phát sinh. Sản lượng nuôi trồng tích nuôi tôm nước lợ 51.271 ha, vượt 3,16% kế thủy sản 142.574 tấn, tôm nước lợ 98.807 tấn hoạch, tăng 1,17% so cùng kỳ (tôm sú 16.753 ha, đạt 71,34% kế hoạch, tăng 5,31% so với cùng tôm thẻ 34.518 ha) thủy sản nước ngọt 19.105 kỳ (Báo cáo kết quả thực hiện 9 tháng đầu năm ha (cá các loại 18.990 ha, cá tra 75 ha, tôm càng 2019 – Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn xanh 40 ha), thuỷ sản khác 1.086 ha (trong đó tỉnh Sóc Trăng). Tuy nhiên, do tình hình giá cả artemia 720 ha). Đến ngày 13/9/2019 diện tích và môi trường không ổn định, thời tiết biến đổi thiệt hại tôm nước lợ 4.724 ha, chiếm 9,2% diện khó lường, ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả tích thả, giảm 11,81% so với cùng kỳ năm 2018, kinh tế, đời sống của hộ sản xuất và ảnh hưởng trong đó: tôm thẻ 3.559 ha, tôm sú 1.165 ha, tập đến sự phát triển nuôi tôm nước lợ và cá tra của trung địa bàn thị xã Vĩnh Châu 2.591 ha, Mỹ tỉnh Sóc Trăng và sự phát triển chung của ngành. Xuyên 1.696 ha, Trần Đề 217 ha, Cù Lao Dung Vì thế, giải pháp được đưa ra là đa dạng hóa đối 1 Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản II 2 Trường Cao Đẳng Kinh tế-Kỹ thuật Cần Thơ 3 Sở Khoa học và Công nghệ Sóc Trăng *Email: nguyenvanhiep1979@gmail.com TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 16 - THÁNG 6/2020 3
  4. VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II tượng nuôi, phát triển đối tượng mới phù hợp xuất và hiệu quả nuôi. Nhằm góp phần đa dạng với điều kiện tự nhiên, xã hội và môi trường mà hóa các đối tượng nuôi và phát triển bền vững đem lại hiệu quả kinh tế cao góp phần nâng cao nghề nuôi trồng thủy sản ở tỉnh Sóc Trăng, “Mô sản lượng nuôi trồng thủy sản của tỉnh. Cá bông hình nuôi cá bông lau (Pangasius krempfi) trong lau là một trong những đối tượng nuôi mới phù ao đất ở tỉnh Sóc Trăng” được thực hiện là rất hợp trong giai đoạn hiện nay. Giá cá bông lau tại cần thiết. Mục tiêu chính của nghiên cứu nhằm các chợ đầu mối dao động ở mức 130.000 đồng/ xây dựng mô hình nuôi cá bông lau (Pangasius kg, ở Sóc Trăng giá cá bông lau tại ao nuôi dao krempfi) trong ao đất ở tỉnh Sóc Trăng và đánh động ở mức 100.000 đồng/kg. giá kết quả nuôi tại Kế Sách và Cù Lao Dung. Hàng năm, nguồn lợi cá giống bông lau tự nhiên được khai thác đáng kể ở vùng cửa sông II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP Định An và Trần Đề thuộc huyện Cù Lao Dung, NGHIÊN CỨU huyện Trần Đề, tỉnh Sóc Trăng và được chuyển 2.1. Vật liệu, thời gian và địa điểm nghiên đến một số nơi trong và ngoài tỉnh để nuôi thương cứu phẩm. Hiện nay, cá bông lau được sinh sản nhân - Đối tượng nuôi: Cá bông lau giống chiều dài tạo thành công và có thể cung cấp con giống chủ 9,68 cm, khối lượng 6,06 g/con được ương từ cá động cho người nuôi thương phẩm (Huỳnh Hữu bột sinh sản nhân tạo từ Trung tâm Quốc gia Giống Ngãi và ctv., 2011). Điều kiện nuôi cá bông lau Thủy sản Nước ngọt Nam Bộ, Viện Nghiên cứu cũng khá tương đồng với nuôi tôm thẻ nước lợ Nuôi trồng Thủy sản II để cung cấp giống cho các và nuôi cá tra. Tuy nhiên, việc nuôi cá bông lau mô hình nuôi cá bông lau thương phẩm. còn hạn chế là chưa có mô hình và quy trình - Thời gian nghiên cứu: từ 31/01/2018 đến nuôi. Người nuôi chủ yếu dựa vào kinh nghiệm 30/7/2019. nuôi các đối tượng cá khác áp dụng cho nuôi - Địa điểm thực hiện: Huyện Cù Lao Dung cá bông lau dẫn đến ảnh hưởng kế hoạch sản và huyện Kế Sách tỉnh Sóc Trăng. 2.2. Phương pháp nghiên cứu Bảng 1. Bố trí mô hình nuôi. MĐ Vùng nuôi Chủ hộ DT (m2) SL (con) ĐKN (con/m2) Phan Minh Cường 1.700 1 1.700 Sục khí đáy Kế Sách Trần Minh Tuấn 1.300 1 1.300 Sục khí đáy Ngô Minh Trí 1.600 2 3.200 Sục khí đáy Trần Thanh Nhã 1.100 1 1.100 Quạt nước Cù Lao Lâm Vũ Linh 1.200 2 2.400 Quạt nước Dung Lâm Thành Lâm 2.000 2 4.000 Quạt nước (* Ghi chú: DT: Diện tích; MĐ: Mật độ; SL: Số lượng; ĐKN: Điều kiện nuôi) Bảng 2. Phương pháp cho ăn. Tháng nuôi Độ đạm (%) Khẩu phần ăn (%/khối lượng thân) Số lần cho ăn (lần/ngày) 1-3 40 5-6 2 4-6 35 4-5 2 7-9 30 3-4 2 10-12 28 2-3 2 >12 26 1-2 2 4 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 16 - THÁNG 6/2020
  5. VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II Định kỳ bổ sung vitamin, khoáng chất, phương pháp phân tích T-Test và One-Way men tiêu hóa, xổ nội ký sinh định kỳ bằng ANOVA với mức ý nghĩa P 4 diện tích m2. Lợi nhuận = Tổng thu – Tổng chi mg/L vào ban đêm. Dùng chế phẩm vi sinh xử lý phí đầu tư; Giá thành = Tổng chi phí đầu tư / nền đáy ao 2 tuần/lần đồng thời si phong đáy ao tổng khối lượng cá thu hoạch; Tỷ suất lợi nhuận khi nền đáy bẩn. Định kỳ kiểm tra tăng trưởng 1 = Lợi nhuận / tổng chi phí đầu tư *100%. lần/tháng. Nhiệt độ, pH, độ mặn đo 4 lần/tháng. Ngoài ra, các chỉ tiêu môi trường khác như NH4/ III. KẾT QUẢ NH3, nitrite, nitrate, oxy hòa tan được thực hiện 3.1. Các chỉ tiêu thủy lý hóa các ao nuôi 2 lần/tháng. Các yếu tố môi trường được đo tại hai địa điểm nghiên cứu bằng bộ testkit của Đức (Sera). Kết quả theo dõi nhiệt độ cho thấy, nhiệt độ Thu mẫu tăng trưởng cá 1 lần/tháng và bắt dao động từ 27,3-31,5oC và nằm trong khoảng ngẫu nhiên 3-10 con/lần thu mẫu. Các chỉ tiêu thích hợp cho sự phát triển bình thường của cá tăng trưởng được tính như sau: Tăng trưởng nuôi nước ngọt và nước lợ ở Nam Bộ (Boyd, chiều dài L (cm) = Lt – Lo. (Trong đó: Lt: Chiều 1998). Theo Boyd (1998), các loài thủy sản dài cá tại thời điểm thu mẫu (cm); Lo: Chiều dài vùng nhiệt đới sinh trưởng tốt nhất ở nhiệt độ cá lúc thả (cm)). Tăng trưởng khối lượng WG 25-32oC. Nhiệt độ tại Cù Lao Dung có biến (g) = Wt-Wo. (Trong đó: Wt: Khối lượng cá tại động nhiều hơn, có tháng nhiệt độ xuống thấp thời điểm thu mẫu (g); Wo: Khối lượng cá lúc gần đến 27oC. Trong khi đó nhiệt độ tại Kế Sách thả (g)). Tăng trưởng tuyệt đối về khối lượng tương đối ổn định ở mức cao, theo Piper (1982) DWG (g/ngày) = W/T và tăng trưởng tuyệt đối thì cứ mỗi 0,5ºC tăng thì nhu cầu oxy tăng về chiều dài DLG (g/ngày) = L/T (Trong đó: W: tương ứng 5,6%. Do đó, nuôi cá bông lau ở điều Tăng trưởng khối lượng; L: Tăng trưởng chiều kiện nhiệt độ cao tại Nam Bộ cần đảm bảo hàm dài; T: Thời gian thí nghiệm (ngày)). Tỷ lệ sống lượng oxy hòa tan cao (Bảng 3). Điều này hầu (%) = số cá thể thu hoạch/số cá thể thả *100. như đảm bảo trong suốt thời gian nuôi cho hai Số liệu được lưu trữ bằng microsoft excel, xử địa điểm nghiên cứu, chỉ có oxy hòa tan
  6. VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II NH3 mg/L 0,013 ± 0,018 0,048 ± 0,075 Hệ số biến thiên % 122,96 120,50 NO2 mg/L 0,05 ± 0,04 1,29 ± 1,20 Hệ số biến thiên % 192,77 124,80 NO3 mg/L 2,54 ± 2,49 7,91 ± 5,45 Hệ số biến thiên % 104,34 91,94 Giá trị pH ở các hộ nuôi Kế Sách và Cù 9,0 Lao Dung dao động từ 7,5-9,0 nằm trong 8,0 7,0 Kế Sách Cù Lao Dung khoảng thích hợp cho sự phát triển của cá. 6,0 Độ mặn (%o) 5,0 Theo Lawson (1995), khoảng pH lý tưởng cho 4,0 3,0 nuôi thủy sản là từ 6,5-8, thấp hoặc cao hơn 2,0 khoảng này vật nuôi sẽ tăng trưởng chậm, pH 1,0 - 30/1 15/2 30/2 15/3 30/3 15/4 30/4 15/5 30/5 15/6 30/6 15/7 30/7 15/8 30/8 15/9 30/9 15/10 30/10 15/11 30/11 15/12 30/12 < 4 là điểm chết acid, pH > 11 là điểm chết Tháng kiềm. Theo Trương Quốc Phú (2006) cũng cho rằng giá trị pH tốt nhất cho nuôi thủy sản từ Hình 2. Biến động độ mặn trong thời gian nuôi. 6,5-9. Tại các hộ nuôi ở huyện Cù Lao Dung Hàm lượng oxy hòa tan trong ao nuôi của có giá trị pH biến động lớn nhất, theo mức độ các hộ nuôi Kế Sách và Cù Lao Dung được thể biến thiên cũng cho thấy pH tại các hộ nuôi ở hiện ở Hình 3. Kết quả cho thấy hàm thường Cù Lao Dung (CV=5,76) cao hơn các hộ nuôi oxy xuyên từ 4-6 mg/L, tuy nhiên có thời điểm tại Kế Sách (CV=5,30) (Bảng 3). Giá trị pH hàm lượng oxy giảm xuống còn 3,5 mg/L. Theo tại các hộ nuôi ở Cù Lao Dung có 3 thời đểm Trương Quốc Phú (2006) hàm tượng oxy hòa (Tương ứng 15/02; 30/4 và 15/9) giá trị pH gần tan tối ưu cho cá phát triển là > 4 mg/L. bằng 9 (Tương ứng 8,6; 8,8 và 9,0) được trình 6,5 bày ở Hình 1. 6,0 Kế Sách Cù Lao Dung 5,5 9,5 Kế Sách Oxy (mg/L) 5,0 Cù Lao Dung 9 4,5 4,0 8,5 3,5 pH 8 3,0 30/1 15/2 30/2 15/3 30/3 15/4 30/4 15/5 30/5 15/6 30/6 15/7 30/7 15/8 30/8 15/9 30/9 15/10 30/10 15/11 30/11 15/12 7,5 Tháng 7 Hình 3. Biến động hàm lượng oxy trong thời 30/1 15/2 30/2 15/3 30/3 15/4 30/4 15/5 30/5 15/6 30/6 15/7 30/7 15/8 30/8 15/9 30/9 15/10 30/10 15/11 30/11 15/12 Tháng gian nuôi. Hình 1. Biến động pH trong thời gian nuôi. Hệ số biến thiên cao về độ mặn địa điểm Độ mặn tại Kế Sách là 0‰, Kế Sách vùng nuôi Cù Lao Dung và NH3, NO2 và NO3 ở cả 2 nước ngọt hoàn toàn. Độ mặn ở Cù Lao Dung địa điểm nuôi được tìm thấy. NH3 ở các ao nuôi thường dao động từ 3-8‰, đạt 7-8‰ vào tháng vùng Kế Sách và Cù Lao Dung cho thấy không thứ 4-5 và tháng 16-17 và giảm còn 0‰ vào các có sự biến động lớn giữa hai vùng nuôi. NH3 tháng 9, 10, 11 (Hình 2). ở các ao nuôi ở Kế Sách dao động từ 0-0,077 mg/L và ở Cù Lao Dung dao động từ 0-0,37 mg/L (Hình 4). Đa số chỉ tiêu này nằm trong ngưỡng cho phép, ngoài trừ NH3 cao vùng nuôi 6 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 16 - THÁNG 6/2020
  7. VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II tại Cù Lao Dung có hai giai đoạn NH3 cao là có NO2 ổn định và chỉ dao động từ 0-0,3 mg/L. tháng 6-7 và tháng 9. Theo Trương Quốc Phú Trong khi đó, NO2 trong các ao nuôi Cù Lao (2006), ammonia là yếu tố quan trọng có ảnh Dung biến động lớn, dao động từ 0-3 mg/L hưởng lớn đến tỷ lệ sống, sinh trưởng đối với (Bảng 3). Tương tự NH3 và NO2, biến động hàm thủy sinh vật. NH3 là khí độc, nồng độ gây độc lượng NO3 ở Cù Lao Dung cũng cao hơn so với đối với cá là 0,4-2,0 mg/l và tuỳ thuộc vào pH. Kế Sách (Hình 6 và Bảng 3). NO3 ở Kế Sách Hàm lượng NO2 trong ao nuôi của các hộ nuôi dao động từ 0-7 mg/L và ở các ao nuôi ở Cù Lao Kế Sách và Cù Lao Dung được thể hiện ở Hình Dung ở nhiều thời điểm trên 10 mg/L, có tháng 5. Kết quả này cho thấy các ao nuôi ở Kế Sách lên đến 16,67 mg/L (Hình 6). 0,40 0,35 Kế Sách Cù Lao Dung 0,30 0,25 NH3 (mg/L) 0,20 0,15 0,10 0,05 0,00 30/1 15/2 30/2 15/3 30/3 15/4 30/4 15/5 30/5 15/6 30/6 15/7 30/7 15/8 30/8 15/9 30/9 15/10 30/10 15/11 30/11 15/12 Tháng Hình 4. Biến động hàm lượng NH3 trong thời gian nuôi. 3,5 Kế Sách 3,0 Cù Lao Dung 2,5 NO2 (mg/L) 2,0 1,5 1,0 0,5 0,0 30/1 15/2 30/2 15/3 30/3 15/4 30/4 15/5 30/5 15/6 30/6 15/7 30/7 15/8 30/8 15/9 30/9 15/10 30/10 15/11 30/11 15/12 30/12 Tháng Hình 5. Biến động NO2 trong thời gian nuôi. 18,0 16,0 Kế Sách Cù Lao Dung 14,0 12,0 NO3 (mg/L) 10,0 8,0 6,0 4,0 2,0 0,0 30/1 15/2 30/2 15/3 30/3 15/4 30/4 15/5 30/5 15/6 30/6 15/7 30/7 15/8 30/8 15/9 30/9 15/10 30/10 15/11 30/11 15/12 Tháng Hình 6. Biến động NO3 trong thời gian nuôi. TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 16 - THÁNG 6/2020 7
  8. VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II 3.2. Tăng trưởng về khối lượng và chiều với vùng Kế Sách (1,0 g/ngày). Chiều dài cá ở dài Kế Sách đạt trung bình 31,5 cm/con, trong khi Sau 11 tháng nuôi, khối lượng cá bông chiều dài cá ở Cù Lao Dung đạt 47,1 cm/con ở lau ở Kế Sách đạt trung bình 327,3 g/con thấp cùng thời điểm. Tăng trưởng chiều dài của cá hơn nhiều so với khối lượng cá ở Cù Lao Dung bông lau tại hai vùng nuôi là khác nhau, sự sai cùng thời điểm (1.136,7 g/con). Tăng trưởng khác nhau có ý nghĩa thống kê (P
  9. VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II Bảng 5. Tỷ lệ sống và năng suất trung bình. Vùng nuôi Tỷ lệ sống (%) Năng suất cá (kg/ha) Sản lượng (kg/ao) FCR Kế Sách 22,3±25,7a 811,7±767,7 Phan Minh Cường 51,9 1688,2 287 Trần Minh Tuấn 7,9 259,2 33,7 Ngô Minh Trí 7,1 487,5 78 Cù Lao Dung 79,3±9,4b 14.897,8±5.578,8 Trần Thanh Nhã 75,4 9043,6 994,8 2,5 Lâm Vũ Linh 72,4 15496,7 1859,6 2,8 Lâm Thành Lâm 90,0 20153,0 4030,6 2,5 Ghi chú: Trong cùng một cột, các giá trị có ký hiệu ký tự khác nhau là sai khác có ý nghĩa thống kê với độ tin cậy 95%. Năng suất cá bình quân ở Kế Sách đạt 811,7 3.4. Hiệu quả kinh tế của mô hình ở 2 kg/ha là khá thấp tương ứng đạt 1.688; 259 và vùng nuôi 488 kg/ha cho 3 ao mật độ 1 con/m2; 1 con/m2 Hiệu quả kinh tế của các ao nuôi theo 2 và 2 con/m2. Trong khi ở Cù Lao Dung năng vùng Cù Lao Dung và Kế sách thể hiện trong suất trung bình là 14.897,8 kg/ha tương ứng đạt Bảng 6. Với sản lượng đạt được (Bảng 5) ở 9.044; 15.497 và 20.153 kg/ha cho 3 ao mật độ huyện Cù Lao Dung (Lâm Thành Lâm, Lâm Vũ 1 con/m2; 2 con/m2 và 2 con/m2 (Bảng 5). Linh, Trần Thanh Nhã) tương ứng là 4.030,6; Các hộ nuôi tại Kế Sách cá hao giai đoạn 1.860,0 và 995,0 kg, giá thành 73.641 đồng/kg và cuối dẫn đến tỷ lệ sống thấp do đó không tính hệ giá bán trung bình của 3 hộ là 94.670 đồng/kg số chuyển hóa thức ăn (FCR). FCR của các hộ thì lợi nhuận mang lại cho cả 3 hộ này là 163,6 nuôi cá bông lau ở Cù Lao Dung đạt lần lượt 2,5; triệu đồng, trung bình 38,0 triệu đồng/1.000 m2 2,8 và 2,5 tương ứng cho 3 ao nuôi Trần Thanh và tỷ suất lợi nhuận đạt 28,5% cho 11 tháng nuôi. Nhã, Lâm Vũ Linh và Lâm Thành Lâm. Kết quả nuôi cá bông lau của 03 nông hộ ở Cù Kết quả theo dõi xuất hiện bệnh và phòng Lao Dung chưa cao như mong đợi. Riêng hộ trị cũng được thực hiện trong suốt vụ nuôi. Các ông Lâm Thành Lâm đã nuôi thêm 6 tháng, sản ao vùng nuôi Cù Lao Dung, xuất hiện ký sinh lượng cuối cùng là 4.950 kg/ao 2.000 m2, năng sán lá mang vào tháng nuôi thứ 3-4 và thực hiện suất đạt 24,75 tấn/ha, lợi nhuận mang lại cho hộ điều trị hiệu quả. Đối với các vùng nuôi Kế Sách là 134,6 triệu đồng. Các ao nuôi tại huyện Kế bệnh gan thận mủ xuất hiện vào tháng nuôi thứ Sách, cá chậm lớn, hao hụt nhiều do cá thường 6 và thứ 10 và bệnh xuất huyết vào tháng thứ 8. bị bệnh ký sinh trùng và bệnh gan thận mủ. Sản Cá ao thí nghiệm được trị theo kết quả kháng lượng của các hộ nuôi ở Kế Sách ước đạt khoảng sinh đồ. Tuy nhiên, hiệu quả điều trị bệnh gan 1 tấn cá, với giá bán khoảng 100.000 đồng, như thận mủ tháng thứ 10 thấp, dẫn đến hao hụt và vậy tổng thu khoảng 100 triệu, trừ chi phí thì các ảnh hưởng đến tăng trưởng của cá. Ngoài ra, các hộ bị lỗ 183,3 triệu đồng, tương ứng lỗ 39,9 triệu ao thí nghiệm ở Kế Sách cũng bị nhiễm ký sinh đồng/1.000 m2 sau 11 tháng nuôi. trùng rải rác trong suốt vụ nuôi. TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 16 - THÁNG 6/2020 9
  10. VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II Bảng 6. Hiệu quả kinh tế mô hình nuôi cá bông lau. Nội dung Cù Lao Dung (đồng) Kế Sách (đồng) Cá giống 90.000.000 74.400.000 Thức ăn 386.269.500 145.950.000 Bộ test môi trường 5.409.000 5.409.000 Cải tạo ao 14.200.000 15.530.000 Thuốc hóa chất 29.195.000 8.285.000 Vật tư, thiết bị 2.000.000 5.200.000 Điện 28.700.000 2.950.000 Công LĐ 17.000.000 12.000.000 Chi phí khác 2.000.000 13.590.000 Tổng chi phí 574.773.500 283.314.000 Tổng thu 738.881.440 100.000.000 Lợi nhuận/tổng mô hình 163.585.940 -183.314.000 Lợi nhuận/1.000 m2 38.043.242 -39.850.870 Giá thành (đồng) 73.641 Tỷ suất lợi nhuận %) 28,5 IV. THẢO LUẬN con và sau 10 tháng nuôi. Kết quả nuôi trong Các chỉ tiêu thuỷ lý hoá đa số nằm trong nước ngọt trong nghiêu cứu này cho khối lượng ngưỡng thích hợp, ngoại trừ NH3 cao ở 2 thời thu hoạch thấp hơn nuôi nước ngọt ở Vĩnh Long điểm thu mẫu 15/07 và 15/09, cũng rơi vào thời của nghiên cứu Cao Văn Lên (2017), chỉ 327,3 điểm pH cao ngày 15/09 ở các ao nuôi Cù Lao g/con. Tuy nhiên, có sự khác biệt ở đây là Cao Dung. Hơn nữa, chỉ tiêu NO2 cũng cao ở một Văn Lên (2017) thả mật độ thấp hơn là 0,5 và số thời điểm thu mẫu trong suốt thời gian nuôi. 1,0 con/m2 (so với trong nghiên cứu này là 1,0- Như vậy có thể thấy việc thay nước 2 tuần/lần 2,0 con/m2) và thả cá giống từ tự nhiên (so với đã chưa mang lại liệu quả về chất lượng nước. trong nghiên cứu này là giống sinh sản nhân Thực nghiệm nuôi trong tương lai có thể chú ý tạo). Kết quả này phù hợp với kết quả điều tra đến tăng cường và sử dụng hợp lý chế phẩm vi tình hình nuôi cá bông lau ở Vĩnh Long, sau sinh để xử lý nước hoặc thay nước với tần suất 12 tháng nuôi cá chỉ đạt khối lượng 400-500 g/ cao hơn. con, sau 24 tháng cá đạt 1.200-1.500 g/con của Tăng trưởng về khối lượng của cá trong chúng tôi. nghiên cứu này ở môi trường nước lợ (Cù Lao Tốc độ tăng trưởng tuyệt đối theo khối Dung) là 1.136,7 g/con, cao hơn nước ngọt (Kế lượng của cá nuôi tại huyện Cù lao Dung (độ Sách) chỉ đạt 327,3 g/con từ con giống nhỏ 6,1 mặn 0-8‰) là 3,1 g/ngày, cao hơn so với nghiên g/con sau 11 tháng nuôi. Kết quả nuôi trong cứu của Cao Văn Lên (2017) nuôi nước ngọt, nước lợ trong nghiêu cứu này cho khối lượng tốc độ tăng trưởng tuyệt đối đạt 2,01-2,15 g/ thu hoạch cao hơn nuôi nước ngọt ở Vĩnh Long ngày, nhưng nuôi nước ngọt ở Kế sách thì thấp của nghiên cứu Cao Văn Lên (2017) đạt 645 g/ hơn chỉ đạt 1,0 g/ngày. Tuy nhiên, trong công con đối với mật độ 1 con/m2 và đạt khối lượng bố của Cao Văn Lên (2017) không đề cập cá 602,7 g/con đối với mật độ 0,5 con/m2 nhưng bị bệnh ký sinh trùng hay nhiễm khuẩn trong khối lượng cá ban đầu khi thả cao hơn là 25 g/ khi ao nuôi trong nghiên cứu này ở nước ngọt 10 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 16 - THÁNG 6/2020
  11. VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II bị bệnh ký sinh trùng và nhiểm khuẩn, đặc biệt Hiệu quả về lợi nhuận đạt 38,0 triệu là bệnh gan thận mủ làm cho hao hụt cao. Đây đồng/1.000 m2 ao trong 11 tháng là tương cũng có thể là nguyên nhân làm cho tỷ lệ sống đối tốt khi mà ở vùng nước lợ gặp khó khăn nuôi nước ngọt trong nghiên cứu này thấp (7,1- dịch bệnh trên tôm nước lợ (thẻ và sú) và tăng 51,4%). Đối với ao nuôi nước lợ, tăng trưởng trưởng chậm ở độ mặn thấp cho tôm sú, thì nuôi theo khối lượng (Hình 7) và tăng trưởng DWG cá bông lau có thể là phương án lựa chọn của tăng cao trong các tháng cuối (Hình 8), có thể người nuôi. cho thấy hoặc là cá tiếp tục sinh trưởng tốt hoặc có thể cá sinh trưởng tốt khi độ mặn tăng trở lại. V. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT Nghiêu cứu của Hồ Trung Hiếu (2019) nuôi cá 5.1. Kết luận từ 6,1 g/con trong vòng 70 ngày ở các mức độ - Các yếu tố thủy lý hóa tại vùng nuôi thí mặn khác nhau là 0, 4‰ và 8‰ cho thấy cá tăng nghiệm thích hợp cho sự phát triển bình thường trưởng về khối lượng và chiều dài ở độ mặn 4‰ của cá bông lau, ngoại trừ pH, NH3 và NO2 cao có khuynh hướng tốt hơn 8‰ và 0‰; FCR được ở một số thời điểm trong quá trình nuôi. ghi nhận thấp nhất ở độ mặn 8‰ (1,15), kế đến - Tăng trưởng về khối lượng và chiều dài, là độ mặn 4‰ (1,19), cao nhất ở độ mặn 0‰; tốc độ tăng trưởng tuyệt đối của cá nuôi ở nước tỷ lệ sống và sinh khối của cá ở độ mặn 8‰ tốt lợ Cù Lao Dung cao hơn nhiều so với nước ngọt hơn so với độ mặn 4‰ và 0‰. Bằng chứng về ở Kế Sách. Sau 11 tháng nuôi, khối lượng cá cá tiếp tục sinh trưởng tốt là khi hộ Lâm Thành ở vùng Cù Lao Dung cao hơn gần 3 lần so với Lâm nuôi thêm 5-6 tháng tiếp thì tổng sản lượng khối lượng cá ở vùng Kế Sách. Khối lượng và thu được tăng 4.597 kg từ 4.030,6 kg. chiều dài cá nuôi ở Kế Sách chỉ đạt 319-345 g/ FCR cao nhất được ghi nhận ở hộ Lâm Vũ con và 31,4-31,5 cm/con thấp hơn nhiều so với Linh là 2,8 và sau 11 tháng FCR tại vùng nuôi Cù khối lượng cá ở Cù Lao Dung là 970-995 g/con Lao Dung dao động từ 2,5-2,8. Tỷ lệ sống của và 42,9-43,2 cm/con. cá nuôi ở Cù Lao Dung khá cao dao động 72,4- - Hệ số chuyển hóa thức ăn của cá bông lau 90,0%, trung bình đạt 79,3% (Bảng 5) thấp hơn sau 11 tháng nuôi ở Cù Lao Dung là 2,5-2,8. Tỷ Cao Văn Lên (2017) thực nghiệm nuôi cá bông lệ sống của cá ở Kế Sách từ 7,1-51,9%, trung lau trong ao nước ngọt bằng giống tự nhiên sau bình là 22,3% trong khi đó ở Cù Lao Dung là 10 tháng, dao động 81,4-86,4%. Năng suất cá 72,4-84,8%, trung bình là 77,5%; Năng suất cá bình quân ở Kế Sách đạt khá thấp là 811,7 kg/ nuôi bình quân ở Kế Sách đạt khá thấp là 0,81 ha, trong khi ở Cù Lao Dung là 14.897,8 kg/ha tấn/ha, trong khi ở Cù Lao Dung là 16,43 tấn/ha. (Bảng 5). Năng suất ở nước lợ Cù Lao Dung Hiện quả về lợi nhuận tương đối tốt đạt 38,0 cao hơn kết quả điều tra hiện trạng nuôi cá triệu đồng/1.000 m2 ao trong 11 tháng ở nước lợ bông lau nước ngọt ở Hậu Giang 13.500 kg/ha ở Cù Lao Dung. nhưng thấp hơn ở nước lợ điều tra tại Sóc Trăng 5.2. Đề xuất là 20.900 kg/ha mà nhóm chúng tôi đã điều tra - Tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện nuôi bằng trong dự án nuôi cá bông lau trong ao đất tại con giống sinh sản nhân tạo để giảm FCR, cải Sóc Trăng. Như vậy, nếu chúng ta có thể quản lý thiện môi trường nuôi và phòng trị bệnh hiệu môi trường tốt hơn trong nghiên cứu này, quản quả hơn đặc biệt là trong môi trường nước ngọt. lý và phòng trị bệnh tốt hơn và giảm được hệ số - Nghiên cứu thử nghiệm nuôi ở mật độ cao chuyển đổi thức ăn, thì chúng ta có thể đạt hiệu hơn hướng đến tăng hiệu quả nuôi trên một đơn quả nuôi tốt hơn. vị diện tích. TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 16 - THÁNG 6/2020 11
  12. VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II LỜI CẢM ƠN Trường Cao Đẳng kinh tế – kỹ thuật Cần Thơ, Nhóm đề tài xin cảm ơn Lãnh đạo Trường Khoa công nghệ – thủy sản, Bộ môn nuôi trồng thủy sản. Cao Đẳng Kinh tế – Kỹ thuật, Trung tâm Quốc Huỳnh Hữu Ngãi, Thi Thanh Vinh, Đặng Văn gia giống Thuỷ sản Nước ngọt Nam Bộ – Viện Trường, Nguyễn Thanh Nhân, Trịnh Quốc Trọng Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản II, Trung tâm và Lê Trung Đỉnh, 2011. Kết quả sinh sản nhân Ứng dụng Tiến bộ KH&CN Sóc Trăng – Sở tạo cá bông lau. Tuyển tập nghề cá sông Cửu Long, số 2/2011. Trang 113-122. KH&CN Sóc Trăng và các ban ngành cấp xã, Trương Quốc Phú, Nguyễn Lê Hoàng Yến, Huỳnh huyện Kế Sách và Cù Lao Dung tạo điều kiện Trường Giang, 2006. Giáo trình quản lý chất hợp tác thực hiện đề tài. Cảm ơn các hộ nuôi lượng nước nuôi trồng thủy sản. Khoa thủy sản, tham gia thực hiện mô hình. Xin chân thành Trường đại học Cần Thơ. 62 trang. cảm ơn toàn thể anh em ở các đơn vị đã tham Sở Nông nghiệp và phát triển Nông thôn tỉnh Sóc Trăng, 2019. Báo cáo kết quả thực hiện 9 tháng gia giúp đỡ thực hiện nghiên cứu này. đầu năm 2019. Số 423/BC-SNN ngày 18 tháng 9 năm 2019. TÀI LIỆU THAM KHẢO Tài liệu tiếng Anh Tài liệu tiếng Việt Boyd, C. E., 1998. Water quality for ponds Cao Văn Lên, 2017. Bước đầu thử nghiệm nuôi cá Aquaculture. Research and Development Series bông lau (Pangasius krempfi) giai đoạn từ cá No. 43, August 1998, Alabama, 37pp. giống lên cá thương phẩm trong ao đất. Đề tài Lawson, T. B., 1995. Water quality and environmental nghiên cứu khoa học cơ sở tỉnh Vĩnh Long, 32 requirements. In  Fundamentals of Aquacultural trang. Engineering (pp. 12-39). Springer, Boston, MA. Hồ Trung Hiếu, 2019. Ảnh hưởng của độ mặn đến Rainboth, W. J., 1996. Fishes of the Cambodian sự tăng trưởng và tỉ lệ sống của cá bông lau Mekong. FAO, Rome. 265 pp. (Pangasius krempfi) giai đoạn giống đến 70 ngày Piper, R.G., 1982. Fish hatchery management. nuôi trong điều kiện thí nghiệm. Báo cáo thực Washinton, D.C. US Department if Interior. Fish tập tốt nghiệp chuyên ngành nuôi trồng thủy sản. and Wild Service, 248-271. 12 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 16 - THÁNG 6/2020
  13. VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II CULTURE MODEL OF Pangasius krempfi IN EARTHEN POND IN SOC TRANG PROVINCE Nguyen Van Hiep1*, Dang Van Truong1, Nguyen Quang Trung2, Ho My Hanh2, Lam Van Tung3, Le Trung Tam3 ABSTRACT Pond culture of Pangasius krempfi was carried out in fresh water in Ke Sach and in brackish water in Cu Lao Dung districts from January 31, 2018 to July 30, 2019. At each study site, fingerling were stocked in 3 ponds with density of 1-2 individuals.m-2 with aeration by diffuser and paddle wheel. The average stocking weight is 6.06 g/fish. After 11 months of culture, the weight of fish in Ke Sach is from 312 to 345 g.fish-1 and that in Cu Lao Dung is from 1,090 to 1,200 g.fish-1. The average dairly weight gain of fish reared in Cu Lao Dung is 3.1 g.day-1, higher than that of Ke Sach 1.0 g.day-1. FCR ranges from 2.5 to 2.8 in Cu Lao Dung’s ponds. The survival rate of fish in Ke Sach is quite low, ranging from 7.1 to 51.4%, an average of 22.3% while the survival rate of fish in Cu Lao Dung is higher, fluctuating from 72.4 to 84.8%, an average of 77.5%. The average pond yield in Ke Sach is quite low (0.81 tons ha-1) while that in Cu Lao Dung is 14.9 tons ha-1. Farms in brackish water in Cu Lao Dung have the benefit with an average of 38.0 millions VND per 1,000 m2 pond after 11 months of culture. Discussion on technical measures needs to be applied in order to improve farm benefit are also presented in this paper. Keywords: Pangasius krempfi, grow – out, pond culture, brackish water. Người phản biện: TS. Nguyễn Văn Sáng Người phản biện: TS. Đinh Thế Nhân Ngày nhận bài: 16/9/2019 Ngày nhận bài: 10/4/2020 Ngày thông qua phản biện: 26/5/2020 Ngày thông qua phản biện: 26/5/2020 Ngày duyệt đăng: 20/6/2020 Ngày duyệt đăng: 20/6/2020 1 Research Institute for Aquaculture No.2 2 Can Tho Technical Economic college 3 Soc Trang Provincial Department of Science anh Technology * Email: nguyenvanhiep1979@gmail.com TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 16 - THÁNG 6/2020 13
  14. VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II THỰC NGHIỆM MÔ HÌNH TÔM SÚ - LÚA LUÂN CANH TRÊN VÙNG ĐẤT PHÈN NHIỄM MẶN Ở HUYỆN LONG MỸ, TỈNH HẬU GIANG Lê Kim Ngọc1*, Nguyễn Hoàng Tâm1, Phạm Công Lịnh1, Trần Văn Đẹp1, Sơn Ngọc Huyền1, Hứa Huy Bình1, Nguyễn Thị Thùy Lam1, Nguyễn Thị Cẩm Ngân1 TÓM TẮT Mô hình nuôi tôm sú - lúa luân canh được thực hiện tại xã Lương Nghĩa, huyện Long Mỹ, tỉnh Hậu Giang từ năm 2017-2018 nhằm đánh giá hiệu quả và sự phù hợp với vùng đất phèn bị nhiễm mặn vào mùa khô. Vụ nuôi tôm bắt đầu từ tháng 3 đến tháng 9, và vụ lúa Đông Xuân bắt đầu từ tháng 10 đến tháng 2 năm sau. Tôm sú (PL16-PL20) được thuần hóa độ mặn xuống 3‰ và thả nuôi trong mô hình quảng canh (QC) với mật độ 2 con/m2, không cho ăn bổ sung, và mô hình quảng canh cải tiến (QCCT) thả với mật độ 4 con/m2, có cho ăn bổ sung. Sau 5 tháng nuôi trong điều kiện độ mặn thấp (dưới 4‰) và thời tiết nắng nóng, nhiệt độ nước trong ruộng cao (30,2-34,1oC), năng suất tôm đạt 104,0-128,7 kg/ha/vụ (mô hình QC) và 228,9-241,2 kg/ha/vụ (mô hình QCCT). Mặc dù, ở mô hình QC lợi nhuận bình quân (13,3 triệu đồng/ha) đạt thấp hơn mô hình QCCT (20,7 triệu đồng/ha) nhưng tỷ suất lợi nhuận (1,1) đạt cao hơn so với mô hình QCCT (0,7). Giống lúa lai BTE1 được sử dụng để gieo xạ ở vụ Đông Xuân, sau 110 ngày gieo trồng, lúa đạt năng suất từ 4,5-6,5 tấn/ha, lợi nhuận đạt từ 12,5-23,4 triệu đồng/ha. Như vậy có thể thấy mô hình nuôi tôm sú - lúa luân canh là lựa chọn phù hợp cho vùng đất phèn bị nhiễm mặn vào mùa khô, đã tận dụng được nguồn nước mặn xâm nhập như một tài nguyên quý giá cùng với đất đai đã mang lại thu nhập đáng kể cho người dân thay vì bỏ đất trống. Tuy nhiên, để mang lại hiệu quả kỹ thuật cũng như hiệu quả về kinh tế cần quản lý tốt các yếu tố môi trường và dịch hại. Từ khóa: đất phèn, Hậu Giang, tôm- lúa, xâm nhập mặn. I. GIỚI THIỆU Biên, tỉnh Kiên Giang cho thấy: (1) Mô hình Nuôi tôm sú luân canh với trồng lúa (tôm- nuôi tôm sú QC, mật độ 2,5 con/m2, không lúa) là hình thức nuôi tôm khá phổ biến ở Đồng cho ăn bổ sung, thời gian nuôi 120 ngày đạt bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), được bắt đầu tỷ lệ sống 35%, kích cỡ thu hoạch 30,5 con/ từ những năm 1970 và phát triển nhanh, nhất kg, năng suất tôm 267 kg/ha/vụ, chi phí đầu là từ sau năm 2000, khi Chính phủ có Nghị tư 16,3 triệu đồng/ha/vụ, lợi nhuận đạt 26,4 quyết cho phép chuyển đổi đất sản xuất kém triệu đồng/ha/vụ; và (2) Mô hình nuôi tôm sú hiệu quả sang nuôi trồng thủy sản (Nghị quyết QCCT với mật độ 6,5 con/m2, có cho ăn bổ số 09/2000/NQ-CP). Diện tích nuôi tôm-lúa sung thức ăn công nghiệp, thời gian nuôi 100 năm 2000 là 71.000 ha, đã tăng lên hơn gấp ngày đạt tỷ lệ sống 45,3%, kích cỡ thu hoạch đôi vào năm 2014 với 152.977 ha. Mô hình 39,5 con/kg, năng suất tôm 1.164 kg/ha/vụ, QCCT tôm-lúa chiếm tỷ lệ cao ở các tỉnh chi phí đầu tư là 71,9 triệu đồng/ha/vụ và Kiên Giang, Cà Mau và Bạc Liêu, đây là mô lợi nhuận đạt 91,4 triệu đồng/ha/vụ (Trương hình đòi hỏi đầu tư thấp nhưng hiệu quả đầu Hoàng Minh và ctv., 2013). Kết quả điều tra tư cao, bền vững về môi trường (Viện Quản mô hình nuôi tôm QCCT cho thấy, mật độ lý và Phát triển Châu Á-AMDI, 2016). Kết tôm bình quân ở Sóc Trăng là 12,6 con/m2, quả thực nghiệm tại huyện An Minh và An Bạc Liêu 6,23 con/m2 và Cà Mau 4,04 con/m2; 1 Chi cục Thủy sản tỉnh Hậu Giang. * Email: lkngoc82@gmail.com 14 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 16 - THÁNG 6/2020
  15. VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II năng suất và lợi nhuận trung bình tương ứng này với vùng đất phèn bị nhiễm mặn vào mùa ở Sóc Trăng là 0,83 tấn/ha/năm và 17,5 triệu khô tại địa phương. đồng/ha/năm, Bạc Liêu là 0,42 tấn/ha/năm và 28,6 triệu đồng/ha/năm, Cà Mau là 0,21 tấn/ II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP ha/năm và 18,9 triệu đồng/ha/năm (Lê Thị Thực nghiệm được triển khai từ năm 2017- Phương Mai và ctv., 2016). 2018 với hai mô hình trên diện tích 6,1 ha, trong Hậu Giang là tỉnh nội đồng nằm ở vị trí đó mô hình nuôi tôm sú QC luân canh với lúa trung tâm vùng Tây sông Hậu của ĐBSCL, (mô hình QC) trên diện tích 3,25 ha (03 hộ) và có địa hình trũng thấp, lòng chảo, vừa chịu tác mô hình nuôi tôm sú QCCT luân canh với lúa động mạnh của chế độ triều biển Đông (nhật (mô hình QCCT) trên diện tích 2,85 ha (03 hộ). triều), lại vừa chịu ảnh hưởng mạnh bởi chế độ Các mô hình được triển khai trên 2 vụ gồm: triều biển Tây (bán nhật triều). Những năm gần i) Vụ nuôi tôm bắt đầu từ tháng 3 đến tháng đây, tỉnh Hậu Giang chịu sự tác động lớn của 9 (dương lịch) và ii) Vụ trồng lúa bắt đầu từ biến đổi khí hậu-nước biển dâng, đặc biệt là tháng 10 đến tháng 2 năm sau (dương lịch). Mật năm 2016 tình trạng xâm nhập mặn diễn ra gay độ tôm nuôi trong mô hình QC là 2 con/m2 và gắt trong mùa khô đã ảnh hưởng rất lớn đến sản không bổ sung thức ăn; trong mô hình QCCT xuất và đời sống của nhân dân, nhất là người là 4 con/m2 và có bổ sung thêm thức ăn; tôm sú dân ở huyện Long Mỹ. giống cỡ PL16-PL20, chỉ thả giống 01 lần vào đầu Huyện Long Mỹ nằm phía Tây Nam của vụ; lúa lai BTE1 được gieo sạ trong cả hai mô tỉnh và chịu ảnh hưởng nặng nề của biến đổi hình với mật độ 30 kg/ha. khí hậu, xâm nhập mặn thời gian qua. Tại một Các chỉ tiêu môi trường như nhiệt độ, pH, số xã thuộc huyện Long Mỹ, số liệu đo độ mặn hàm lượng oxy hòa tan (DO) trong ruộng nuôi ghi nhận được cho thấy độ mặn dao động từ 0,2- tôm được theo dõi và kiểm tra 1-2 ngày/lần; độ 7,0 ‰ trong tháng 01/2016 và tăng dần trong kiềm, độ trong, độ mặn được theo dõi và kiểm các tháng tiếp theo, độ mặn đạt ngưỡng cao tra 1 tuần/lần. Độ mặn và nhiệt độ được đo bằng nhất trong tháng 4-5, dao động trong khoảng máy đo độ mặn AZ8602, pH được đo bằng bút 10,0-19,7 ‰, sau đó độ mặn giảm dần khi đo pH Hach Pocket Pro, DO và độ kiềm được chuyển sang mùa mưa (Trạm Thủy lợi huyện đo bằng bộ test-kit, độ trong được đo bằng đĩa Long Mỹ, 2016). Do đó, trong mùa khô ở khu secchi. Định kỳ hàng tháng kiểm tra khối lượng vực ngoài đê bao ngăn mặn, các hộ dân không tôm, mỗi lần 25 cá thể/ruộng. Sản lượng tôm, thể sản xuất vụ lúa Hè Thu và thường bỏ ruộng lúa, chi phí và thu nhập của vụ tôm và vụ lúa trống. Vì vậy, để khai thác được tiềm năng đất cũng được theo dõi và ghi nhận. đai, tận dụng nguồn nước mặn xâm nhập trong Ruộng nuôi tôm được thiết kế với mương mùa khô, góp phần tạo việc làm, tăng thêm thu bao quanh chiếm khoảng 15-30% diện tích nhập cho người dân vùng bị nhiễm mặn, mô ruộng, có độ rộng 1,5-3 m, sâu 1,2-1,5 m, bờ bao hình tôm-lúa được đề xuất thực hiện tại khu cao hơn mặt ruộng 1-1,5 m, mặt bờ rộng 1,5-3 vực ngoài đê bao ngăn mặn thuộc địa bàn ấp m (Hình 1). Trước khi thả giống, ruộng được cải 6, xã Lương Nghĩa, huyện Long Mỹ. Qua đó, tạo, diệt tạp và bón phân gây màu nước. đánh giá hiệu quả và sự phù hợp của mô hình TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 16 - THÁNG 6/2020 15
  16. VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II Hình 1. Sơ đồ mặt cắt ruộng nuôi tôm. Tôm sú giống cỡ PL16-PL20 được thuần hóa Ruộng sau khi thu hoạch tôm xong được độ mặn đến 3‰ tại trại giống và được kiểm dịch tiến hành rửa mặn, làm đất và gieo sạ vụ lúa trước khi thả nuôi. Sau 3 tháng nuôi tôm bắt đầu Đông Xuân. được thu tỉa, mỗi đợt thu liên tục 2-3 ngày và thu Các bước của quy trình kỹ thuật áp dụng cho hoạch toàn bộ sau khoảng 5 tháng nuôi. từng vụ sản xuất được thực hiện theo sơ đồ sau: Vụ nuôi tôm Vụ trồng lúa Sửa chữa, gia cố công trình ruộng nuôi tôm Rửa mặn, cải tạo đất (san bằng mặt ruộng, ↓7-10 ngày diệt ốc, bón vôi, bón phân) Cải tạo ruộng (ngâm rửa thuốc BVTV còn lại ↓10-15 ngày trên ruộng, sên vét bùn, bón vôi, diệt tạp, gây Chọn mua giống, ngâm ủ và gieo sạ màu nước tạo thức ăn tự nhiên) ↓ 3-5 ngày ↓ 20-30 ngày Chăm sóc, quản lý Chọn mua và thả giống tôm ↓ 105-115 ngày ↓ 3 ngày Thu hoạch lúa Chăm sóc, quản lý ↓ 4-6 tháng Thu hoạch tôm Số liệu được xử lý và phân tích bằng ruộng nuôi tôm QC và QCCT được trình bày thống kê mô tả (trung bình, độ lệch chuẩn, giá trong Hình 2 cho thấy, nhiệt độ nước ruộng trị nhỏ nhất và lớn nhất), so sánh sự khác biệt nuôi tôm QC dao động từ 30,6-32oC vào buổi giá trị trung bình giữa hai mô hình bằng kiểm sáng và 32,9-34oC vào buổi chiều; trong ruộng định mẫu độc lập (Independent Sample T-test, nuôi tôm QCCT dao động từ 30,2-30,9oC vào p
  17. VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II khả năng bắt mồi của tôm giảm 30-50%, tôm tôm QC và QCCT đều cao hơn khoảng nhiệt độ sẽ giảm hoạt động tạo điều kiện cho mầm bệnh thích hợp cho tôm sinh trưởng, có khả năng ảnh tấn công. Như vậy, nhiệt độ trong cả ruộng nuôi hưởng đến tốc độ tăng trưởng của tôm nuôi. Hình 2. Biến động nhiệt độ trung bình trong mô hình QC (A) và mô hình QCCT (B). 3.1.2. Sự biến động pH được định kỳ bón vôi và bón phân để duy trì Yếu tố pH nước ruộng nuôi tôm trong mô lượng thức ăn tự nhiên đã góp phần kiểm soát hình QC dao động từ 7,5-8,0 vào buổi sáng và pH nước. Theo Chanratchakool (1995) pH nước 7,9-8,5 vào buổi chiều; trong mô hình QCCT, ao nuôi rất quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp hoặc pH buổi sáng nằm trong khoảng 7,3-7,8 và buổi gián tiếp đến tôm nuôi, pH thích hợp cho tôm chiều từ 7,7-8,4 (Hình 3). Nhìn chung, pH trong nuôi từ 7,5-8,5 và khoảng dao động hàng ngày cả hai mô hình biến động không đáng kể trong không vượt quá 0,5 đơn vị pH. Do đó, pH trong suốt vụ nuôi, giữa buổi sáng và buổi chiều dao ruộng nuôi biến động trong khoảng thích hợp động không quá 0,5 và có xu hướng tăng dần cho tôm nuôi. vào cuối vụ nuôi. Trong suốt vụ nuôi, các ruộng Hình 3. Biến động pH trung bình trong mô hình QC (A) và mô hình QCCT (B). 3.1.3. Sự biến động hàm lượng oxy hòa buổi chiều. Theo Swingle (1969) hàm lượng tan (DO) DO trong nước lý tưởng cho nuôi tôm sú là trên Kết quả đo DO trong các ruộng nuôi tôm 5 mg/L (trích dẫn bởi Phạm Thị Tuyết Ngân và được ghi nhận và trình bày ở Hình 4 cho thấy Trương Quốc Phú, 2010) và không vượt quá 15 DO tương đối thấp vào buổi sáng và tăng lên mg/L (Whetston và ctv., 2002). DO là yếu tố môi vào buổi chiều, số liệu DO ghi nhận được trong trường quan trọng trong nuôi tôm, ảnh hưởng rõ ruộng nuôi tôm QC dao động từ 3,1-4,5 mg/L rệt đến tỷ lệ sống của tôm nuôi ngay trong 10 vào buổi sáng và 4,9-6,2 mg/L vào buổi chiều; ngày đầu vì sau khi thả giống tôm thường bị yếu trong ruộng nuôi tôm QCCT dao động từ 3,1- hơn do quá trình vận chuyển và phải thích nghi 4,4 mg/L vào buổi sáng và 4,5-6,2 mg/L vào với môi trường sống mới. Khi thiếu oxy làm vi TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 16 - THÁNG 6/2020 17
  18. VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II khuẩn gây bệnh phát triển, tôm sau lột xác dễ nuôi ở cả hai mô hình QC và QCCT đã phần chết, giảm hiệu quả sử dụng thức ăn. Vì vậy, nào ảnh hưởng đến tăng trưởng và tỷ lệ sống DO tương đối thấp vào buổi sáng trong suốt vụ của tôm nuôi. Hình 4. Biến động DO trung bình trong mô hình QC (A) và mô hình QCCT (B). 3.1.4. Sự biến động độ trong Theo Trương Quốc Phú (2006), độ trong thích Kết quả ở Hình 5 cho thấy, trong tháng đầu hợp cho nuôi tôm là từ 30-45 cm. Như vậy, độ tiên độ trong trong mô hình QC dao động từ 32,4- trong ở cả hai mô hình tương đối thấp, độ trong 32,5 cm và mô hình QCCT dao động từ 38,6- giảm từ tháng nuôi thứ 2 trở đi là do khoảng thời 40,8 cm, sau đó trong cả hai mô hình độ trong gian này có xuất hiện nhiều đợt mưa lớn, nước giảm nhiều, dao động trong khoảng 24,5-29,5 cm mưa rửa trôi các vật chất từ trên bờ xuống làm ở mô hình QC và 24,6-28,8 cm ở mô hình QCCT. giảm độ trong của nước trong ruộng. Hình 5. Biến động độ trong trung bình trong mô hình QC và QCCT. 3.1.5. Sự biến động độ mặn và độ kiềm thấp. Theo Yake và ctv., (2001) độ muối tối ưu Kết quả theo dõi độ mặn trong ruộng nuôi cho sự sinh trưởng và phát triển của tôm là 15- tôm QC và QCCT ở Hình 6 (A) cho thấy độ 25‰. Chanratchakool và ctv., (2003) cho rằng mặn bình quân trong ruộng nuôi tôm QC dao tôm nuôi ở nồng độ muối thấp thì bệnh ít xảy ra, động từ 0,5-3,3‰ và ruộng nuôi tôm QCCT dao nhưng độ muối không nhỏ hơn 7‰. Nếu nồng động từ 0,4-3,6‰. Độ mặn biến động theo xu độ muối thấp hơn sẽ làm tôm bị còi, mềm vỏ, tỷ hướng giảm dần từ đầu vụ tôm đến cuối vụ tôm, lệ sống thấp, khi tôm đạt trọng lượng từ 10-12 độ măn đạt rất thấp vào các tháng cuối vụ, độ g thì có thể nuôi ở nồng độ muối thấp mà ít ảnh mặn đã giảm thấp hơn 3‰ từ sau tháng nuôi hưởng đến sự sinh trưởng. Kết quả nghiên cứu đầu tiên và gần như ngọt hoàn toàn vào tháng của Đoàn Xuân Diệp và ctv., (2009) cho rằng có nuôi thứ năm, do thời điểm này lượng mưa ngày thể nuôi tôm sú trong khoảng độ mặn 3-35‰, ở càng nhiều làm cho độ mặn trong ruộng giảm độ mặn 3‰ tăng trưởng của tôm nhanh hơn so 18 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 16 - THÁNG 6/2020
  19. VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II với ở các độ mặn 15‰, 25‰, 35‰ nhưng tỷ lệ hưởng đến sinh trưởng, phát triển và tỷ lệ sống sống thấp. Như vậy, có thể thấy độ mặn trong của tôm nuôi trong mô hình. ruộng nuôi tôm QC và QCCT giảm thấp sẽ ảnh Hình 6. Biến động độ mặn (A) và độ kiềm (B) trung bình trong mô hình QC và QCCT. Hình 6 (B) cho thấy độ kiềm trong mô hình 7-15 ngày/lần để nâng độ kiềm đạt khoảng thích QC dao động từ 64-94 mgCaCO3/L và mô hình hợp cho tôm, tuy nhiên vào các tháng cuối vụ QCCT dao động từ 58-102 mgCaCO3/L. Độ nuôi, độ mặn nước trong ruộng giảm quá thấp kiềm biến động theo xu hướng tương tự như độ nên chỉ có thể duy trì độ kiềm trong khoảng 58- mặn, giảm dần từ đầu vụ tôm đến cuối vụ tôm. 70 mg CaCO3/L. Theo Nguyễn Mỹ Hoa và ctv., (2010) thì khi 3.2. Kết quả vụ nuôi tôm độ mặn nước ao thấp trong điều kiện ao nuôi Kết quả ở Bảng 1 cho thấy trong hai tháng trên nền đất phèn đã làm cho các ion gây chua đầu, khối lượng trung bình của tôm nuôi trong phóng thích từ đất phèn trung hòa carbonate và mô hình QC cao hơn mô hình QCCT, từ tháng bicarbonate làm giảm độ kiềm; độ kiềm thấp thứ 3 đến tháng thứ 5 thì tôm trong mô hình trong ao nuôi đã ảnh hưởng trực tiếp và gián QCCT có khối lượng trung bình cao hơn mô tiếp đến sinh trưởng của tôm nuôi, làm tôm hình QC. Tuy nhiên, sự chênh lệch về khối mềm vỏ. Trần Văn Hòa và ctv., (2002) cho rằng lượng trung bình của tôm ở 2 mô hình QC và độ kiềm để tôm sú sống được phải cao hơn 20 QCCT từ tháng thứ 1 đến tháng thứ 4 là khác mg CaCO3/L, độ kiềm tối ưu để tôm phát triển biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05), chỉ tốt là 80-120 mg CaCO3/L. Do đó, trong suốt vụ đến tháng thứ 5 thì khối lượng trung bình của nuôi, các ruộng nuôi tôm được bón vôi định kỳ tôm mới khác biệt có ý nghĩa (p
  20. VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II Sau 90 ngày nuôi, tôm trong mô hình QC và ctv., (2016), thời gian bắt đầu thu tỉa tôm nuôi QCCT có khối lượng cao nhất lần lượt đạt 23,87 QCCT ở Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau trung g/con và 24,1 g/con, tương ướng với 41,96 con/ bình là 121 ngày với kích cỡ tôm thu tỉa bình kg và 41,81 con/kg. Tại thời điểm này tôm sú quân đạt 33,6 con/kg. Tăng trưởng của tôm trên thị trường có giá cao nên các hộ nuôi tiến trong hai mô hình QC và QCCT thấp chủ yếu hành thu tỉa những tôm đạt kích cỡ từ 40-50 là do độ mặn trong ruộng giảm thấp hơn 3‰ con/kg. Việc thu tỉa được duy trì cho đến cuối chỉ sau tháng nuôi đầu tiên, hơn nữa tại thời vụ nuôi với tần suất 2 đợt/tháng, mỗi đợt thu từ điểm đó nước mặn ngoài sông cũng có độ mặn 2-3 ngày theo con nước. Sau 120 ngày nuôi kích thấp, dưới 2,5‰ sau ngày 05/5/2017 (Trạm cỡ tôm thu tỉa bình quân đạt 39,7 con/kg ở mô Thủy lợi huyện Long Mỹ, 2017) nên việc cấp hình QC và 37,3 con/kg ở mô hình QCCT, thấp thêm nước mặn hay thay nước cho ruộng nuôi hơn kết quả điều tra của Lê Thị Phương Mai và đều rất hạn chế. Bảng 2. Năng suất và kích cỡ thu hoạch tôm nuôi trong mô hình QC và QCCT. Năng suất (kg/ha) Tỷ lệ sống (%) Thu hoạch Mô hình GTTB ± SD Cao Thấp GTTB ± SD Cao Thấp Kích cỡ Tỷ lệ (*) nhất nhất (*) nhất nhất (con/kg) (%) 35 - 40 64,2 Mô hình QC 115,1 ± 12,5a 128,7 104,0 27,2 ± 8,5a 36,9 21,6 40 - 50 35,8 35 - 40 88,6 Mô hình QCCT 237,0 ± 7,0b 241,2 228,9 22,5 ± 18,7a 43,2 6,8 40 - 50 11,4 Ghi chú: (*) giá trị trung bình ± độ lệch chuẩn; các giá trị trên cùng một cột có chữ cái khác nhau thì khác biệt có ý nghĩa thống kê (p
nguon tai.lieu . vn