Xem mẫu

  1. TÀI CHÍNH VI MÔ - KÊNH TÀI CHÍNH CHO NGƯỜI NGHÈO TS. Lê Thu Huyền TS. Đào Thị Bích Hạnh Học viện Tài chính Tóm tắt Nghèo là một vấn đề đa khía cạnh, không chỉ đơn thuần là vấn đề kinh tế mà còn là vấn đề xã hội, chính trị và văn hóa. Nghèo không phải là vấn đề của riêng những quốc gia nghèo mà là vấn đề của cả thế giới, ngay cả với những nước giàu. Nghịch lý về sự gia tăng nghèo trong điều kiện tăng trưởng kinh tế cao đã được thế giới xác nhận. Vì vậy, trong điều kiện tăng trưởng kinh tế cao, nghèo vẫn được các Chính phủ xem xét khi hoạch định chiến lược phát triển kinh tế xã hội của quốc gia. Cùng với các công cụ tài chính vĩ mô, tài chính vi mô (TCVM) cũng được xem là một công cụ quan trọng trong công cuộc chống lại sự đói nghèo. Nhìn nhận từ góc độ tài chính toàn diện, TCVM là kênh tiếp vốn quan trọng để mở rộng phạm vi bao phủ đến các đối tượng nghèo và yếu thế. Từ khóa: tài chính vi mô, dịch vụ tài chính vi mô, giảm nghèo, tiết kiệm. 1. Tổng quan về tài chính vi mô Một định nghĩa được nhiều chuyên gia TCVM sử dụng: “TCVM là việc cung cấp dịch vụ tài chính cho những người không tiếp cận được với hệ thống tài chính chính thức”. Ngân hàng phát triển châu Á (ADB) định nghĩa TCVM là “việc cung cấp các dịch vụ tài chính như gửi tiền, cho vay, các dịch vụ thanh toán, chuyển tiền và bảo hiểm tới các hộ nghèo, hộ thu nhập thấp và các doanh nghiệp quy mô nhỏ”. Như vậy, với quan điểm định hướng thị trường, TCVM được xem là sự tăng cường theo chiều sâu của hệ thống tài chính, đáp ứng một bộ phận thị trường dịch vụ tài chính mà các định chế chính thức chưa vươn tới được. Ở Việt Nam, TCVM thường được hiểu là tài chính quy mô nhỏ, đó là “hoạt động cung cấp một số dịch vụ tài chính, ngân hàng nhỏ, đơn giản (bao gồm tín dụng quy mô nhỏ, nhận tiền gửi tiết kiệm bắt buộc, tiền gửi tự nguyện, một số dịch vụ thanh toán) cho các hộ gia đình, cá nhân có thu nhập thấp, đặc biệt là hộ gia đình nghèo và người nghèo”. Về mặt thể chế, các tổ chức TCVM được hiểu là các tổ chức chủ yếu cung cấp các dịch vụ TCVM, thường được tổ chức dưới dạng các thể chế tài chính chuyên nghiệp (các định chế chính thức) cung cấp các dịch vụ chuyên môn hóa, như ngân hàng, các hợp tác xã tín dụng; hoặc các định chế bán chính thức, như các tổ chức phi chính phủ, các hội tín dụng hoặc các tổ chức bao gồm các thành viên sở hữu vốn. Theo quan điểm trên, khách hàng chính của hoạt động TCVM là người nghèo; có thể là những người nghèo nhất, hoặc chỉ là đối tượng cận nghèo, hay là “những người không nghèo nhưng dễ bị tổn thương”. Các sản phẩm chính được các tổ chức TCVM cung cấp là vốn vay và tiết kiệm. Ngoài ra, một số sản phẩm mới đang được thử nghiệm như bảo hiểm, các dịch vụ thanh toán, kết hợp với công nghệ mới như thẻ thông minh, thẻ tín dụng… Đối với các tổ chức TCVM, tiết kiệm và cho vay là 2 dịch vụ thường được thực hiện đồng thời, trong đó, tiết kiệm cũng được xem như cấu phần quan trọng như tín dụng. Tiết kiệm tạo ra thói quen tốt cho người vay để tránh rủi ro và mang lại nguồn vốn với chi phí thấp cho các tổ chức TCVM. Tiết kiệm bắt buộc với các thành viên của nhóm là cách để ràng buộc, gắn kết nhóm và tạo ra sự đảm bảo cho món vay. Về mặt lý thuyết, lãi suất được coi là công cụ quan trọng nhất được các tổ chức tín dụng sử dụng để thực hiện các hoạt động nghiệp vụ của mình. Tuy nhiên, với đặc thù về đối tượng khách hàng của các hoạt động TCVM, lãi suất không phải là công cụ duy nhất để thực hiện các hoạt động tiết kiệm 345
  2. và cho vay. Niềm tin, sự an toàn và tiện lợi là những yếu tố được xem trọng để đảm bảo sự thành công của các hoạt động này. Mô hình hoạt động TCVM phổ biến nhất và được coi là thành công ở nhiều nước là mô hình tổ, nhóm. Với sự lựa chọn các thành viên trong nhóm, đây là cách tốt nhất để đánh giá phẩm chất của người vay. Đây là một trong những yếu tố cơ bản của phân tích tín dụng và hạn chế rủi ro cho bất kỳ một hoạt động đầu tư tài chính nào. Việc thảo luận ý tưởng, điều kiện kinh doanh và sự bảo lãnh món vay cho thành viên của nhóm được xem là bước thẩm định rất tốt trước khi cho vay. Áp lực nhóm đảm bảo tiền vay có thể thay thế cho tài sản thế chấp. Sự gắn bó, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau của các thành viên trong nhóm sẽ giúp họ vượt qua những khó khăn trong cuộc sống và sản xuất kinh doanh. Việc tiếp cận thị trường và làm ăn theo nhóm cũng giúp việc phát triển năng lực lãnh đạo và các kỹ năng quản lý. Như vậy có thể thấy, cơ chế tác động của tài chính vi mô đến giảm nghèo là mở rộng khả tiếp cận với các dịch vụ tài chính quy mô nhỏ cho những nhóm dân cư không có hoặc ít có khả năng tiếp cận với các tổ chức tài chính trong khu vực chính thức (như ngân hàng, các tổ chức tín dụng) bằng cách dỡ bỏ các rào cản. 2. Vai trò của Tài chính vi mô đối với mục tiêu giảm nghèo Bên cạnh những chức năng của một trung gian tài chính, TCVM có những tác động đáng kể đến công cuộc giảm nghèo, đó là:  Tăng cường cung cấp các dịch vụ tài chính, tạo ra một kênh tiếp vốn quan trọng cho người nghèo tại các địa bàn khó khăn, nhất là với đối tượng phụ nữ. Với lợi thế về tính linh hoạt và những quy chế hoạt động đặc thù, TCVM có thể loại bỏ được những cản trở trong việc tiếp cận nguồn vốn tín dụng (thủ tục cho vay, tài sản thế chấp…) và tiếp cận được với người nghèo. Giáo sư Mohammad Yunus, người sáng lập Ngân hàng Grameen, đã từng nói:“Nếu coi hệ thống tài chính chính thức, các ngân hàng thương mại là các dòng sông lớn tải vốn cung cấp cho các địa phương thì TCVM như là các con suối, kênh mương dẫn vốn tới từng hộ”.  Đáp ứng các nhu cầu về dịch vụ tài chính thông qua cách tiếp cận dễ dàng, nhanh chóng và thuận lợi. Các sản phẩm TCVM phù hợp với nhu cầu và khả năng hoàn trả của nhóm người nghèo. Bên cạnh vốn vay ngắn hạn, các tổ chức này còn cung cấp các khoản vay khẩn cấp, vay vốn mùa vụ, vay vốn làm nhà, các sản phẩm bảo hiểm vi mô (như bảo hiểm mùa vụ, bảo hiểm chăn nuôi)… Ngoài các dịch vụ tài chính, các tổ chức tín dụng vi mô còn cung cấp các dịch vụ “phi tài chính” khác như đào tạo các kỹ năng kinh doanh cơ bản, hướng dẫn áp dụng khoa học và công nghệ trong sản xuất, thông tin về chăm sóc sức khỏe, sức khỏe sinh sản, dinh dưỡng cho trẻ em... Các dịch vụ phi tài chính được đánh giá cao bởi nó giúp người nghèo cải thiện được kỹ năng quản lý và sử dụng vốn vay có hiệu quả hơn.  Đa dạng hóa nguồn thu nhập của các hộ nghèo và giảm các nguy cơ tổn thương về kinh tế và nâng cao mức sống. Thông qua việc tiếp cận và có được lòng tin của người nghèo, TCVM có thể giúp người nghèo qua việc tạo dựng tài sản, tạo lòng tin vào bản thân cho người nghèo, làm cho họ biết quý và phát triển vốn vay từ đó phát triển bền vững.  Góp phần phát triển vốn xã hội cho người nghèo: nâng cao nhận thức và năng lực cho cộng đồng cũng như vị thế của phụ nữ trong xã hội, liên kết giữa người nông dân, nhất là phụ nữ khi tham gia các chương trình tín dụng. Trong quá trình tham gia các hoạt động TCVM, các thành viên có thể trao đổi, chia sẻ kiến thức để từ đó nâng cao nhận thức, mở rộng và củng cố các mối quan hệ. Đồng thời, nhờ tiếp cận với nguồn vốn của TCVM để tạo ra thu nhập cho gia đình, tiếng nói của phụ nữ nghèo trong gia đình và ngoài xã hội ngày càng có vị thế hơn. Với những lý do trên, TCVM đang ngày càng trở thành một công cụ quan trọng trong quá trình giảm nghèo. 346
  3. 3. Một số đánh giá và khuyến nghị nhằm phát triển Tài chính vi mô ở Việt Nam TCVM ở Việt Nam là một ngành đang phát triển và đóng vai trò quan trọng trong việc đạt được các mục tiêu của Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xóa đói, giảm nghèo. Khuôn khổ pháp lý cho hoạt động TCVM được hình thành khi Chính phủ ban hành Nghị định 28 ngày 9 tháng 3 năm 2005 về Tổ chức và hoạt động của các tổ chức tài chính quy mô nhỏ. Tuy vậy, hoạt động TCVM ở Việt Nam đã tồn tại từ lâu dưới nhiều hình thức. Trong hệ thống tài chính Việt Nam, hoạt động TCVM bao gồm cả trong khu vực chính thức, bán chính thức và khu vực phi chính thức. Khu vực chính thức gồm có Ngân hàng chính sách xã hội (NHCSXH), Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NHNN&PTNT), Quỹ tín dụng nhân dân và Công ty dịch vụ tiết kiệm bưu điện. Khu vực bán chính thức gồm có các tổ chức tài chính vi mô được thành lập bởi các tổ chức chính trị xã hội và thực hiện các hoạt động tín dụng bằng nguồn vốn tài trợ của các tổ chức phi chính phủ trong nước và quốc tế. Khu vực phi chính thức bao gồm các nhóm cho vay tương hỗ cá nhân dưới hình thức hụi, họ, vay họ hàng, bạn bè và các nhà cho vay tư nhân. Trong bối cảnh hiện nay, việc giảm dần sự can thiệp trực tiếp của Nhà nước thông qua cổ phần hoá các ngân hàng thuộc sở hữu nhà nước là tất yếu. Cơ hội cho người nghèo tham gia vào thị trường tài chính chính thức cũng rất hạn chế vì dưới con mắt của các ngân hàng, người nghèo và những người sản xuất nông nghiệp nhỏ là nhóm khách hàng rủi ro. Do đó, hoạt động TCVM, nhất là trong khu vực bán chính thức vẫn sẽ là hình thức quan trọng đảm bảo phát triển dịch vụ tài chính gắn với người nghèo ở nông thôn. Tuy vậy, hoạt động TCVM Việt Nam hiện nay còn manh mún, các chỉ số bền vững đều ở mức khiêm tốn. Năng lực nội tại của các tổ chức TCVM còn yếu. Điều đó thể hiện qua chất lượng các sản phẩm cung cấp còn thấp, sản phẩm dịch vụ chưa phong phú đa dạng, một số tổ chức chưa có tầm nhìn. Hệ thống quản lý yếu kém… Khuôn khổ pháp lý còn nhiều bất cập, chưa tạo ra môi trường bình đẳng cho các tổ chức hoạt động trong lĩnh vực TCVM. Ưu thế cạnh tranh đang thuộc về các tổ chức TCVM chính thức khi được sự hỗ trợ của Nhà nước về nguồn vốn và ở vị thế thống lĩnh thị trường với địa bàn trải rộng khắp cả nước và chiếm thị phần tuyệt đối về cho vay và huy động tiết kiệm. Vị thế thống lĩnh thị trường đó có thể là nguyên nhân quan trọng hạn chế việc cạnh tranh trong việc tiếp cận, cung ứng những sản phẩm TCVM tốt nhất, với giá rẻ nhất có lợi cho người vay, nhưng vẫn bảo đảm hiệu quả và tính bền vững cho các hoạt động TCVM nói chung. Các tổ chức TCVM bán chính thức gặp khó khăn do quy mô nguồn vốn nhỏ bé ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn và khả năng thu hồi. Việc cho vay không thế chấp với người nghèo có thể mang lại nhiều rủi ro về khả năng bảo toàn vốn đối với các tổ chức này. Để TCVM phục vụ mục tiêu XĐGN thì ngoài việc kết hợp chặt chẽ với chính sách giảm nghèo, hoạt động TCVM cần tập trung vào hai định hướng; đó là tăng khả năng tiếp cận dịch vụ tài chính cho người nghèo hơn là ưu đãi; và phát triển các tổ chức TCVM tự vững mạnh về tổ chức và tài chính. Các giải pháp được đề xuất nhằm mục đích vừa tạo môi trường phát triển các hoạt động tài chính vi mô, vừa củng cố hoạt động của các tổ chức TCVM. Cụ thể là: (i) phát triển một thị trường TCVM lành mạnh và hiệu quả, (ii) nâng cao năng lực nội tại cho tổ chức TCVM và (iii) phát triển mạng lưới các tổ chức TCVM bền vững về tài chính. Các hoạt động này phải được thực hiện một cách đồng bộ và gắn với mục tiêu XĐGN trong từng giai đoạn. (i) Xây dựng thị trường tài chính vi mô lành mạnh và hiệu quả Một thị trường TCVM lành mạnh phải tạo ra môi trường cho các tổ chức TCVM cùng hoạt động một cách công bằng. Để làm được điều đó cần có sự can thiệp của Nhà nước với vai trò người tạo ra hành lang pháp lý để phát triển thị trường. Trước hết, cần thay đổi nhận thức của Nhà nước về vai trò của TCVM, cho rằng TCVM là công cụ xã hội và nhân đạo để xóa đói, giảm nghèo. TCVM cần phải được nhìn nhận lại với tư 347
  4. cách là một phân ngành kinh doanh tài chính tự lực có nhiệm vụ xã hội, là một công cụ kinh tế để tăng cường khả năng tiếp cận của người nghèo với các dịch vụ tài chính một cách bền vững. Trong bối cảnh các thể chế TCVM chính thức và bán chính thức hoạt động đan xen nhau, để đảm bảo hoạt động của NHCSXH song song với việc phát triển các tổ chức TCVM thuộc khu vực bán chính thức và giảm thiểu tác động của lãi suất ưu đãi đối với người nghèo, cần tách bạch và điều chỉnh phương thức hoạt động của các thể chế tín dụng chính thức. Trước mắt, các hoạt động của NHCSXH có thể được chia thành 2 kênh khác nhau. Một kênh gồm các hoạt động tín dụng cần được trợ cấp (cho vay đối với sinh viên nghèo) và nguồn vốn lấy từ Ngân sách Nhà nước. Kênh thứ hai gồm các hoạt động tín dụng/ngân hàng khác với nguồn vốn hiện tại của NHCSXH và từ nguồn tiết kiệm bổ sung mà ngân hàng có thể huy động trên thị trường. Về lâu dài, các thể chế tín dụng thuộc khu vực chính thức đang nhận bao cấp của Nhà nước cần được chuyển từ vai trò của những người “bán lẻ”, trực tiếp cho người nghèo vay ưu đãi sang vai trò của những người “bán buôn” với lãi suất thấp cho các tổ chức TCVM, để các tổ chức này có thể mở rộng cho vay đến người nghèo và các nhóm dễ bị tổn thương. Những hoạt động cho vay có tính chất “cấp vốn” thực hiện mục đích an sinh xã hội cần tách khỏi NHCSXH và chuyển sang cho các bộ ngành liên quan. Như vậy vừa làm giảm những tác động không mong muốn do lãi suất ưu đãi mang lại, vừa đảm bảo thị trường tài chính vi mô phát triển lành mạnh và bền vững, trong khi vẫn đạt được các mục tiêu xóa đói, giảm nghèo. Mặt khác, Nhà nước cần tạo cơ hội cho các tổ chức TCVM trong khu vực bán chính thức tham gia thị trường một cách bình đẳng thông qua việc cải thiện các thủ tục và điều kiện thành lập và hoạt động. Đồng thời, Hiệp hội cần phối hợp với Ngân hàng Nhà nước, các tổ chức TCVM chính thức để xây dựng Quy tắc hoạt động, với ý nghĩa như một khuôn khổ pháp lý để áp dụng đối với các tổ chức này. Quy tắc này phải mô tả hoạt động kinh doanh, nhóm khách hàng mục tiêu và các hoạt động TCVM. Quy tắc cũng cần có các chỉ số nhằm kiểm soát chất lượng danh mục cho vay, hiệu quả hoạt động, quản lý thận trọng các khoản tiết kiệm và mức độ sinh lời. Các tổ chức TCVM này sẽ được Hiệp hội đánh giá, phân loại tùy thuộc kết quả hoạt động và đây là điều kiện để khẳng định liệu một tổ chức có được tiếp tục hay bị dừng hoạt động. Trong một khuôn khổ như vậy, các tổ chức này sẽ “tự điều tiết” để đảm bảo hiệu quả hoạt động TCVM đối với các khách hàng nghèo. (ii) Nâng cao năng lực nội tại của các tổ chức tài chính vi mô Năng lực nội tại của một tổ chức TCVM là yếu tố quan trọng đảm bảo cho tổ chức phát triển bền vững. Năng lực đó được thể hiện ở 5 yếu tố: Cấu trúc quản trị rõ ràng, cán bộ giỏi và tích cực, quy trình thủ tục và hệ thống hiệu quả, quản lý tài chính minh bạch và lành mạnh. Trong các yếu tố nói trên, hiện nay điểm yếu nhất của các tổ chức TCVM là chưa có cấu trúc quản trị tự chủ và rõ ràng, năng lực quản lý và năng lực chuyên môn của cán bộ còn nhiều hạn chế. Nguyên nhân liên quan đến điểm yếu thứ nhất là do các tổ chức TCVM thường trực thuộc các tổ chức chính trị - xã hội, nhất là Hội Phụ nữ. Vì vậy, giải pháp cho vấn đề này là tăng cường năng lực cho Hội Phụ nữ với vai trò mới là một đơn vị hỗ trợ và vận động cho hoạt động TCVM tại cơ sở như thúc đẩy sự tiếp cận của người nghèo (phụ nữ nghèo), tổ chức các nhóm tín dụng, giám sát trả nợ... Vai trò này sẽ được thực hiện tốt nếu Hội Phụ nữ được coi là một đơn vị hỗ trợ khách quan, chuyên nghiệp nhằm điều phối các ý tưởng chung của tổ chức TCVM thay vì vai trò của một tổ chức cung cấp dịch vụ TCVM bền vững và kiểm soát hoạt động của các tổ chức này. Điểm yếu thứ hai cần được khắc phục bằng cách tăng cường đào tạo để nâng cao năng lực của tổ chức và con người. Chính phủ và các nhà tài trợ nên dành nguồn lực cho hoạt động đào tạo cán bộ quản lý và nhân viên của các tổ chức, kể cả các tổ chức chính thức và bán chính thức thông qua các chương trình xây dựng năng lực. Việc đào tạo nên ưu tiên cho các tổ chức “nguồn”, được lựa chọn như Hiệp hội Ngân hàng, Hiệp hội TCVM..., có khả năng đào tạo lại cho các tổ chức TCVM khác trong hệ thống. Phương thức đào tạo có tính chất “chuyển giao” này sẽ 348
  5. củng cố nguồn nhân lực một cách lâu dài và bền vững. Một số lĩnh vực cần hỗ trợ là phát triển nguồn nhân lực, xây dựng hệ thống thông tin quản lý, xây dựng và duy trì cơ sở dữ liệu của các thành viên và phần mềm cho hoạt động ngân hàng, kiểm toán, giám sát và đánh giá. Các hoạt động đào tạo, nâng cao năng lực nói trên sẽ tăng cường kỹ năng của các nhân viên và các nhà quản lý trong các tổ chức TCVM, từ đó mở rộng phạm vi và cải thiện chất lượng các dịch vụ của tổ chức này đối với các khách hàng nghèo. (iii) Phát triển mạng lưới tài chính vi mô với phạm vi tiếp cận rộng và bền vững về tài chính Liên kết các tổ chức TCVM thành một mạng lưới và phát triển các mạng lưới này được xem là một giải pháp trong điều kiện các tổ chức TCVM còn non trẻ. Điều đó một mặt cho phép các tổ chức TCVM chia sẻ kinh nghiệm, trao đổi thông tin và thống nhất tiếng nói của mình với Chính phủ. Mặt khác, một mạng lưới các tổ chức TCVM hoạt động có hiệu quả là giải pháp cho tình trạng thị trường TCVM còn vụn vặt và phát triển rời rạc như hiện nay bởi nó có thể lấp đầy các khoảng trống trong việc cung cấp các dịch vụ tài chính phục vụ người nghèo với các sản phẩm đa dạng và phù hợp. Để đảm bảo nguồn vốn và hoạt động bền vững, các tổ chức TCVM bán chính thức đã được phép tiếp cận nguồn vốn từ các tổ chức và cá nhân trong nước, nước ngoài. Tuy nhiên, khó khăn về tình hình tài chính trước mắt và chất lượng báo cáo tài chính vẫn là rào cản lớn về hồ sơ, thủ tục khi các tổ chức TCVM tiếp cận với các nguồn vốn của các ngân hàng thương mại. Rào cản khác khi tiếp cận với nguồn vốn từ khu vực tư nhân là tính minh bạch, hiệu quả và khả năng sinh lời từ các hoạt động TCVM. Vì vậy, nâng cao năng lực của chính mỗi tổ chức TCVM là giải pháp quan trọng để các tổ chức này mở rộng thị trường, nâng cao hiệu quả hoạt động, khẳng định uy tín của tổ chức. Đây là những yếu tố cần thiết để tăng khả năng tiếp cận với các nguồn vốn, đảm bảo hoạt động bền vững cho các tổ chức TCVM. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nghị định 28/2005/NĐ-CP ngày 09 tháng 3 năm 2005 về tổ chức và hoạt động của tổ chức tài chính quy mô nhỏ tại Việt Nam. 2. Nghị định 165/2007/NĐ-CP ngày 15 tháng 11 năm 2007 sửa đổi bổ sung, bãi bỏ một số điều của Nghị định 28/2005/NĐ-CP ngày 09 tháng 3 năm 2005 về tổ chức và hoạt động của tổ chức tài chính quy mô nhỏ tại Việt Nam. 3. Ngân hàng phát triển Châu Á (2003), “Việt Nam tăng cường năng lực giảm nghèo miền Trung, Tài chính vi mô”. 4. Quỹ Đầu tư Phát triển Liên Hiệp Quốc, Tài chính vi mô, Khóa học từ xa 5. http://www.microfinance.vn. 6. Chuẩn tham chiếu cho TCVM Việt Nam, Nhóm công tác TCVM Việt Nam, Bản tin số 10, tháng 12 năm 2007. 7. Diễn đàn Tài chính vi mô châu Á, tháng 8 năm 2008. 8. Hướng tới một ngành tài chính vi mô tự vững ở Việt Nam, các vấn đề đặt ra và thách thức, Tài liệu nghiệp vụ số 5 của Văn phòng ILO tại Việt Nam, 2005. 9. Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho tài chính vi mô thúc đẩy tài chính toàn diện, Nhuệ Mẫn, 2018. 10. Việt Nam: Xây dựng chiến lược toàn diện tăng cường khả năng tiếp cận dịch vụ tài chính vi mô của người nghèo, Ngân hàng thế giới, tháng 2 năm 2007. 11. Tài chính vi mô tại Việt Nam: Thực trạng hoạt động và các hàm ý chính sách, Trương Quang Hồng và Vũ Đức Cần, 2018. 349
nguon tai.lieu . vn