Xem mẫu

  1. TĂNG CƯỜNG TÍNH MINH BẠCH CỦA HỆ THỐNG NGÂN HÀNG VIỆT NAM KHI GIA NHẬP TPP TS. Trương Thị Hoài Linh Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Tóm tắt Công khai, minh bạch đang là một tiêu chí quan trọng để Việt Nam bước chân ra “biển lớn” châu Á - Thái Bình Dương. Song, theo nhận định của nhiều nhà lý luận và thực tiễn thì minh bạch và trách nhiệm giải trình thực sự là một thách thức với Việt Nam. Có một thực tế ở Việt Nam là mặc dù tồn tại rất nhiều loại báo cáo, song, không thể biết một cách chính xác các con số quan trọng như nợ xấu, ROA (lợi nhuận trên tổng tài sản) và có khi cũng không biết ai thực sự là ông chủ của ngân hàng. Bài viết phân tích thực trạng minh bạch của hệ thống ngân hàng Việt Nam, rút ra các nguyên nhân của thực trạng đó và đưa ra một số đề xuất nhằm tăng cường tính minh bạch của hệ thống này. Từ khóa: TPP, hệ thống ngân hàng, minh bạch. 1. TPP và ngành ngân hàng của Việt Nam Hiệp định Đối tác Kinh tế Chiến lược xuyên Thái Bình Dương (Trans- Pacific Strategic Economic Partnership Agreement - viết tắt TPP) là một Hiệp định thương mại tự do với mục tiêu thiết lập một khu vực thương mại tự do chung cho các nước đối tác trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Hiệp định này được ký kết ngày 03/6/2005, có hiệu lực từ 28/5/2006 giữa 4 nước sáng lập Singapore, Chile, New Zealand, Brunei (vì vậy Hiệp định này còn gọi là P4). Cho đến nay, đã có 12 nước tham gia vào đàm phán TPP, bao gồm New Zealand, Brunei, Chile, Singapore, Australia, Peru, Hoa Kỳ, Malaysia, Việt Nam, Canada, Mexico và Nhật Bản. Các nước tham gia đàm phán xem TPP là một Hiệp định Thương mại Tự do (FTA) toàn diện và với tiêu chuẩn cao, gồm cả những cam kết cao hơn các mức cam kết đã được thiết lập trong khuôn khổ Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Các nền kinh tế tham gia vào TPP này đóng góp 40% GDP toàn cầu và 30% thương mại thế giới. 601
  2. Bước chân vào TPP, những cơ hội mở ra cho ngành ngân hàng của Việt Nam có thể nhìn thấy là (1) Các luồng vốn đầu tư quốc tế vào Việt Nam sẽ tăng trưởng mạnh trong thời gian tới tạo thuận lợi cho hệ thống ngân hàng tăng cường thanh khoản và gia tăng cơ hội kinh doanh; hệ thống ngân hàng có điều kiện tiếp cận với các nguồn vốn ủy thác trên thế giới với chi phí thấp hơn do vị thế của Việt Nam sẽ cải thiện nhiều sau khi gia nhập TPP; (2) Hiệp định TPP sẽ tạo triển vọng cho ngành thương mại Việt Nam đạt mức tăng trưởng mạnh mẽ, mở ra cơ hội cho các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam đồng hành hỗ trợ vốn, dịch vụ cho các doanh nghiệp xuất khẩu trong tương lai; (3) Lĩnh vực tài chính - ngân hàng sẽ được mở rộng hơn theo các cam kết chung nên Việt Nam có cơ hội thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào ngành ngân hàng - một ngành cần vốn, công nghệ và năng lực quản lý điều hành cao; việc tham gia sâu rộng của nhà đầu tư nước ngoài cũng sẽ tạo điều kiện mở rộng hợp tác, nâng cao năng lực quản trị và tài chính cho các ngân hàng nội địa. Đây có thể là những cơ sở để phát triển ngành ngân hàng Việt Nam trong tương lai. Dịch vụ tài chính - ngân hàng là mảng hoạt động thương mại mà mức độ mở cửa thị trường là hạn chế và dè dặt nhất. Lần đầu tiên Việt Nam biết đến khái niệm cam kết mở cửa dịch vụ tài chính ngân hàng là trong đàm phán Hiệp định thương mại song phương Việt Nam - Mỹ, trong đó dịch vụ tài chính - ngân hàng đã làm quá trình đàm phán kéo dài mất 4 năm mới được hoàn tất. Sau khi Hiệp định thương mại song phương Việt Nam - Mỹ được ký kết vào năm 2000, Việt Nam cũng chỉ mở một cánh cửa hẹp cho Mỹ tham gia vào cung ứng dịch vụ ngân hàng - tài chính cùng nhiều quy định hạn chế. Trong khi đó, tham gia TPP, Việt Nam phải cam kết mở rộng ngành dịch vụ tài chính - ngân hàng với mức độ sâu hơn, xóa bỏ dần các điều kiện tiếp cận thị trường tài chính - ngân hàng và không chỉ cam kết với riêng Mỹ mà với 12 nước có trình độ phát triển khác nhau nên tác động của việc mở cửa dịch vụ tài chính - ngân hàng cũng sẽ lớn hơn. Cụ thể, phần lớn các nước tham gia đàm phán TPP có thị trường tài chính - ngân hàng rất phát triển (Hoa Kỳ, Australia, Singapore) hoặc đã mở cửa cho sự tham gia của nhà đầu tư nước ngoài (New Zealand) hoặc lợi ích sẽ không bị ảnh hưởng quá nhiều bởi việc mở cửa thị trường tài chính ngân hàng (Brunei) sẽ tạo những khó khăn nghiêm trọng trong những thỏa thuận mở cửa thị trường trong khuôn khổ đàm phán TPP. Hơn nữa, các nước phát triển, đặc biệt là Hoa Kỳ và Australia sẽ có nhiều thuận lợi khi đưa ra những yêu cầu cao về mở cửa thị trường tài chính - ngân hàng, vô hình chung tạo sức ép cạnh tranh đối với các nước đang phát triển (Chi Lê, Mexico, Malaysia), trong đó có Việt Nam. 602
  3. Các nguy cơ trên sẽ bị nhân lên khi đặt trong bối cảnh hiện tại của hệ thống ngân hàng Việt Nam. Theo phân tích và đánh giá bởi WB (2014), các hạn chế trong hệ thống ngân hàng Việt Nam gồm: (1) Kết quả hoạt động của khu vực ngân hàng đã xấu đi trong những năm gần đây và có lẽ còn kém hơn so với báo cáo; (2) Công tác xử lý nợ xấu trong hệ thống vẫn là vấn đề quan ngại chính cho dù các cơ quan chức năng đã áp dụng phương pháp xử lý nợ “đa chiều”; (3) Tốc độ tái cơ cấu lĩnh vực ngân hàng chậm hơn so với kỳ vọng, đặc biệt là quá trình hợp nhất trong lĩnh vực ngân hàng. Một trong những nguyên nhân của tình trạng trên là do tính minh bạch của hệ thống ngân hàng Việt Nam còn thấp so với các nước trong khu vực và trên thế giới (theo WB, 2014). Đến lượt nó, thiếu minh bạch là nguồn gốc dẫn đến những khó khăn trong tái cấu trúc ngân hàng thời gian qua. Dù có rất nhiều báo cáo phải lập song không thể biết một cách chính xác các con số quan trọng như nợ xấu, lợi nhuận trên tổng tài sản và thậm chí cũng không biết ai thực sự là ông chủ của ngân hàng. Theo Basel Committee (1998), tính minh bạch của hệ thống ngân hàng được định nghĩa là công khai/công bố các thông tin đáng tin cậy và kịp thời để giúp cho người sử dụng thông tin có thể đưa ra những đánh giá chính xác về tình hình tài chính, hoạt động kinh doanh, rủi ro và hoạt động của ngân hàng. Nói hệ thống ngân hàng Việt Nam thiếu minh bạch vì không những các thông tin cơ bản không được cung cấp kịp thời mà mức độ tin cậy của các thông tin này còn rất thấp (theo WB, 2014). Phần tiếp theo sẽ phân tích thực trạng minh bạch trong hệ thống ngân hàng Việt Nam và nguyên nhân của thực trạng này. 2. Thực trạng minh bạch trong hệ thống ngân hàng Việt Nam Thứ nhất, thông tin về phân loại ngân hàng không được Ngân hàng Nhà nươc (NHNN) công khai đầy đủ Chỉ thị số 01/2012/CT-NHNN ngày 13/02/2012 đã chỉ đạo phân chia các tổ chức tín dụng thành 4 nhóm để giao chỉ tiêu tín dụng lần lượt là 17%, 15%, 8% và 0%. Đa phần ngân hàng và các chuyên gia ủng hộ cách làm này của NHNN. Điều này sẽ buộc các ngân hàng ở các nhóm đều phải nỗ lực nếu muốn lên hạng và không bị tụt hạng. Song, thực tế là các ngân hàng đều biết chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng của ngân hàng mình nhưng không biết được chỉ tiêu tăng trưởng của ngân hàng khác và quan trọng là không biết tiêu chí cũng như tiêu chuẩn phân loại như thế nào (Hà Tâm, 2012). Cái mà các ngân hàng biết chỉ chung chung là phân loại dựa vào quy mô vốn, năng lực quản trị điều hành, chất lượng hoạt động, năng lực người đứng đầu, có vi phạm quy định trong quá trình hoạt động… Tiêu 603
  4. chí phân loại không công khai của NHNN đã khiến nhiều ngân hàng ấm ức khi nhận được “trát” tín dụng và nảy sinh tâm lý “tị nạnh” lẫn nhau. Bên cạnh đó, các ngân hàng yếu kém, mất an toàn có nguy cơ đổ vỡ cũng chỉ được đề cập là “mười ngân hàng” và kết quả sẽ được gửi trực tiếp đến từng ngân hàng mà NHNN không công khai tên với lý do để tránh “gây xáo động thị trường tiền tệ và gây tâm lý không ổn định” (theo Lê Đăng Doanh được trích dẫn bởi Trương Văn Khoa (2012)). Tuy nhiên, khi ngân hàng còn “chăng biển” có nghĩa là dân chúng vẫn đến gửi tiền. Nếu thông tin về tình hình của ngân hàng đó không được công khai thì nguy cơ tổn thất đối với các khoản tiền gửi này là rất lớn. Thêm nữa, nhiều chuyên gia nhận định một khi ngân hàng còn mở cửa thì nhà nước còn bảo lãnh tiền gửi của người dân, không lo về chuyện mất tiền dù ngân hàng đó yếu kém; tỷ trọng tín dụng và huy động của các ngân hàng nhóm này cũng rất nhỏ trong tổng tín dụng và huy động của hệ thống ngân hàng; hơn nữa, những ngân hàng này sẽ được xử lý trong thời gian tới nên dù danh tính lộ diện thì cũng không đáng lo. Thậm chí, đại diện của Ernst & Young còn cho rằng cần công khai cấm các ngân hàng nhóm IV được huy động vốn để vừa kiểm soát lạm phát, vừa định hướng vào bảo vệ cho người gửi tiền. Như vậy, xác định rõ ngân hàng cũng làm cho môi trường đầu tư của Việt Nam được cải thiện khi giảm các đánh giá bất lợi “sự thiếu rõ ràng trong các kế hoạch đề xuất, các cam kết không chắc chắn của nhà chức trách và khả năng thực hiện đồng nghĩa với những rủi ro vẫn tồn tại trong ngắn và trung hạn” (Fitch, 2012.) Thứ hai, thông tin về sở hữu ngân hàng không được cập nhật Vấn đề sở hữu chéo và lợi ích nhóm đang nổi lên thành một vấn đề khá nghiêm trọng khi trên thực tế đã xảy ra việc tập trung quyền hành vào một nhóm cổ đông lớn đã dẫn đến cho vay các công ty sân sau, dẫn đến rủi ro cho bản thân ngân hàng và việc sở hữu lẫn nhau giữa các ngân hàng, hậu quả là sự bất ổn cho hệ thống ngân hàng như trường hợp điển hình Ngân hàng Thương mại cổ phần (NHTMCP) Sài Gòn (SCB). Đây là việc làm rất cần thiết vì nếu tạo ra một ngân hàng lớn nhưng không minh bạch về sở hữu có thể dẫn đến lũng đoạn khu vực ngân hàng và lũng đoạn nền kinh tế. Tuy nhiên, để xác định và công bố thông tin về các chủ sở hữu của các ngân hàng không phải là công việc dễ dàng đối với NHNN do sự phức tạp trong tình trạng sở hữu chồng chéo. Theo một nghiên cứu của các chuyên gia thuộc Ủy ban Kinh tế của Quốc hội và UNDP năm 2013 (được dẫn bởi Hồng Phúc, 2014), nếu như sở hữu chéo giữa các tổ chức tín dụng Việt Nam được phác họa trước đây chỉ là những sơ đồ kiểu mạng nhện thì sở hữu chồng chéo là sự xếp lớp chồng lên nhau của các mạng nhện này. Theo nghiên 604
  5. cứu này, hầu hết các tập đoàn và tổng công ty nhà nước đều đang sở hữu ngân hàng. Chính quyền địa phương và các doanh nghiệp nhà nước do địa phương thành lập cũng sở hữu ngân hàng. Các ngân hàng sở hữu lẫn nhau. Các ngân hàng, trừ năm ngân hàng gốc nhà nước, đều có cấu trúc sở hữu chồng chéo qua trung gian là các ngân hàng khác, công ty tài chính phi ngân hàng, doanh nghiệp nhà nước hay doanh nghiệp tư nhân. 29/34 ngân hàng thương mại cổ phần tư nhân có liên hệ sở hữu trực tiếp hoặc gián tiếp với các pháp nhân, thể nhân thuộc Nhà nước. Ngoài ra, bức tranh cấu trúc sở hữu ngân hàng còn những điểm mờ chưa được làm rõ. Đó là tình trạng sở hữu ngầm. Sở hữu chồng chéo gây ra việc ngân hàng cho doanh nghiệp liên kết vay để doanh nghiệp mua cổ phần của chính ngân hàng cho vay, tức con nợ thành chủ sở hữu ngân hàng. Ví dụ như SCB trước khi hợp nhất) cho Công ty Vạn Thịnh Phát và các doanh nghiệp liên quan vay, sau đó các doanh nghiệp này dùng tiền vay góp vốn vào hai ngân hàng Tín Nghĩa và Đệ Nhất. Ba ngân hàng này về bản chất thuộc một chủ sở hữu. Và cơ quan quản lý tuy đã yêu cầu hợp nhất ba ngân hàng nhưng các vấn đề nội tại của nó vẫn chưa được xử lý xong. Sở hữu chéo dẫn đến việc doanh nghiệp có thể gián tiếp hay trực tiếp sở hữu ngân hàng. Điều này theo các chuyên gia nguy hiểm hơn là ngân hàng sở hữu doanh nghiệp. Rất nhiều doanh nghiệp và cả các tập đoàn kinh tế nhà nước đã và đang đóng vai trò chi phối ít nhất một ngân hàng. Khi doanh nghiệp sở hữu tỷ lệ cổ phần nhỏ ở ngân hàng thì mục tiêu chỉ là hưởng lợi từ khoản đầu tư nhưng khi doanh nghiệp có cổ phần lớn thì mục tiêu còn là sử dụng ngân hàng để huy động vốn dễ dàng hơn cho doanh nghiệp, lái nguồn vốn huy động theo hướng chủ doanh nghiệp muốn. Vấn đề đặt ra ở đây là dù các ngân hàng đều có hội đồng tín dụng, ủy ban an toàn rủi ro... nhưng từ cấu trúc nội tại, bản thân các ngân hàng đã mất đi động cơ tự giám sát mình. Vì thế rủi ro nảy sinh mà hậu quả rõ nhất là tình hình nợ xấu như hiện nay. Các quy định về giới hạn tín dụng cũng bị vô hiệu hóa bởi sở hữu chồng chéo. Luật quy định ngân hàng không được phép cho một khách hàng vay quá 15% và cho một nhóm khách hàng vay quá 25% vốn tự có. Nhưng không khó khăn gì để một người có thể lập vài doanh nghiệp để nâng mức vốn được vay từ 15% lên 25%. Điều khiến cho việc giám sát ngân hàng Việt Nam khó khăn hơn là người có quyền sở hữu và người có quyền kiểm soát trong ngân hàng tách rời nhau. Có những người là chủ thực sự của ngân hàng nhưng lại không đứng tên sở hữu cổ phần trên giấy tờ. Mặc dù luật pháp hiện hành đã có khái niệm “người có liên quan” trong sở hữu ngân hàng, nhưng vì quy định chưa đủ chi tiết mà sở hữu chồng chéo thì lại rất phức tạp, nên cơ quan giám sát khó xác định người có liên quan thực sự. Có thể nói rằng, nhờ sở 605
  6. hữu chồng chéo mà các NHTM đã lách qua khung giám sát của NHNN, và trong một số chừng mực đã làm cho các quy định về đảm bảo an toàn trong hoạt động ngân hàng trở nên không còn hiệu lực (theo Vũ Thành Tự Anh và cộng sự, 2013). Thứ ba, thông tin về kết quả hoạt động và chất lượng nợ chưa được công bố chính xác hoặc chưa được công bố đầy đủ theo quy định ROA bình quân của tất cả các ngân hàng giảm từ 1,8% năm 2007 xuống 0,5% năm 2012 và 0,65% năm 2014, trong đó con số 0,5% và 0,65% có vẻ là đã bị phóng đại do chất lượng số liệu tài chính còn thấp (theo WB, 2014). Nói một cách khái quát hơn thì chất lượng số liệu tài chính thấp đã ảnh hưởng đến việc đo lường một cách chính xác hầu hết các chỉ số hiệu quả hoạt động như ROA, tỷ lệ nợ xấu và các hệ số vốn. Yếu kém về số liệu bắt nguồn từ một số yếu tố như các quy định về phân loại nợ và trích lập dự phòng còn chưa thỏa đáng (bao gồm cả việc phân loại các khoản nợ được tái cơ cấu), định giá tài sản thế chấp không đáng tin cậy và phân loại một số tài sản nhất định là thanh khoản cần đặt dấu hỏi. Thêm vào đó, cũng theo WB (2014) thì còn có những quan ngại về việc xác định giá trị các tài sản phi tín dụng lớn trên bảng cân đối của các ngân hàng, đặc biệt là xác định chưa đầy đủ các khoản đầu tư (một số khoản liên quan đến các nghiệp vụ nhằm báo cáo thấp tỷ nợ nợ xấu) và thiếu minh bạch khi báo cáo về các hạng mục khác như các khoản phải thu. Một trong những nguyên nhân của thực trạng này là do tình trạng sở hữu chéo phổ biến nên hoạt động cho vay góp vốn mua cổ phần lẫn nhau cũng là nội dung cần lưu ý. Có thể kể ra một số ví dụ điển hình về hậu quả của tình trạng này. Đầu tiên là trường hợp của NHTMCP Đại Tín (Trustbank) (theo Thanh Thương, 2015). Năm 2012 ngân hàng này có tỷ lệ nợ xấu rất cao nhưng không được công chúng biết đến do không công bố báo cáo tài chính trên website như quy định về công bố thông tin của Thông tư số 09/2010/TT-BTC ngày 15/01/2010 về công bố thông tin có hiệu lực từ 01/3/2010. Đến tháng 5/2013, Trustbank thuộc nhóm ngân hàng yếu và nằm trong diện phải tái cơ cấu của NHNN nên với sự tham gia của nhóm cổ đông mới đã đổi tên thành NH Xây dựng (VNCB). Hoặc trường hợp của NHTMCP Nhà Hà Nội (HBB). Ngân hàng này được giải “Báo cáo thường niên tốt nhất năm 2011” nhưng theo báo cáo tài chính kiểm toán 2011, Habubank đã gây “sốc” cho không ít cổ đông khi lãnh đạo ngân hàng này đưa ra thông tin vốn chủ chỉ còn hơn 195 tỷ đồng và tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ của ngân hàng thời điểm 29/2, nếu theo chuẩn mực kế toán Việt Nam (VAS) là 16,06%và số lỗ lũy kế được công bố vào ngày 29/02/2012 là 4.066 tỷ đồng (Mai Chi, 2012). 606
  7. Khoản nợ xấu này đã khiến HBB không thể gắng gượng nổi và hậu quả là ngân hàng này đã phải tiến đến giải pháp sáp nhập vào với SHB, cái tên HBB đã biến mất trên thị trường sau gần 20 năm tồn tại. Gần đây hơn, theo báo cáo tài chính hợp nhất quí 2/2014 và quí 3/2014 (báo cáo quí 3/2014 đã biến mất khỏi trang web của NHTMCP Đại Dương (DCB), hiện tại chỉ còn báo cáo tài chính quí 2/2014) DCB vẫn có lãi. Ông Hà Văn Thắm, nguyên Chủ tịch Hội đồng quản trị OceanBank bị khởi tố, bắt tạm giam ngày 24/10/2014 và đúng sáu tháng sau các cổ đông OceanBank mất toàn bộ tiền góp mua cổ phần ngân hàng khi mà ngân hàng này đã bị NHNN mua lại với giá 0 đồng. Nói đúng hơn cái sổ chứng nhận quyền sở hữu cổ phần của họ vẫn còn đó, nhưng giá trị của nó đã về con số không. Ngay cả những cổ đông, nhà đầu tư kinh nghiệm cũng khó có thể hình dung giá trị cổ phiếu DCB mà họ có trong tay lại “bốc hơi” với tốc độ khủng khiếp đến vậy (theo Hải Lý, 2015). Thêm nữa, các chuẩn mực công bố thông tin đối với công ty đại chúng như các ngân hàng cổ phần thường không được tuân thủ. Quy định các công ty đại chúng và các ngân hàng thương mại cổ phần phải có website riêng, có mục “Nhà đầu tư” để công bố thông tin định kỳ về tình hình tài chính và những thay đổi mà cổ đông cần được biết trong quá trình hoạt động. Song, theo kênh này, một loạt ngân hàng thương mại như Southern Bank, VietBank, SCB, GP.Bank đều mất hút (Kim Anh, 2014). Cuối cùng, thông tin chung về hệ thống ngân hàng không đầy đủ Thông tư số 35/2011/TT-NHNN quy định việc công bố và cung cấp thông tin của NHNN bắt đầu có hiệu lực từ ngày 01/4/2012 công bố định kỳ các thông tin quan trọng về ngành như tốc độ tăng trưởng và số tuyệt đối của vốn điều lệ, vốn tự có, tổng tài sản theo loại hình tổ chức tín dụng, tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu (CAR), tỷ lệ cấp tín dụng so với nguồn vốn huy động, tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung và dài hạn, tốc độ tăng trưởng và số dư tiền gửi khách hàng và tín dụng, tỷ lệ nợ xấu, ROA, ROE, số lượng và giá trị giao dịch ATM, POS. Việc công bố thông tin này so với trước đây đã cho thấy nỗ lực minh bạch hóa hoạt động của ngành ngân hàng, đồng thời phù hợp với các bước đi khác trong quá trình tái cấu trúc tổng thể toàn ngành. Tuy nhiên, số liệu chưa công bố theo chuỗi và chỉ có số liệu tổng hợp ngành mà chưa có số liệu so sánh cho từng ngân hàng để có thể hỗ trợ cho hoạt động nghiên cứu khoa học và đánh giá chi tiết hoạt động của ngành. Bên cạnh đó, việc đánh giá thực trạng hoạt động chung của các ngân hàng cho 607
  8. đến nay mới được NHNN phân nhóm và kết quả cũng chỉ được công bố cho từng ngân hàng chứ không công bố cho công chúng. Nguyên nhân của tình trạng trên xuất phát từ: Trước tiên là bản thân các cơ quan quản lý nhà nước đối với ngân hàng không minh bạch và nghiêm túc trong hoạt động điều tiết, giám sát của mình dẫn đến các ngân hàng có tâm lý ỷ lại vào việc nhà nước không để ngân hàng nào phá sản, sụp đổ nên tình trạng rủi ro đạo đức lại càng tăng. Có thể nhìn thấy điều này rất rõ qua cách NHNN xử lý các ngân hàng yếu kém thời gian qua. NHNN chỉ thị cho BIDV hỗ trợ việc hợp nhất 3 ngân hàng yếu kém SCB, Tín Nghĩa và Đệ Nhất, trong đó có việc tiếp vốn hàng ngàn tỷ đồng cho các ngân hàng này (Hạnh Nhung, 2011). Mặc dù chính sách can thiệp tài chính để ổn định các ngân hàng yếu kém, đảm bảo quyền lơi người gửi tiền là không sai, nhưng với cách làm thiếu minh bạch về vai trò, trách nhiệm giải trình của các bên như trên, đồng thời các chủ sở hữu của các ngân hàng yếu kém vẫn duy trì vị thế của mình nhờ sự tiếp vốn của nhà nước thì hệ quả là tình trạng rủi ro đạo đức trong tương lai sẽ vẫn không có cơ sở thuyên giảm. Thêm nữa, quy định về trách nhiệm giải trình và xử lý các trường hợp vi phạm chưa nghiêm túc. Việc giám sát các NHTM ở Việt Nam hiện nay được thực hiện tập trung bởi Cơ quan thanh tra giám sát Ngân hàng (CQTTGSNH). Khuôn khổ giám sát được thực hiện theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng (Luật Tổ chức tín dụng). Ngoài ra, do các NHTMCP đều các công ty đại chúng cho nên Luật Chứng khoán cũng là một khuôn khổ giám sát cho nhóm ngân hàng này. Mặc dù đã có hệ thống giám sát như vậy, song, từ 2010 đến nay, trải qua nhiều cuộc chạy đua lãi suất, nhiều trường hợp vi phạm các quy định an toàn hoạt động nhưng rất ít chủ sở hữu, lãnh đạo ngân hàng đứng ra nhận trách nhiệm và nhận hình phạt thích đáng, đúng người, đúng tội. Có thể lý giải một phần tình trạng này bởi những yếu kém trong cơ chế giám sát, hạn chế về số lượng và chất lượng nhân sự của cơ quan giám sát… Nhưng ngay cả khi bị phát hiện thì chế tài yếu, xử phạt không nghiêm cũng không tạo động cơ khuyến khích các ngân hàng phải tuân thủ luật pháp ngay từ đầu. Khi luật chơi và trọng tài thiếu nghiêm minh, khó tránh khỏi tình trạng người tham gia gian lận. Nhưng yếu tố này lại phụ thuộc rất nhiều vào động cơ của người làm chính sách. Trong bối cảnh Việt Nam, chỉ khi tình trạng xung đột lợi ích giữa người ra chính sách cũng là đối tượng điều chỉnh của chính sách được xóa bỏ thì các thay đổi khác mới có hy vọng được thực thi. Thứ hai là quy định hiện hành về cá nhân phải công bố thông tin đã bỏ qua 608
  9. trách nhiệm phải công bố thông tin của một lượng lớn cá nhân là chủ sở hữu ngân hàng. Theo Thông tư số 52/2012/TT-BTC, ngày 5 tháng 4 năm 2012, Điều 26 thì tổ chức, cá nhân, nhóm người có liên quan nắm giữ từ 5% trở lên số cổ phiếu có quyền biểu quyết của một ngân hàng mới phải báo cáo về tỷ lệ sở hữu cho các cơ quan quản lý. Quy định về giới hạn công bố thông tin 5% cho một công ty cổ phần đại chúng có thể phù hợp nhưng với một ngân hàng đại chúng thì không nhất thiết. Một ngân hàng thường có vốn tự có rất lớn, do đó việc một cá nhân sở hữu 5% cũng là một số tiền rất lớn. Thứ ba là các hạn chế trong công tác kế toán và kiểm toán. Khuôn khổ kế toán hiện hành (Chuẩn mực Kế toán Việt Nam hay VAS) được xây dựng chủ yếu vào năm 2003 theo Luật Kế toán trên cơ sở tham chiếu đến khuôn khổ của Hội đồng Chuẩn mực Kế toán Quốc tế (IASB) vào thời gian đó song vẫn tồn tại những khác biệt lớn giữa 2 khuôn khổ này. VAS có xu hướng báo cáo phóng đại khả năng sinh lời, giá trị tài sản và khả năng trả nợ của các tổ chức báo cáo. Hiện nay chỉ có một số ít tổ chức nước ngoài gồm cả các ngân hàng có vốn đầu tư nước ngoài đang lập báo cáo tài chính theo IFRS (cùng với các báo cáo tài chính theo VAS). Thêm nữa, các vấn đề của VAS trở nên trầm trọng hơn do hệ thống kế toán và kiểm toán mới ở giai đoạn phát triển ban đầu và thiếu vắng văn hóa minh bạch và trách nhiệm giải trình. Hiện tại chưa có đủ số kế toán viên được đào tạo tốt để có thể lập các báo cáo tài chính đáng tin cậy. Luật Kiểm toán độc lập mới được ban hành năm 2011 quy định cơ sở pháp lý để xây dựng các nguyên tắc kiểm toán đáng tin cậy nhưng việc thực hiện trên thực tế vẫn đòi hỏi cam kết chính trị mạnh mẽ mà đến nay còn chưa rõ ràng. VAS còn thiếu các quy định bắt buộc thi hành. Các biện pháp kỷ luật đối với đơn vị không thực hiện VAS hoặc các Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam theo quy định còn hạn chế. 3. Một số đề xuất nhằm tăng cường tính minh bạch của hệ thống NHTM Việt Nam Thứ nhất, giảm tâm lý ỷ lại của các ngân hàng bằng kỷ luật thị trường Trong môi trường thông tin minh bạch, đối tượng tác nghiệp được giám sát chặt chẽ với chi phí thấp và chế tài nghiêm minh thì rủi ro đạo đức hay tâm lý ỷ lại của đối tượng tác nghiệp sẽ thuyên giảm rất đáng kể. Tâm lý ỷ lại của các chủ sở hữu ngân hàng Việt Nam không nằm ngoài các yếu tố này. Một mặt, các chủ ngân hàng ỷ thế có quan hệ sở hữu gần xa với NHNN, NHTM Nhà nước, doanh nghiệp nhà nước hoặc các cơ quan chính quyền địa phương, pháp nhân, thể nhân thuộc nhà nước. Mặt khác, các chủ ngân hàng không bị đặt trong môi trường buộc 609
  10. phải minh bạch thông tin, cạnh tranh lành mạnh nên luôn tìm được kẽ hở để né luật. Hơn nữa, khi cần các chủ ngân hàng cũng sẵn sàng vi phạm luật bởi chưa chắc họ đã bị phát hiện và nếu có bị phát hiện thì hình phạt cũng không đáng kể so với lợi ích họ thu được. Thông qua việc kiểm toán và công bố thông tin, cơ quan thanh tra - giám sát ngân hàng thuộc NHNN sẽ biết được tỷ lệ sở hữu NHTM của người sở hữu sau cùng. Vì vậy, các trường hợp vi phạm quy định hiện hành về tỷ lệ sở hữu cổ phần theo Điều 55, Luật Tổ chức tín dụng 2010 bao gồm: (i) cổ đông cá nhân (5%), (ii) cổ đông tổ chức (15%), (iii) cổ đông và người có liên quan của cổ đông đó (20%), sẽ phải bán lại cổ phần nắm giữ để đảm bảo giới hạn tỷ lệ sở hữu quy định. Các trường hợp vi phạm sẽ phải xử lý nghiêm khắc theo đúng quy định của pháp luật, tuyệt đối tránh các hành vi “bỏ qua” do lo ngại tác động của nó đối với sự ổn định của ngân hàng. Thứ hai, quy định rõ trách nhiệm giải trình của những người lãnh đạo ngân hàng Người đứng tên sở hữu cổ phần của ngân hàng phải giải trình với cơ quan giám sát nhà nước về nguồn vốn của mình. Các cổ đông lớn hoặc những người được ủy quyền quản lý ngân hàng phải chịu trách nhiệm trước các cổ đông khác, đặc biệt là các cổ đông nhỏ về kết quả hoạt động của ngân hàng. Khi các quy định giám sát nhà nước và quy định quản trị nội bộ của ngân hàng xác định rõ trách nhiệm của những người lãnh đạo, quản lý, điều hành, giám sát ngân hàng thì tình trạng sở hữu ngầm có thể sẽ được cải thiện đáng kể. Trong khi Nhà nước cần những quy định pháp lý rõ ràng, minh bạch, nghiêm khắc để giám sát hành vi của các lãnh đạo ngân hàng trong việc tuân thủ các pháp luật thì các cổ đông, đặc biệt là cổ đông nhỏ lẻ, cần được cung cấp thông tin đầy đủ, cập nhật và có cơ chế thuận lợi để giám sát và đánh giá hiệu quả tài chính của những người được ủy quyền lãnh đạo công ty. Khi tính chính danh, cấu trúc sở hữu cũng như người sở hữu cuối cùng được làm rõ, lợi ích từ việc sử dụng sở hữu chồng chéo, sở hữu ngầm ẩn để thâu tóm quyền lực, né tránh các quy định pháp luật sẽ không còn đáng kể, thậm chí cấu trúc sở hữu chồng chéo này còn gây thêm chi phí tuân thủ các quy định điều tiết theo hướng tiếp cận chuẩn mực quốc tế. Bản thân các chủ sở hữu sẽ cân nhắc việc thoái bớt vốn để tập trung đầu tư sở hữu một ngân hàng hoặc tái cấu trúc thông qua hoạt động M&A để có thể giảm sở hữu chồng chéo. Những ngân hàng có cùng một chủ sở hữu sẽ có xu hướng được gom về một chủ. Thứ ba, các quy định về công bố thông tin được quy định trong Luật Các Tổ chức tín dụng, Luật Chứng khoán, Luật Doanh nghiệp và các quy định liên quan 610
  11. cần tiếp tục được kế thừa và tuân thủ, song vẫn cần phải hoàn thiện và điều chỉnh cho phù hợp với khuôn khổ giám sát khu vực ngân hàng. Quy định chi tiết các đối tượng, nội dung và phạm vi phải công bố thông tin theo Thông tư số 52/2012/TT- BTC của Bộ Tài chính năm 2012 rất có ý nghĩa, đặc biệt với quy định về công bố Báo cáo tình hình quản trị công ty, bên cạnh các báo cáo khác như báo cáo tài chính, báo cáo thường niên, biên bản họp Đại hội đồng cổ đông, và công bố thông tin về việc chào bán chứng khoán và tiến độ sử dụng vốn thu được từ đợt chào bán. Tuy nhiên, hạn chế của nội dung báo cáo quản trị là không bao gồm giao dịch và sở hữu của các cổ đông lớn và những người có liên quan, trong khi đó việc yêu cầu phải công bố thông tin đối với tổ chức, cá nhân, nhóm người liên quan nắm giữ từ 5% trở lên số cổ phiếu có quyền biểu quyết của một công ty đại chúng có thể không phù hợp với trường hợp của một ngân hàng như đã phân tích trên đây. Chính vì vậy, Luật Các Tổ chức tín dụng cần phải xác định lại giới hạn công bố thông tin cho phù hợp với khuôn khổ giám sát hoạt động của ngân hàng, thay vì áp dụng chung cùng một tiêu thức như các công ty cổ phần đại chúng khác. Đồng thời, NHNN nên đề nghị Bộ Tài chính quy định bổ sung các đối tượng sau đây cũng phải công bố thông tin, bao gồm: (i) Các cổ đông có tỷ lệ sở hữu NHTMCP từ 1% trở lên; (ii) Người có liên quan của các cổ đông phải công bố thông tin có tỷ lệ sở hữu NHTMCP từ 1%. NHNN cũng giữ quyền yêu cầu buộc các tổ chức, cá nhân, và người có liên quan phải công bố thông tin trong một số trường hợp nhằm đáp ứng yêu cầu giám sát ngân hàng cũng như đảm bảo tính minh bạch thông tin trước đòi hỏi của các nhóm cổ đông, đặc biệt là các cổ đông nhỏ cùng sở hữu ngân hàng. 4. Kết luận Minh bạch là một tiêu chuẩn chưa được đo lường và đánh giá đối với hệ thống NHTM Việt Nam từ trước đến nay. Song, với xu thế hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam nói chung và hệ thống NH Việt Nam nói riêng, mở cửa lĩnh vực ngân hàng là một trong những cam kết mà Việt Nam phải thực hiện. Để hội nhập đem lại những lợi ích cho ngân hàng thì bản thân hệ thống NHTM Việt Nam dưới sự quản lý của NHNN và các cơ quan quản lý Nhà nước cần có tư duy rõ ràng về vấn đề minh bạch đối với các hoạt động của hệ thống ngân hàng. Chỉ khi có được sự minh bạch nội bộ thì các ngân hàng mới thấy được chính xác những thuận lợi và thách thức của mình, từ đó quyết tâm điều chỉnh để đạt được sự phát triển bền vững. 611
  12. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Basel Committee (1998), Enhancing bank transparency: Public disclosure and supervisory information that promote safety and soundness in banking systems. 2. Hạnh Nhung (2011), Hợp nhất 3 ngân hàng Ficombank, TinNghiabank và SCB - Đảm bảo quyền lợi người gửi tiền, truy cập tại http://www.sggp.org.vn/kinhte/2011/12/275318/, Tạp chí Sài gòn giải phóng Online, truy cập tháng 12/2011. 3. Hồng Phúc (2014), Gỡ sở hữu chồng chéo ngân hàng, Tạp chí Kinh tế Sài Gòn Online, http://www.thesaigontimes.vn/122589/Go-so-huu- chong-cheo-ngan-hang.html, truy cập tháng 11/2014. 4. Fitch (2012), Tái cấu trúc hệ thống ngân hàng Việt Nam thiếu rõ ràng, http://www.baomoi.com/Home/TaiChinh/gafin.vn/Fitch-Ratings-Tai- cau-truc-he-thong-ngan-hang-Viet-Namthieu-ro-rang/8025197.epi. 5. Kim Anh (2014), Minh bạch thông tin ngân hàng: Cuộc chơi không cân bằng, http://cafef.vn/tai-chinh-ngan-hang/minh-bach-thong-tin-ngan-hang- cuoc-choi-khong-cong-bang-2014090513520723317.chn, truy cập tháng 9/2014. 6. Thanh Thương (2015), Ngân hàng Nhà nước chính thức năm 100% vốn ngân hàng Xây dựng, Tạp chí Kinh tế Sài gòn Online, truy cập tại http://www.thesaigontimes.vn/126228/Ngan-hang-Nha-nuoc-chinh- thuc-nam-100-von-NH-Xay-dung.html, truy cập ngày 28/2/2015 7. Trương Văn Khoa (2012), Nỗi lo “đội sổ” khi phân loại ngân hàng, http://vnexpress.net/tin-tuc/cong-dong/noi-lo-doi-so-khi-phan-loai-ngan- hang-2223763.html, truy cập tháng 2/2012. 8. Vũ Thành Tự Anh và cộng sự (2013), Sở hữu chồng chéo giữa các tổ chức tín dụng và tập đoàn kinh tế tại Việt Nam: Đánh giá và các khuyến nghị thể chế, Ủy ban Kinh tế của Quốc hội và UNDP tại Việt Nam 9. WB (2014), Điểm lại cập nhật tình hình phát triển kinh tế Việt Nam, truy cập tại http://www-wds.worldbank.org/external/default/WDSContent Server/WDSP/IB/2014/12/01/000406484_20141201143505/Rendered/PD F/928250VIETNAME00Dec020140Vietnamese.pdf. 612
nguon tai.lieu . vn