Xem mẫu
- TÀI CHÍNH TOÀN DIỆN - ĐỘNG LỰC VÀ TÁC ĐỘNG
KHUYẾN NGHỊ CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI VIỆT NAM
TS. Ông Nguyên Chương
Trường Đại học Kinh tế, Đại học Đà Nẵng
Tóm tắt:
Trong những năm gần đây, tài chính toàn diện đã trở thành một vấn đề được quan tâm trên
phạm vi toàn cầu với mục tiêu phát triển hệ thống tài chính phục vụ cho tất cả các thành viên
trong xã hội. Sự bao phủ tài chính được thừa nhận rộng rãi như là yếu tố quan trọng đối với việc
giảm nghèo, bất bình đẳng và đạt được tăng trưởng bao trùm. Tài chính toàn diện không chỉ giới
hạn trong việc cải thiện khả năng tiếp cận tín dụng, mà bao gồm cả nâng cao hiểu biết về tài
chính cho người dân và bảo vệ người tiêu dùng. Triển khai tài chính toàn diện giúp cho tất cả
mọi người có quyền tiếp cận và sử dụng hiệu quả các sản phẩm, dịch vụ tài chính phù hợp với
nhu cầu, có chất lượng, tiện lợi, nhanh chóng ở mức chi phí chấp nhận được. Nâng cao khả năng
tiếp cận dịch vụ tài chính được xem là cách thức hiệu quả, kích thích các hoạt động tạo thu nhập,
giúp người dân kiểm soát tình trạng tài chính của mình, từng bước thoát nghèo.
Từ khóa: tài chính toàn diện, động lực, tác động, tăng trưởng bao trùm
1. Tổng quan về tài chính toàn diện
Trong những năm gần đây, tài chính toàn diện (financial inclusion) đã trở thành một vấn đề
được quan tâm trên phạm vi toàn cầu với mục tiêu phát triển hệ thống tài chính phục vụ cho tất cả
các thành viên trong xã hội. Sự bao phủ tài chính được thừa nhận rộng rãi như là yếu tố quan
trọng đối với việc giảm nghèo, bất bình đẳng và đạt được tăng trưởng bao trùm (inclusive
growth). Tài chính toàn diện không phải là mục đích - mà là một phương tiện để đạt được mục
đích. Thông qua tài chính toàn diện nhằm cung cấp dịch vụ tài chính phù hợp và thuận tiện cho
mọi cá nhân và tổ chức, đặc biệt đối với người có thu nhập thấp và dễ bị tổn thương nhằm tăng
cường cơ hội tiếp cận tài chính, góp phần tạo cơ hội sinh kế, luân chuyển dòng vốn đầu tư và tiết
kiệm trong xã hội, qua đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Khái niệm về tài chính toàn diện được phát triển và xây dựng dựa trên các ý tưởng về tín dụng
vi mô và tài chính vi mô. Cơ sở lý luận có sự đồng thuận đối với khái niệm về tài chính toàn diện như
là cách thức và phương tiện tiếp cận và sử dụng rộng rãi các sản phẩm và dịch vụ tài chính. Các thước
đo tài chính toàn diện mang tính đa chiều, phản ánh sự đa dạng của các dịch vụ tài chính, từ các
khoản thanh toán và tiết kiệm đến tín dụng, bảo hiểm, lương hưu và thị trường chứng khoán. Các khía
cạnh này có thể được xác định khác nhau cho cá nhân và cho doanh nghiệp.
Liên Hiệp Quốc (2006) định nghĩa tài chính toàn diện liên quan đến khả năng tiếp cận danh
mục dịch vụ tài chính với chi phí hợp lý của tất cả các hộ gia đình. Dịch vụ tài chính cơ bản bao
gồm dịch vụ tiết kiệm, tín dụng ngắn hạn và dài hạn, cho vay mua nhà, cho thuê tài chính và bao
thanh toán, dịch vụ bảo hiểm, hưu trí, thanh toán, chuyển tiền trong nước và kiều hối. Theo
AusAID 2010, “tài chính toàn diện” là việc mở rộng, thông qua hỗ trợ phát triển hoặc các phương
tiện khác, với các dịch vụ tài chính cho người nghèo hoặc người gặp khó khăn trong việc tiếp cận
dịch vụ tài chính; Allen và các cộng sự (2016) định nghĩa “tài chính toàn diện như là việc sử
dụng các dịch vụ tài chính chính thức”; Sarma (2016) khái niệm "tài chính toàn diện là một quá
trình đảm bảo sự tiếp cận dễ dàng, tính sẵn có và sử dụng hệ thống tài chính chính thức cho tất cả
các thành viên của nền kinh tế". Một khái niệm về tài chính toàn diện từ Ngân hàng Thế giới
được công nhận rộng rãi đó là, “tài chính toàn diện là tỷ lệ cá nhân và doanh nghiệp sử dụng dịch
vụ tài chính” (Ngân hàng Thế giới 2014a). Sau đó, Ngân hàng Thế giới đã phát triển một khái
niệm phức tạp hơn: "Tài chính toàn diện nghĩa là cá nhân và doanh nghiệp có được sự tiếp cận
424
- đối với các sản phẩm và dịch vụ tài chính hữu ích và giá cả phải chăng đáp ứng nhu cầu của họ
về giao dịch, thanh toán, tiết kiệm, tín dụng và bảo hiểm một cách trách nhiệm và bền vững”.
Định nghĩa này nhấn mạnh các khía cạnh khác nhau của các dịch vụ tài chính điều mà làm cho tài
chính trở thành một phần quan trọng của nền kinh tế. Một cách khác, khái niệm “loại trừ tài
chính” (financial exclusion) như là một cách diễn đạt khác của khái niệm tài chính toàn diện.
European Commission (2008) định nghĩa “Loại trừ tài chính đề cập đến quá trình theo đó người
dân gặp khó khăn khi tiếp cận và/hoặc sử dụng dịch vụ và sản phẩm tài chính trên thị trường
chính thức phù hợp với nhu cầu của họ và giúp họ có một cuộc sống bình thường”. Như vậy tất
cả những người không có tài khoản ngân hàng, hoặc không tiếp cận được bất kỳ dịch vụ tài chính
nào khác, hoặc với một tổ chức tài chính chính thức như ngân hàng, hợp tác xã tín dụng, tín dụng
bưu điện hoặc tổ chức tài chính vi mô đều nằm trong số bị loại trừ. Trong thực tế, có một quá
trình liên tục từ những người không sử dụng dịch vụ tài chính, đến những người chỉ sử dụng các
dịch vụ không chính thức thông qua người cho vay hoặc thành viên gia đình, cho đến những
người vừa sử dụng một số dịch vụ không chính thức và chính thức, và cuối cùng đến những
người chỉ sử dụng dịch vụ chính thức. Tài chính toàn diện không chỉ đề cập đến việc tiếp cận, mà
còn liên quan đến việc sử dụng và chất lượng dịch vụ tài chính. Ngay cả những người có thể tiếp
cận các dịch vụ tài chính chính thức cũng có thể bị loại trừ một phần do thiếu hoặc bị hạn chế tiếp
cận các dịch vụ khác. Bên cạnh đó cũng cần lưu ý có một số người bị loại trừ một cách tự nguyện
vì họ không có đủ khả năng hoặc chấp nhận dịch vụ không chính thức.
Tài chính toàn diện hiện nay được xem như là một mục tiêu chính sách quốc gia và rộng
hơn là chương trình nghị sự toàn cầu, bao gồm nhiều khía cạnh và các sản phẩm dịch vụ và phân
khúc người tiêu dùng, nhà cung cấp dịch vụ tài chính, các kênh cung cấp dịch vụ, các tác nhân
chính phủ và các bên liên quan. Về lý thuyết, việc nâng cao tiếp cận dịch vụ tài chính sẽ thúc đẩy
phát triển kinh tế. Nâng cao tiếp cận dịch vụ tài chính giúp dòng vốn luân chuyển rộng rãi tới mọi
thành phần dân cư và doanh nghiệp, nhất là những thành phần thiệt thòi, từ đó thúc đẩy sản xuất
kinh doanh, giảm nghèo và thu hẹp dần những khác biệt về thu nhập, giảm xung đột xã hội. Đặc
biệt, các dòng vốn chính thức được sử dụng với độ an toàn cao hơn được luân chuyển trong nỗ
lực mở rộng tiếp cận dịch vụ tài chính cũng giúp các cá nhân, hộ gia đình vốn hạn chế hiểu biết
về tài chính tránh được những rủi ro không đáng có. Tuy nhiên, việc nâng cao tiếp cận dịch vụ tài
chính có giúp tăng cường ổn định tài chính hay không còn tùy thuộc vào sự tồn tại của một cơ sở
hạ tầng, pháp lý và thể chế độc lập, minh bạch và không tham nhũng. Nói cách khác, việc mở
rộng tiếp cận dịch vụ tài chính có thể góp phần thúc đẩy ổn định tài chính trong ngắn hạn và dài
hạn. Đối với các nước đang phát triển, một bộ phận quan trọng của chiến lược phát triển là các
chương trình xóa đói giảm nghèo, đặc biệt là ở khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa. Trong bối
cảnh bất bình đẳng và khoảng cách xã hội ngày càng mở rộng, việc thúc đẩy tài chính toàn diện
được xem như một phương thức nhằm thu hẹp khoảng cách thu nhập và xã hội. Trong đó, nâng cao
khả năng tiếp cận dịch vụ tài chính được xem là cách thức hiệu quả, kích thích các hoạt động tạo
thu nhập, giúp người dân kiểm soát tình trạng tài chính của mình, từng bước thoát nghèo. Tài chính
toàn diện không chỉ giới hạn trong việc cải thiện khả năng tiếp cận tín dụng, mà bao gồm cả nâng
cao hiểu biết về tài chính cho người dân và bảo vệ người tiêu dùng. Triển khai tài chính toàn diện
giúp cho tất cả mọi người có quyền tiếp cận và sử dụng hiệu quả các sản phẩm, dịch vụ tài chính
phù hợp với nhu cầu, có chất lượng, tiện lợi, nhanh chóng ở mức chi phí chấp nhận được.
2. Các cấu phần chính của tài chính toàn diện
2.1. Khả năng tiếp cận
Người tiêu dùng có khả năng tiếp cận thuận tiện vào các sản phẩm và dịch vụ tài chính là
động lực chính của tài chính toàn diện. Việc cải thiện khả năng tiếp cận các dịch vụ tài chính làm
tăng việc sử dụng của người tiêu dùng và nhiều lợi ích tiếp theo của việc tài chính toàn diện, bao
gồm tăng thu nhập, đầu tư sản xuất và việc làm. Ở nhiều nước, lĩnh vực tài chính đã mở rộng
425
- thông qua mạng lưới chi nhánh. Tuy nhiên, chi phí xây dựng và vận hành các chi nhánh thường
lớn hơn rất nhiều so với doanh thu thu được bằng cách phục vụ một số phân khúc khách hàng
nhất định.
Mô hình dựa trên đại lý là một sự phát triển rộng rãi gần đây và là thành phần chính của câu
chuyện thành công về phát triển tài chính của Trung Quốc. Trong mô hình như vậy, sự thuận tiện
của các cửa hàng, bưu điện, nhà bán lẻ hoặc các cửa hàng khác đóng vai trò là đại lý bên thứ ba
thay mặt cho các nhà cung cấp dịch vụ tài chính truyền thống hoặc di động. Thiết bị đầu cuối
điểm bán hàng (POS) và/hoặc thiết bị di động thường được sử dụng nhất để cho phép các đại lý
này hoạt động. Sự phổ biến của các mô hình này được thúc đẩy bởi các nhà cung cấp dịch vụ tài
chính. Các đại lý bán lẻ đại diện cho các nhà cung cấp dịch vụ tài chính vượt xa các chi nhánh
lớn tại một số nền kinh tế, bao gồm Brazil, Trung Quốc, Ấn Độ và Peru.
Mặc dù cách tiếp cận mới này làm tăng khả năng tiếp cận, song tiến độ vẫn không đồng
đều. Mặc dù các kênh tiếp cận mới ít tốn kém hơn cho các nhà cung cấp so với các chi nhánh
dịch vụ đầy đủ, các kênh như vậy vẫn không rẻ về mặt tuyệt đối và tính toán lợi ích chi phí gây ra
trở ngại cho sự tài chính toàn diện. Chẳng hạn như chi phí thiết lập ATM và đại lý hỗ trợ POS
trong nhiều trường hợp, nguồn doanh thu từ các giao dịch giá trị thấp có thể không đủ để bù đắp
chi phí đầu tư và vận hành.
Ngoài ra, không phải tất cả các loại nhà cung cấp hoặc kênh tiếp cận đều có thể được coi là
như nhau từ góc độ người tiêu dùng. Sự tiện lợi, dịch vụ sản phẩm, chức năng và chất lượng hoạt
động của từng loại điểm tiếp cận tạo ra sự khác biệt có ý nghĩa giữa các loại. Ở hầu hết các quốc
gia, các chi nhánh ngân hàng thương mại vẫn cung cấp gói sản phẩm và dịch vụ tài chính toàn
diện nhất. Các nhà cung cấp dịch vụ tài chính chuyên biệt nhắm vào phân khúc người tiêu dùng
nông thôn và người nghèo rất quan trọng để mở rộng khả năng tiếp cận về mặt vật lý, nhưng
trong một số trường hợp cung cấp một gói sản phẩm hạn chế hơn, không được tích hợp hoàn toàn
vào các hệ thống cơ sở hạ tầng tài chính quan trọng (ví dụ: cơ sở hạ tầng thanh toán và phòng
giao dịch tín dụng), và phải đối mặt với những trở ngại pháp lý và giám sát; trong đó một số
trường hợp dẫn đến rào cản gia nhập và chi phí vận hành cao.
Khung pháp lý và quy định và mô hình kinh doanh hoạt động có thể xác định mức độ mà
các đại lý của các nhà cung cấp dịch vụ tài chính có thể phù hợp với các chức năng cơ bản của
các chi nhánh chính. Chẳng hạn như các đại lý ở Trung Quốc hiện đang thực hiện các giao dịch
tiền mặt hoặc mở tài khoản hạn chế. Những hạn chế thực tế đối với năng lực của đại lý và các hạn
chế pháp lý như những hạn chế liên quan đến yêu cầu chuyên sâu của khách hàng, cản trở mức
độ mà các mô hình dựa trên đại lý có thể hoàn toàn phù hợp với các dịch vụ của chi nhánh ngân
hàng.Ngoài các điểm tiếp cận vật lý được vận hành bởi các nhà cung cấp dịch vụ tài chính, các
thiết bị cá nhân như điện thoại di động và máy tính cung cấp thêm các cách thức cho người tiêu
dùng lựa chọn và sử dụng các sản phẩm tài chính. Các thiết bị kỹ thuật số cá nhân này có thể tạo
điều kiện nâng cao chất lượng sản phẩm cho người tiêu dùng có mối quan hệ hiện tại với các nhà
cung cấp dịch vụ tài chính (nghĩa là liên kết tài khoản hiện tại với nền tảng thanh toán của bên
thứ ba) và cung cấp nền tảng để sử dụng sản phẩm thuận tiện (ví dụ: gửi hoặc nhận tiền), do đó,
gửi hoặc nhận tiền) tăng khả năng tiếp cận người tiêu dùng. Tuy nhiên, trong hầu hết các trường
hợp, các thiết bị kỹ thuật số cá nhân không thể thay thế hoàn toàn nhu cầu tương tác trực tiếp với
các nhà cung cấp dịch vụ tài chính, đặc biệt đối với người tiêu dùng lần đầu tiên bước vào hệ
thống tài chính chính thức. Các sản phẩm kỹ thuật số thường vẫn yêu cầu tương tác vật lý ban
đầu với nhà cung cấp cho mục đích nhận dạng hoặc tài liệu.
2.2. Sản phẩm đa dạng và phù hợp
Để đạt được sự tài chính toàn diện đòi hỏi một loạt các sản phẩm và dịch vụ được thiết kế
phù hợp với nhu cầu của người tiêu dùng. Thiết kế các sản phẩm tài chính phù hợp đòi hỏi phải
xác định nhu cầu của các phân khúc khách hàng cụ thể và lựa chọn các tính năng sản phẩm có thể
426
- đáp ứng các nhu cầu đó với chi phí hợp lý. Các khía cạnh khác nhau phải được xem xét liên quan
đến sự phù hợp hoặc chất lượng của các sản phẩm tài chính. Các khía cạnh khác bao gồm sự phù
hợp, minh bạch và giá trị khách hàng. Các yếu tố này thường liên quan đến nhau hoặc đan xen
lẫn nhau. Làm thế nào để thiết kế sản phẩm chất lượng ảnh hưởng đến tài chính toàn diện? Sự
phù hợp của các sản phẩm có thể thúc đẩy sự hấp thụ và tăng sự tham gia sử dụng của những
người không được tiếp cận tài chính chính thức. Ngược lại, các sản phẩm phù hợp kém sẽ không
có sự hấp thụ đáng kể cũng như sử dụng lâu dài, hoặc chúng thực sự có thể gây hại cho người
tiêu dùng có thu nhập thấp. Sự quan tâm không đầy đủ đến thiết kế sản phẩm dẫn đến việc thu hút
và sử dụng tài khoản giao dịch hạn chế.
Nhìn chung, các sản phẩm và dịch vụ tài chính thường không phù hợp với nhu cầu của người
tiêu dùng có thu nhập thấp, những người có thể yêu cầu các sản phẩm đơn giản, chi phí thấp mà
không có các tính năng không cần thiết. Chẳng hạn một sản phẩm được đơn giản hóa là tài khoản
ngân hàng cơ bản, thường là tài khoản hiện tại không có hoặc có phí hàng tháng thấp và yêu cầu số
dư tối thiểu và các chức năng cơ bản của tài khoản hiện tại, thường có giới hạn về số lượng giao
dịch hàng tháng được phép và không có các tính năng bổ sung như thấu chi. Tín dụng vi mô tập
trung vào cho vay doanh nghiệp siêu nhỏ cũng là một ví dụ về thiết kế sản phẩm phù hợp với người
tiêu dùng có thu nhập thấp, vì tín dụng vi mô được thiết kế để cung cấp một lượng tín dụng nhỏ
trong các chu kỳ ngắn không sử dụng các tài sản thế chấp (ví dụ: tài sản thế chấp có uy tín, bảo lãnh
nhóm) - phù hợp hơn cho các doanh nghiệp qui mô nhỏ và bằng loại hình không chính thức. Tài
chính số mở ra tiềm năng cho việc điều chỉnh và tùy chỉnh các sản phẩm và dịch vụ lớn hơn để phù
hợp với nhu cầu của người tiêu dùng, một phần dựa trên khả năng sử dụng phân tích dữ liệu nâng
cao trên các khách hàng hiện tại và tiềm năng để thiết kế sản phẩm phù hợp.
Thiết kế sản phẩm phù hợp cũng phải chiếm xu hướng hành vi ảnh hưởng đến tất cả người tiêu
dùng dịch vụ tài chính. Hay xu hướng về sự thiên vị hiện tại thường ảnh hưởng đến việc ra quyết định
tài chính, khiến người tiêu dùng ưu tiên tiêu dùng hiện tại hơn tiết kiệm cho tương lai. Hiểu và thích
nghi với xu hướng hành vi có thể được kết hợp vào thiết kế sản phẩm cho mục đích tài chính toàn
diện. Ví dụ về thiết kế kết sản phẩm hợp những hiểu biết sâu sắc về xu hướng hành vi bao gồm các tài
khoản cam kết cho các sản phẩm tiết kiệm và tài khoản với lời nhắc tiết kiệm tự động.
Tính thuận tiện là một thành phần quan trọng khác của sự phù hợp của sản phẩm và dịch
vụ. Đối với người tiêu dùng, sự thuận tiện có thể đề cập về vật lý cũng như tính kịp thời và hiệu
quả quản lý của dịch vụ tài chính. Các yêu cầu liên quan đến tài liệu cho vay, số ngày phê duyệt
đơn đăng ký, và những khó khăn về ngôn ngữ và khả năng đọc viết đều có thể tạo ra rào cản thực
sự cho người tiêu dùng đang tìm cách có được và sử dụng các sản phẩm và dịch vụ tài chính.
Khả năng chi trả cũng là một thành phần quan trọng của chất lượng sản phẩm và dịch vụ tài
chính cho mục tiêu của tài chính toàn diện. Tầm quan trọng của chi phí dịch vụ đối với người tiêu
dùng có thu nhập thấp là rõ ràng. Tuy nhiên, quan điểm thực tế hơn để xem xét có thể là việc gia
tăng giá trị và mở rộng diện cung ứng, điều cần thiết để việc cung cấp các sản phẩm và dịch vụ
tài chính được bền vững trong dài hạn. Phạm vi bao quát và sự đa dạng của các sản phẩm là một
thành phần quan trọng khác của sự tài chính toàn diện. Nghiên cứu cho thấy nhu cầu của các hộ
gia đình có thu nhập thấp rất đa dạng và phức tạp. Họ cần tiếp cận các sản phẩm và dịch vụ tài
chính cơ bản giống như tất cả các sản phẩm khác, không chỉ là một sản phẩm duy nhất như tín
dụng hoặc dịch vụ thanh toán, để quản lý hiệu quả rủi ro, lưu trữ tiền an toàn, thực hiện giao dịch
hàng ngày và đáp ứng nhu cầu tín dụng. Khái niệm tài chính toàn diện không có nghĩa là người
tiêu dùng yêu cầu sản phẩm ở tất cả các loại này mọi lúc, mà là họ cần tiếp cận vào các sản phẩm
và dịch vụ tài chính khác nhau mà họ có thể chọn và sử dụng khi cần thiết.
Vì các cá nhân có thu nhập thấp đặc biệt dễ bị tổn thương trước các cú sốc tài chính, có thể
gây hậu quả nghiêm trọng về lâu dài, các sản phẩm bảo hiểm cũng cần thiết (chẳng hạn như bảo
hiểm nhân thọ, bảo hiểm y tế, bảo hiểm tang lễ, bảo hiểm tài sản, bảo hiểm nông nghiệp …). Tiết
kiệm an toàn đáp ứng nhu cầu cho người có thu nhập thấp, biến động theo mùa và khó dự báo và
427
- thường không có khả năng tiếp cận theo kênh chính thức. Các sản phẩm tiết kiệm, các cá nhân có
thu nhập thấp thường sử dụng các phương thức tiết kiệm không chính thức bằng tiền mặt, bằng
các tài sản như chăn nuôi hoặc thông qua mạng xã hội, dễ bị mất cắp hoặc mất giá trị. Tín dụng
có thể bao gồm các khoản vay doanh nghiệp nhỏ, cho vay tiêu dùng, cho vay giáo dục, thế chấp,
cho vay cải thiện nhà… Vai trò của giao dịch tài chính số đã được mở rộng nhanh chóng và có
tiềm năng đáng kể để tăng sự đa dạng sản phẩm cho mục đích đạt được sự tài chính toàn diện.
Giao dịch số bao gồm các sản phẩm và dịch vụ mới, sáng tạo được tạo ra bởi các kênh giao dịch
số (như chuyển tiền di động và cho vay trực tuyến); mô hình kinh doanh cho phép giao dịch số
tận dụng công nghệ. Giao dịch số được sử dụng cho các dịch vụ tài chính đã làm tăng đáng kể
phạm vi tiềm năng của các sản phẩm và dịch vụ dành cho người được bảo trợ bằng cách cho phép
các nhà cung cấp phát triển các sản phẩm mới sáng tạo với chi phí thấp hơn tới nhiều người tiêu
dùng thông qua các kênh dễ tiếp cận hơn.
Môi trường pháp lý có thể hỗ trợ hoặc cản trở những nỗ lực tài chính toàn diện. Các nhà quản
lý và hoạch định chính sách tài chính có thể đóng một vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy đổi mới
trong thiết kế và phân phối sản phẩm, và quy định có thể giải quyết các vấn đề cụ thể. Ví dụ, các quy
tắc siêng năng dựa trên rủi ro, khách hàng và khách hàng linh hoạt dựa trên rủi ro có thể giúp vượt
qua trở ngại phục vụ người tiêu dùng có thu nhập thấp mà không có giấy tờ tùy thân.
2.3. Khả năng thương mại và tính bền vững
Khả năng tiếp cận và sản phẩm đa dạng và phù hợp là yếu tố quan trọng của tài chính toàn
diện từ quan điểm người tiêu dùng, nhưng một thách thức quan trọng là phát triển và duy trì một
hệ sinh thái tài chính, trong đó các nhà cung cấp có thể cung cấp các sản phẩm và dịch vụ này
một cách hiệu quả và bền vững lâu dài. Một thị trường đa dạng, cạnh tranh và đổi mới là rất quan
trọng để đạt được mức độ tài chính toàn diện bền vững. Mặc dù người tiêu dùng cần một loạt các
sản phẩm và dịch vụ tài chính cơ bản, nhưng ở hầu hết các thị trường, các ngân hàng thương mại
không thể cung cấp đầy đủ này cho tất cả các phân khúc. Các loại nhà cung cấp khác nhau, hoạt
động trên một sân chơi công bằng và bình đẳng và sử dụng các mô hình kinh doanh khác nhau để
nhắm mục tiêu thị trường và phân khúc người tiêu dùng, có thể cùng nhau tạo ra sự đổi mới trong
mô hình thiết kế và phân phối sản phẩm và khuyến khích sự phát triển lâu dài của hệ sinh thái tài
chính đa dạng và bền vững. Ngân hàng thương mại, ngân hàng nông thôn, hợp tác xã tín dụng, tổ
chức tài chính vi mô, ngân hàng bưu chính, thanh toán nhà cung cấp dịch vụ, nhà khai thác mạng
di động (MNOs) vàcác công ty Fintech đều có thể đóng góp cho sự tài chính toàn diện. Gần đây
với việc cấp phép cho các ngân hàng trực tuyến, các nền tảng giao dịch trực tuyến, cũng như sự
gia nhập của các công ty Fintech mới.
Thực tiễn kinh doanh cũng có thể được điều chỉnh để giảm chi phí hoạt động và vượt qua
những trở ngại vốn có để phục vụ một cách có lợi và bền vững cho những người không được
giám sát và bảo lãnh. Một trở ngại phổ biến là thông tin bất đối xứng. Các nhà cung cấp thường
thiếu quyền tiếp cận thông tin lịch sử tín dụng của những người vay tiềm năng trong số những
người không được giám sát. Để đạt được sự tài chính toàn diện dài hạn đòi hỏi các sản phẩm và
dịch vụ phải được giao một cách có trách nhiệm cho người tiêu dùng và các mục tiêu chính sách
của sự tài chính toàn diện phù hợp với sự ổn định tài chính và tính toàn vẹn của thị trường. Nhìn
chung, sự cân bằng này đòi hỏi các cơ quan quản lý tài chính phải liên tục đánh giá rủi ro và đánh
đổi giữa các mục tiêu chính sách khác nhau này.
Các yếu tố cốt lõi của bảo vệ người tiêu dùng tài chính, như công bố rõ ràng và minh bạch
các điều khoản và điều kiện của sản phẩm và dịch vụ, đối xử công bằng với người tiêu dùng và
cơ chế truy đòi có thể tiếp cận là cần thiết để đảm bảo rằng người tiêu dùng có được sản phẩm và
dịch vụ đáp ứng tốt nhất nhu cầu của họ và không bị tổn hại trong tương tác của họ với các nhà
cung cấp dịch vụ tài chính. Bảo vệ người tiêu dùng tài chính đóng một vai trò quan trọng trong
việc xây dựng niềm tin trong hệ thống tài chính, đặc biệt đối với những người tiêu dùng mới làm
quen với lĩnh vực tài chính chính thức. Môi trường pháp lý cần đảm bảo có một khuôn khổ đầy
428
- đủ để bảo vệ người tiêu dùng tài chính đặt ra các quy tắc rõ ràng liên quan đến hành vi của các
nhà cung cấp dịch vụ tài chính. Cải thiện khả năng tài chính có thể dẫn đến tăng sự hấp thụ và sử
dụng các sản phẩm và dịch vụ tài chính để đáp ứng hiệu quả nhu cầu của người tiêu dùng. Cả nhà
cung cấp và cơ quan quản lý ngành tài chính nên xem xét và theo đuổi các phương pháp để cải
thiện mức độ năng lực tài chính của người không được giám sát.
Hiện thực hóa tài chính toàn diện dài hạn cũng phụ thuộc vào sự an toàn và lành mạnh
chung của hệ thống tài chính. Đặc biệt trong lĩnh vực Fintech, việc cân bằng rủi ro và đổi mới là
cần thiết để cho phép tăng trưởng liên tục trong các sản phẩm mới, cơ chế giao dịch mới và các
mô hình kinh doanh và mở rộng quan hệ đối tác mới tiềm năng để đạt được sự tài chính toàn diện
đầy đủ.
3. Động lực và tác động của tài chính toàn diện
Tài chính toàn diện có khả năng mang lại lợi ích cho người nghèo thông qua một loạt các
kênh cả trực tiếp hoặc gián tiếp. Ở các nước đang phát triển người dân, đặc biệt là người nghèo
đa số phải phụ thuộc vào các cơ chế không chính thức cho các khoản vay, tiết kiệm và để phòng
ngừa các rủi ro như dòng tiền không đều, thu nhập theo mùa vụ và các nhu cầu chi tiêu không có
kế hoạch như khám chữa bệnh. Do hạn chế về khả năng tiếp cận, người nghèo buộc phải dựa vào
các khoản tín dụng với lãi suất cao, hoặc phải thay thế vật nuôi hoặc vàng bạc như một hình thức
tiết kiệm, hoặc trong trường hợp khẩn cấp họ thường phải cầm cố tài sản. Chuyển đổi dòng thu
nhập bất thường thành một nguồn đáng tin cậy để đáp ứng nhu cầu hàng ngày là một thách thức
quan trọng đối với người nghèo. Sự thiếu hụt về tiếp cận tài chính có thể cản trở tăng trưởng kinh
tế và gia tăng bất bình đẳng, trong đó phụ nữ là những người thiệt thòi nhất. Tiếp cận và sử dụng
các dịch vụ tài chính còn đóng một vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy tăng trưởng thu nhập
cho dù không thay đổi một cách trực tiếp việc sử dụng các dịch vụ tài chính của người nghèo. Cải
thiện tiếp cận tài chính thúc đẩy nhu cầu lao động do việc mở rộng các hoạt động kinh tế, trong
đó có một phần lớn lao động trình độ, tay nghề thấp thông qua đó làm cho phân phối thu nhập
được tăng cường, mở rộng và cân bằng các cơ hội kinh tế. Lý thuyết kinh tế đã đưa ra các dự báo
khác nhau về bản chất và mối quan hệ giữa phát triển tài chính và bất bình đẳng. Tựu trung lại
việc mở rộng khả năng tiếp cận các dịch vụ tài chính thông qua việc loại bỏ các rào cản về giá cả
hoặc phi giá cả, cung cấp một cách có trách nhiệm đã được chứng minh là có lợi cho người nghèo
và các nhóm thiệt thòi khác. Với việc được mở rộng khả năng tiếp cận nguồn vốn sẵn có sẽ
cho phép người nghèo hiện thực hóa các cơ hội kinh doanh nhỏ đồng thời tạo ra các hiệu ứng
phúc lợi.
Theo cơ sở dữ liệu toàn cầu Findex (Global Findex database) đến năm 2017, tỷ lệ người
trưởng thành có tài khoản với một tổ chức tài chính hoặc thông qua dịch vụ thanh toán di động đã
đạt 69%, trong đó ở các nước đang phát triển đạt 63% (bao gồm các khoản thanh toán được thực
hiện trực tiếp bằng thẻ ghi nợ hoặc thẻ tín dụng hoặc sử dụng điện thoại hoặc qua internet), cho
thấy việc chuyển thanh toán từ bằng tiền mặt sang bằng tài khoản có nhiều lợi ích tiềm năng, cho
cả người gửi và người nhận, nhất là các khoản thanh toán có khoảng cách địa lý lớn hoặc giá trị
cao hơn. Sử dụng tài khoản và giao dịch số có thể cải thiện hiệu quả và sự thuận tiện của thanh
toán bằng cách giảm đáng kể chi phí và thời gian giao dịch. Đồng thời giao dịch số cũng tiết kiệm
chi phí cho Chính phủ và doanh nghiệp. Điển hình như ở Kenya, hai phần ba số người trưởng
thành sử dụng dịch vụ chuyển tiền qua điện thoại di động M-Pesa một cách nhanh chóng và thuận
tiện nhất; hay ở Nigeria các khoản chi trả phúc lợi xã hội của Chính phủ thông qua thiết bị di
động đã cắt giảm được chi phí hành chính đáng kể so với phân phát tiền mặt; hay ở Nam Phi chi
phí cho việc giải ngân các khoảng trợ cấp xã hội bằng thẻ thông minh chỉ bằng một phần ba so
với cách giải ngân tiền mặt thủ công (Demirguc-Kunt và các cộng sự 2017). Bên cạnh đó, việc
chuyển thanh toán bằng tiền mặt qua tài khoản cũng có thể tăng tính an toàn, minh bạch và đảm
bảo rằng mọi người nhận được tiền lương hoặc thanh toán chuyển khoản của Chính phủ đầy đủ;
hạn chế việc những người trung gian tìm kiếm các khoản hối lộ.
429
- Năm 2017, 48% người trưởng thành trên toàn thế giới đã tiết kiệm hoặc để dành tiền trong
12 tháng qua; ở các nước phát triển có 71% người trưởng thành cho biết đã tiết kiệm, trong khi ở
các nước đang phát triển tỷ lệ này là 43% (Global Findex database). Ở các nền kinh tế đang phát
triển, thay vì gửi tiết kiệm tại một tổ chức tài chính người dân thường tiết kiệm theo hình thức
bán chính thức thông qua các hội tiết kiệm không chính thức; một hình thức phổ biến là một hiệp
hội tín dụng và tiết kiệm luân phiên (ROSCA). Gửi tiền tiết kiệm tại ngân hàng hoặc một loại
hình tổ chức tài chính chính thức sẽ an toàn hơn, có thể hạn chế nhu cầu chi tiêu bị thúc đẩy và do
đó khuyến khích quản lý tiền mặt tốt hơn. Cụ thể hơn, ở Trung Quốc và Malaysia 43% chủ tài
khoản đã có tiết kiệm chính thức trong năm qua, trong khi ở Kenya, Nam Phi và Thổ Nhĩ Kỳ
khoảng 30%, và khoảng 20% ở Brazil, Ấn Độ và Liên bang Nga; ở Kenya và Nam Phi, khoảng
20% chủ sở hữu tài khoản cho biết họ đã tiết kiệm bán chính thức, bằng cách sử dụng các Hội tiết
kiệm hoặc bên ngoài gia đình (Global Findex database).
Trên toàn cầu năm 2017, 47% người trưởng thành đã có vay tiền trong 12 tháng qua, bao
gồm cả việc sử dụng thẻ tín dụng; trong đó tỷ lệ người trưởng thành có tín dụng mới, chính thức
hoặc không chính thức, bình quân ở các nước có thu nhập cao là 64% và 44% ở các nước đang
phát triển (Global Findex database). Việc vay từ các tổ chức tài chính có nhiều lợi ích hơn so với
việc vay từ bạn bè, gia đình hoặc người cho vay không chính thức; khi vay từ gia đình và bạn bè
trong cộng đồng sẽ bị giới hạn trong các quỹ trong cộng đồng, trong khi vay từ các tổ chức tài
chính chính thức loại bỏ được ràng buộc đó. Điều này có thể đặc biệt quan trọng đối với các hộ
gia đình có thu nhập thấp không thể có đủ vốn để đầu tư vào các cơ hội kinh doanh hoặc giáo
dục. Hơn nữa, bằng cách vay từ một tổ chức tài chính chính thức, họ có thể tiếp cận được các
điều khoản tín dụng tốt hơn so với từ các nhà cho vay không chính thức.
Nhiều người sử dụng tiền tiết kiệm và tín dụng để quản lý rủi ro tài chính và có thể chia sẻ
rủi ro một cách không chính thức trong gia đình hoặc cộng đồng của họ, bảo hiểm chính thức mang
lại lợi ích bổ sung. Các sản phẩm bảo hiểm chính thức có thể gây rủi ro cho dân số lớn hơn nhiều,
điều này giúp các hộ gia đình có phạm vi bảo hiểm rộng hơn mức họ có nếu họ dựa vào tiền tiết
kiệm, tín dụng hoặc cộng đồng của chính họ. Điều này đặc biệt đúng đối với người lớn trong các hộ
gia đình có thu nhập thấp với tài sản hạn chế. Hơn nữa, các sản phẩm bảo hiểm chính thức có thể
cung cấp sự bảo vệ khỏi các rủi ro phổ biến mà các cá nhân trong cùng cộng đồng phải đối mặt,
như thời tiết khắc nghiệt. Bởi vì những rủi ro như vậy ảnh hưởng đến các cá nhân trong một cộng
đồng cùng một lúc, các cơ chế cộng đồng không chính thức thường không đủ. Do dự đoán các cú
sốc thu nhập đáng kể và không có bảo hiểm, do đó, các cá nhân có thể áp dụng các công nghệ có
rủi ro thấp, lợi nhuận thấp so với các công nghệ có rủi ro cao, lợi nhuận cao.
Trên toàn cầu năm 2017, 47% người trưởng thành báo cáo đã vay tiền trong 12 tháng qua,
bao gồm cả việc sử dụng thẻ tín dụng. Tỷ lệ người trưởng thành có tín dụng mới, chính thức hoặc
không chính thức, trung bình 64% trên các nền kinh tế có thu nhập cao và 44% trên các nền kinh
tế đang phát triển (Global Findex database). Một mục đích chung là mua đất hoặc nhà - khoản
đầu tư tài chính lớn nhất mà nhiều người thực hiện trong đời. Bên cạnh đó, thẻ tín dụng cho phép
mở rộng tín dụng ngắn hạn bất cứ khi nào, ngay cả khi thẻ tín dụng thanh toán hết số dư mà
không phải trả lãi cho số dư đó.
Đã có những nghiên cứu về tài chính vi mô như là một thành tố của tài chính toàn diện, đặc
biệt là ở các nước đang phát triển. Các nghiên cứu chỉ ra rằng phát triển tài chính là động lực
quan trọng của tăng trưởng kinh tế - chủ yếu bằng cách thúc đẩy tăng trưởng năng suất, đổi mới
và phân bổ tài nguyên. Các bằng chứng dựa trên dữ liệu vĩ mô cũng chỉ ra rằng phát triển tài
chính không cân xứng làm tăng thu nhập của nhóm nghèo nhất và giảm bất bình đẳng thu nhập
(Beck và các cộng sự 2007). Các nghiên cứu ban đầu tập trung vào kinh nghiệm của Ngân hàng
Grameen với các khoản cho vay qui mô nhỏ - đặc trưng cho tài chính vi mô như là một công cụ
phát triển có thể giảm nghèo, đặc biệt là cho phụ nữ (Pitt và Khandker 1998). Chủ đề cơ bản là
việc tiếp cận tài chính có thể giúp giảm nghèo và bất bình đẳng bằng cách hỗ trợ người dân đầu
430
- tư trong tương lai, điều hòa tiêu dùng và quản lý rủi ro tài chính cũng như ở phạm vi rộng hơn
mang lại lợi ích cho xã hội (như Aportela 1999; Banerjee 2004; Burgess và Pande 2005; Levine
2005; Clarke và các cộng sự 2006; Beck và các cộng sự 2007a, 2007b, Demirguc-Kunt và các
cộng sự 2008, Ngân hàng Thế giới 2008, Collins và các cộng sự 2009, Demirguc-Kunt và Levine
2009, Karlan và Morduch 2010, Ashraf và các cộng sự 2006 & 2010, Banerjee và Duflo 2011;
Prina 2012, Cull và các cộng sự 2013, Demirguc-Kunt và các cộng sự 2013, Dupas và Robinson
2013a, 2013b, Ruiz 2013, Bruhn và Love 2014, Ngân hàng Thế giới 2014a, 2014b, Cull và các
cộng sự 2014; Beck 2015; Park và Mercado 2015; Sahay và các cộng sự 2015; Hastak và
Gaikwad (2015); Klapper và các cộng sự năm 2016; Allen và các cộng sự năm 2016; Demirguc-
Kunt và các cộng sự 2017). Các lập luận cho rằng cung cấp các dịch vụ tài chính có thể tạo ra
ngoại tác (ngoại ứng) tích cực đáng kể khi có nhiều người và nhiều doanh nghiệp tham gia. Sự
sẵn có của các dịch vụ tài chính đáp ứng nhu cầu cụ thể của người dùng mà không phân biệt đối
xử là mục tiêu chính của việc tài chính toàn diện. Ngoài ra, việc sử dụng rộng rãi hơn các dịch vụ
tài chính được thúc đẩy bởi sự đổi mới thông qua đó giải quyết thất bại thị trường, đáp ứng nhu
cầu của người tiêu dùng và khắc phục các vấn đề hành vi (Ngân hàng Thế giới 2014a, 2014b).
Ngân hàng Thế giới (2014a, 2014b) đã tổng quan về mối quan hệ giữa tài chính toàn diện
và phát triển kinh tế trên phạm vi toàn cầu. Các nghiên cứu - cả về mặt lý thuyết và thực nghiệm -
cho thấy rằng sự tài chính toàn diện rất quan trọng đối với sự phát triển và giảm nghèo. Một loạt
các mô hình lý thuyết cho thấy việc thiếu tiếp cận tài chính có thể dẫn đến bẫy nghèo và bất bình
đẳng như thế nào. Đối với người nghèo, các bằng chứng cho thấy có một mối liên quan chặt chẽ
giữa việc tiếp cận các khoản tiết kiệm và thanh toán tự động trong khi đó việc tiếp cận tín dụng
thì yếu hơn. Đối với các doanh nghiệp, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ và các
doanh nghiệp mới, việc cải thiện tiếp cận tín dụng có thể có những lợi ích tăng trưởng đáng kể.
Đặc biệt, trong bối cảnh các nước đang phát triển, bằng chứng thuyết phục nhất khi nói đến việc
sử dụng tài khoản ngân hàng. Chẳng hạn như, việc sở hữu tài khoản ngân hàng với gia tăng tiết
kiệm (Aportela 1999; Ashraf và các cộng sự 2006), với quyền của phụ nữ (Ashraf và các cộng sự
2010; Dupas và Robinson 2013; Demirguc-Kunt và các cộng sự 2013), và với tiêu dùng và đầu tư
sản xuất của các doanh nhân (Beck và các cộng sự 2007a, 2007b; Ayyagari và các cộng sự 2012;
Dupas và Robinson 2013; Bruhn và Love 2014). Tuy nhiên, lý thuyết kinh tế vẫn còn có những
dự đoán mơ hồ về mối quan hệ giữa bất bình đẳng về tài chính, và bằng chứng thực nghiệm về
mối quan hệ này cũng rất đa dạng (như Clarke và các cộng sự 2006; Beck và các cộng sự 2007a,
2007b; Demirguc-Kunt và Levine 2009; Kochar 2011; Demirguc-Kunt và các cộng sự 2013;
Bruhn và Love 2014; Park and Mercado 2015).
Vào những thập niên 1990 và 2000, đa số các nghiên cứu tập trung vào tác động của tài
chính vi mô đến hộ gia đình và phát triển kinh tế. Gần đây, các nhà nghiên cứu đã sử dụng các
phương pháp nghiên cứu đa dạng hơn để xem xét mối quan hệ giữa tài chính toàn diện và phát
triển kinh tế, chẳng hạn như tiếp cận vi mô sử dụng các mô hình kinh tế lượng với các dữ liệu
khảo sát hộ và doanh nghiệp, dữ liệu chéo giữa các quốc gia, hay mô hình cân bằng tổng thể khả
tính (CGE); ví dụ như trong các nghiên cứu của Karlan và Morduch (2010); Cull và các cộng sự
(2013, 2014); Beck (2015). Demirguc-Kunt và các cộng sự (2017) đã giới thiệu khái lược một
loạt các phân tích thực nghiệm về tài chính toàn diện trên cơ sở làm nổi bật vai trò của tín dụng vi
mô là biểu hiện của sự phát triển của sự tài chính toàn diện.
Theo Levine (2005), cơ sở hạ tầng của hệ thống tài chính toàn diện góp phần khắc phục vấn
đề thông bất đối xứng, giảm chi phí giao dịch ký kết hợp đồng; đồng thời cải thiện hiệu quả cung
cấp dịch vụ tài chính tác động tích cực lên các ngành kinh tế, góp phần giảm nghèo và thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế. Cụ thể hơn Burgess và Pande (2005) cho thấy rằng chính sách phát triển hệ
thống chi nhánh ngân hàng của Ấn Độ đã dẫn đến giảm nghèo nhanh hơn ở các bang trong giai
đoạn đầu triển khai. Hơn nữa, tiền lương của công nhân nông nghiệp tăng nhanh hơn trong giai
đoạn này, trong khi tiền lương của công nhân nhà máy ở đô thị thì không tăng theo như vậy.
431
- Trong nghiên cứu của Demirguc-Kunt và các cộng sự (2008) chỉ ra rằng phát triển tài chính toàn
diện sẽ có hai tác động đến quá trình phát triển kinh tế: (i) phát triển tài chính là động lực thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế, tăng khả năng tiết kiệm, giúp khởi nghiệp đầu tư, sản xuất, từ đó giảm
đói nghèo và bất bình đẳng; (ii) cung cấp các dịch vụ tài chính phù hợp, giá cả phải chăng cho
người nghèo, cải thiện phúc lợi. Bên cạnh đó Johnston và Murdoch (2008) cũng cho rằng tài
chính toàn diện có vai trò quan trọng bởi vì thông qua đó những đối tượng từng nằm ngoài khu
vực kinh tế chính thức có thể tiếp cận sản phẩm, dịch vụ tài chính, cải thiện cuộc sống, đóng góp
vào tăng trưởng kinh tế và xóa đói giảm nghèo. Tài chính toàn diện cũng mang lại nhiều lợi ích
trực tiếp cho các hộ nghèo đang sử dụng các khoản vay hoặc tiết kiệm để gia tăng tiêu dùng,
chăm sóc sức khỏe hoặc đầu tư mua sắm hàng hóa lâu bền, cải thiện nhà ở hoặc trang trải học phí
(Collins và các cộng sự 2009). Ngay cả khi dòng tài chính tăng trưởng thấp hoặc không có, việc
tiếp cận các dịch vụ tài chính cơ bản có thể quan trọng như là việc tích tụ tài sản; bởi vì khi thu
nhập thấp, các chiến lược tài chính cần tập trung phần lớn vào việc ứng phó với bấp bênh của thu
nhập để đáp ứng nhu cầu lương thực thực phẩm và các nhu cầu cơ bản khác; nếu các khía cạnh
này không được tập trung giải quyết, tình trạng thiếu thốn sẽ có thể xuất hiện, và các hộ gia đình
có thể nhanh chóng rơi vào cảnh nghèo khó.
Các sản phẩm tài chính khác cũng có thể giúp người nghèo quản lý rủi ro. Đối với các hộ
gia đình khá giả, các công cụ tài chính trong danh mục đầu tư của hộ gia đình thường được quản
lý dựa trên rủi ro và lợi nhuận; trong khi đó danh mục đầu tư của các hộ nghèo được quản lý để
đảm bảo có thể kiếm được số tiền mong muốn tại thời điểm mong muốn. Đối với hộ nghèo, sự
khan hiếm và bấp bênh của nguồn tiền kiến cho việc xử lý dòng tiền mặt thường được xem là cấp
bách hơn so với việc tính toán kết hợp tốt nhất giữa lợi nhuận và rủi ro. Việc tăng cường dòng tiền
do sự không phù hợp giữa thu nhập và chi tiêu được thực hiện thông qua tiết kiệm và tiêu dùng,
nhưng bởi vì các phương tiện phù hợp rất khó tìm, các hộ nghèo thường chuyển sang vay và cho
vay với qui mô nhỏ thông qua bạn bè, người thân, hàng xóm và chủ doanh nghiệp. Đó là một công
việc khó khăn và có chi phí cao - trong đó có cả chi phí mang tính tâm lý xã hội chứ không chỉ là
kinh tế. Như vậy, đối với các hộ nghèo, việc có các công cụ tài chính thay thế đáng tin cậy, thuận
tiện, giá cả hợp lý sẽ tạo ra sự khác biệt lớn; đáng chú ý là việc giúp họ quản lý dòng tiền với ít rủi
ro hơn (Collins và các cộng sự 2009). Trong nghiên cứu của Prina (2012) ở Nepal chỉ rõ việc mở
rộng tiếp cận tài khoản tiết kiệm làm tăng tài sản tiền tệ và tổng tài sản mà không gây ra bất kỳ sự
lấn át đối với các loại tài sản hoặc tổ chức tiết kiệm khác; Tác động lớn hơn đối với các hộ gia đình
ở nhóm dưới và nhóm giữa theo phân phối tài sản cũng như đối với các các hộ gia đình chưa tiếp
cận được với dịch vụ tài chính (cả chính thức và không chính thức);Tiếp cận tài chính làm tăng
mạnh đầu tư của hộ gia đình vào y tế và giáo dục. Một phân tích của Agarwal và các cộng sự
(2018a) về chương trình hòa nhập tài chính lớn nhất ở Ấn Độ (JDY) - với 255 triệu lượt mở tài
khoản ngân hàng mới, cho thấy có sự gia tăng cho vay ở các khu vực tiếp xúc nhiều hơn với
chương trình. Thông qua đó các ngân hàng phục vụ cho nhu cầu mới về tín dụng chính thức của các
hộ gia đình không có tiền gửi trước đây, thay thế cho vay không chính thức bằng tín dụng ngân
hàng ít tốn kém hơn. Điều này, cùng với sự gia tăng của tiết kiệm hộ gia đình, giúp các hộ gia đình
điều hòa tiêu dùng trơn tru hơn. Một bức tranh tương tự của Agarwal và các cộng sự (2018b) từ
phân tích chương trình Umurenge ở Rwanda nhằm mục đích mở rộng tài chính toàn diện thông qua
việc tạo ra một mạng lưới rộng lớn các hợp tác xã tín dụng tập trung vào cộng đồng. Chương trình
này đã nâng cao khả năng tiếp cận các khoản vay ngân hàng cho các cá nhân chưa được ký quỹ
trước đây, một số người sau đó đã chuyển sang vay từ các ngân hàng thương mại. Cụ thể, các ngân
hàng thương mại như là “kem bôi trơn”, bằng cách mở rộng tín dụng cho những người vay rủi ro
thấp từ các hợp tác xã tín dụng với các điều khoản hấp dẫn.
Bên cạnh đó, nghiên cứu của Beck và các cộng sự 2013 chỉ rõ vai trò của các loại tổ chức
tài chính khác nhau đối với tiếp cận dịch vụ tài chính của các doanh nghiệp; theo đó có các tác
động không đồng nhất giữa các quốc gia và quy mô doanh nghiệp, các hệ thống tài chính với sự
432
- thống trị của các ngân hàng có quan hệ với việc sử dụng dịch vụ tài chính với mức độ thấp hơn,
trong khi các tổ chức tài chính cấp thấp (như hợp tác xã, liên hiệp tín dụng và tổ chức tài chính vi
mô - MFI) và các tổ chức, cá nhân chuyên cho vay (như các công ty bao thanh toán và cho thuê)
phù hợp cho việc tiếp cận tài chính dễ dàng hơn ở các nước thu nhập thấp. Các nghiên cứu trước
đây lại cho thấy rằng các tổ chức tài chính nhỏ hơn có thể phục vụ tốt hơn những nhu cầu tín
dụng của người vay nhỏ, kín đáo (chẳng hạn như của Berger và Udell 1995; Keeton 1995). Trong
khi đó các nghiên cứu gần đây hơn của Berger, Klapper và Udell (2001) chỉ ra rằng các ngân
hàng lớn có thể được trang bị tốt để cung cấp dịch vụ tài chính như những ngân hàng nhỏ trong
việc phục vụ khách hàng nhỏ vì họ sử dụng một công nghệ cho vay khác. De la Torre, Gozzi, và
Schmukler (2007) cũng phát hiện rằng trái với niềm tin về việc các ngân hàng lớn ít có khả năng
vươn tới các doanh nghiệp vừa và nhỏ - hầu hết các ngân hàng coi những doanh nghiệp qui mô
như vậy có khả năng sinh lời vì một số lý do. Một lý do khả dĩ là việc tăng cường sử dụng các
công nghệ giao dịch khác nhau mà tạo ra các lợi ích từ lợi thế theo quy mô kinh tế của các tổ
chức lớn hơn (ví dụ như việc sử dụng mô hình đánh giá tín dụng đòi hỏi một nhóm lớn khách
hàng, do đó ngân hàng quy mô lớn hơn sẽ có lợi thế hơn).Cho vay quan hệ là một trong nhiều
cách theo đó các ngân hàng mở rộng tài chính cho các khách hàng kín đáo hơn (Berger và Udell
2006). Hai ví dụ về các ngân hàng lớn đã áp dụng các công nghệ cho vay và mô hình kinh doanh
sáng tạo là Banco Azteca ở Mexico và BancoSol ở Bolivia. BancoSol được cho là ngân hàng
thương mại đầu tiên chuyên về tài chính vi mô. Công nghệ cho vay của nó dựa vào một chiến
lược cho vay nhóm đoàn kết, theo đó các thành viên được tổ chức thành nhiều nhóm tín dụng
trách nhiệm chung nhỏ, và ngân hàng cho vay đồng thời cho tất cả các thành viên trong nhóm
(Gonzalez-Vega và cộng sự, 1997). Trong khi đó Banco Azteca hướng đến các khách hàng làm
việc trong khu vực phi chính thức bằng cách sử dụng hàng hóa lâu bền của họ làm tài sản thế
chấp cho các khoản vay. Ruiz (2013) cho thấy rằng khi ngân hàng mở chi nhánh tại các đô thị,
các hộ gia đình có thành viên làm việc trong khu vực không chính thức có nhiều khả năng vay từ
ngân hàng, ít dựa vào các nhà cung cấp tín dụng chi phí cao, và do đó có khả năng tiêu dùng tốt
hơn và tích lũy nhiều hàng hóa có giá trị lâu bền hơn.
Thêm nữa, ngoài cơ cấu tài chính, các bằng chứng còn cho thấy cạnh tranh trong lĩnh vực
tài chính là một yếu tố quan trọng trong việc tăng cường tài chính toàn diện. Xem xét dữ liệu cấp
công ty ở 53 quốc gia từ 2002 đến 2010, Love và Martínez Pería (2012) phát hiện rằng cạnh tranh
giữa các ngân hàng làm tăng đáng kể khả năng tiếp cận tài chính của các công ty. Phân tích ở
phạm vi mô, Lewis và các cộng sự (2013) xem xét sự cạnh tranh giữa các ngân hàng ở Mexico.
Kết quả của họ cho thấy các ngân hàng lớn có nhiều khả năng tham gia vào các hoạt động ít cạnh
tranh như kỳ vọng, cạnh tranh dẫn đến ít thông đồng hơn. Quan trọng là sự thiếu cạnh tranh ảnh
hưởng không cân xứng đến việc tiếp cận tài chính của các công ty có qui mô nhỏ hơn. Đa số các
nghiên cứu gần đây đều cho rằng thị trường tài chính càng đa dạng thì càng làm tăng khả năng
tiếp cận tài chính.
Nhưng tài chính toàn diện không chỉ liên quan đến sự loại trừ về tín dụng. Có thể nói còn
quan trọng không kém chính là việc tiếp cận và sử dụng các dịch vụ tài chính khác như thanh
toán và tiết kiệm. Các hệ thống và dịch vụ thanh toán bán lẻ hiệu quả, dễ tiếp cận và an toàn là rất
quan trọng để mở rộng tài chính toàn diện. Thanh toán số có thể giảm chi phí và tăng hiệu quả
của các chương trình xã hội do Chính phủ tài trợ, hạn chế phạm vi tham nhũng và cải thiện tính
mục tiêu (cụ thể như bằng chứng từ Ấn Độ trong nghiên cứu của Muralidharan và Sukhtankar
2016). Đối với tất cả các dịch vụ tài chính, việc tiếp nhận và sử dụng các dịch vụ mới thường bị
hạn chế bởi thông tin và chi phí hành chính, nghiên cứu gần đây về Ấn Độ của Dalton và các
cộng sự (2018) đã chỉ ra rằng việc loại bỏ các rào cản về thông tin và đăng ký đã làm gia tăng
đáng kể việc áp dụng công nghệ thanh toán điện tử mới của các doanh nghiệp địa phương.
Tuy nhiên bên cạnh những điểm sáng, tài chính toàn diện bộc lộ một số điểm tối; đó là phải
chăng tài chính luôn tốt cho tăng trưởng, một số nghiên cứu của Arcand và các cộng sự 2015,
433
- Gourinchas và Obstfeld 2012, Mian và Sufi 2014, Schularick và Taylor 2012 cho rằng tài
chính “quá nhiều” hay “quá nhanh” có thể gieo mầm cho các cuộc khủng hoảng tài chính
trong tương lai. Sự dễ tổn thương này không phải là một đặc điểm duy nhất của thị trường tài
chính ở các nền kinh tế tiên tiến. Trong cuộc khủng hoảng tín dụng vi mô ở Ấn Độ năm 2010,
chính quyền bang Andhra Pradesh lo lắng về việc vay mượn quá mức và bị cáo buộc lợi dụng
bởi các đại lý tài chính vi mô, đã ban hành một sắc lệnh khẩn cấp, khiến các hoạt động tài
chính vi mô ở bang này bị đình trệ hoàn toàn. Sự co thắt lớn trong nguồn cung cấp tín dụng vi
mô này đã chuyển thành những tác động tiêu cực lớn đối với tiêu dùng và thị trường lao động
(Breza và Kinnan 2018).
Ở Việt Nam, đã có một số nghiên cứu về tác động của tín dụng vi mô và tài chính vi mô đối
với phúc lợi hộ gia đình và xoá đói giảm nghèo nhưng các bằng chứng từ các nghiên cứu định
lượng khá đa dạng. Hầu hết các nghiên cứu thực nghiệm sử dụng dữ liệu chéo, dữ liệu bảng, khảo
sát bán thực nghiệm và phương pháp thực nghiệm ngẫu nhiên. Quach và các cộng sự (2005) sử
dụng số liệu hộ gia đình từ Khảo sát mức sống dân cư Việt Nam (VLSSs) từ năm 1993 đến năm
1998 để xem xét ảnh hưởng của tín dụng đối với phúc lợi hộ gia đình và giảm nghèo bằng việc sử
dụng hồi quy Tobit và hồi quy hai giai đoạn. Kết quả cho thấy tín dụng đóng góp tích cực và có ý
nghĩa thống kê đến phúc lợi kinh tế của hộ gia đình về chi tiêu bình quân đầu người; hơn thế nữa,
tín dụng có ảnh hưởng tích cực lớn hơn đến phúc lợi kinh tế của các hộ nghèo (Quach và các
cộng sự 2005). Ngoài ra, Pham và Lensink (2008) cũng đã thu thập dữ liệu hộ gia đình từ VLSS
để ước tính các yếu tố quyết định xác suất của việc hộ gia đình chọn vay từ tín dụng chính thức,
không chính thức hay bán chính thức ở Việt Nam. Họ cho rằng những người vay từ những người
cho vay không chính thức sẽ mạo hiểm hơn những người vay từ những người cho vay chính thức
và bán chính thức (Pham và Lensink 2008). Tương tự, Barslund và Tarp (2008) đã tiến hành
nghiên cứu toàn diện về các yếu tố quyết định tín dụng chính thức và phi chính thức ở khu vực
nông thôn tại 4 tỉnh với 932 hộ gia đình được khảo sát kết hợp với dữ liệu từ Khảo sát mức sống
hộ gia đình 2002 (VHLSS). Họ sử dụng hồi quy probit để ước tính xác suất của việc nhận được
tín dụng từ các nguồn chính thức hoặc không chính thức. Kết quả cho thấy các khoản vay chính
thức gần như hoàn toàn dành cho sản xuất và tích lũy tài sản, trong khi các khoản vay không
chính thức được sử dụng để đáp ứng tiêu dùng (Barslund và Tarp 2008).
Gần đây, dựa trên khảo sát 325 hộ nông thôn thực hiện năm 2009, Vuong (2012) đã nghiên
cứu các yếu tố ảnh hưởng đến việc tiếp cận của cá nhân và hộ gia đình ở nông thôn đối với tín
dụng chính thức ở Đồng bằng sông Cửu Long, sử dụng mô hình kép (double hurdle model) và
mô hình Heckman. Kết quả cho thấy các yếu tố về nguồn tài sản vốn của hộ gia đình, tình trạng
hôn nhân, quy mô gia đình, khoảng cách đến chợ trung tâm và vị trí có ảnh hưởng đến cả xác suất
và quy mô khoản tín dụng (Vuong 2012). Hơn nữa, Duong và Nghiem (2014) đã xây dựng bộ dữ
liệu từ VHLSSs từ năm 1992 đến năm 2010 để xem xét ảnh hưởng của tài chính vi mô đối với
giảm nghèo bằng việc sử dụng phương pháp phân tích dữ liệu bảng mô phỏng. Các kết quả thực
nghiệm cho thấy sự tham gia vào tài chính vi mô có quan hệ đồng biến với tăng thu nhập và tiêu
dùng nhưng tác động của nó đến tình trạng nghèo không đáng kể (Duong và Nghiem 2014).
Trong một nghiên cứu khác ở miền núi phía Bắc Việt Nam, Luan và các cộng sự (2016) đã áp
dụng phương pháp Điểm khuynh hướng (PSM) để ước tính tác động đến thu nhập của các nguồn
tín dụng. Dữ liệu 1.338 hộ gia đình tại 4 tỉnh đại diện trong khu vực này được lấy từ Khảo sát tiếp
cận nguồn lực của hộ gia đình năm 2012. Luan và các cộng sự (2016) cho thấy các tác động của
tín dụng đến người nhận không đồng nhất.
4. Khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam
Trong bối cảnh thúc đẩy tài chính toàn diện ở phạm vi toàn cầu cùng với các nghiên cứu lý
thuyết và thực nghiệm liên quan đến tài chính toàn diện đối với các nước, trên cơ sở đó đúc kết
một số kinh nghiệm nhằm khuyến nghị chính sách góp phần đẩy mạnh tài chính toàn diện ở Việt
Nam, cụ thể là:
434
- Thứ nhất, cải thiện sự cạnh tranh trong hệ thống tài chính, đồng thời cũng cho phép các tổ
chức cấp thấp (như hợp tác xã, liên hiệp tín dụng, và tổ chức tài chính vi mô - MFI) và các tổ
chức, cá nhân chuyên cho vay (như các công ty bao thanh toán và cho thuê) với công nghệ cho
vay hoặc mô hình kinh doanh tiếp cận với khách hàng theo cách có trách nhiệm;
Thứ hai, tăng cường và hoàn thiện hành lang pháp lý tài chính (như luật giao dịch số, luật
phá sản và thực thi hợp đồng); và đầu tư hạ tầng tài chính bao gồm hệ thống điểm giao dịch và
phương tiện, thiết bị giao dịch, hạ tầng công nghệ theo hướng ứng dụng công nghệ tài chính
(Fintech), tài chính di động và giao dịch số (như công nghệ blockchain, bitcoin, ví điện tử, sinh
trắc - biometrics);
Thứ ba, tạo điều kiện cho thị trường tài chính phát triển để cải thiện khả năng tiếp cận tài
chính lâu dài, đạt được mục tiêu tăng trưởng nhờ mở rộng phạm vi tiếp cận và cải thiện tính linh
hoạt, giảm được chi phí hành chính, quản trị tốn kém; tiến đến tích hợp đối tác toàn hệ thống tài
chính cho phép thực hiện giao dịch chéo theo thời gian thực; làm giàu cơ sở dữ liệu khách hàng
để có thể tạo ra những hiểu biết sâu sắc hơn về khách hàng;
Thứ tư, khi tài chính toàn diện mở rộng và khách hàng có thể chuyển từ tổ chức tài chính vi
mô sang dịch vụ ngân hàng, cần tạo lập và phát triển các hệ sinh thái tài chính số sâu rộng và hiệu
quả với các loại hình tổ chức mới như quản lý mạng lưới đạilý (agent network manager), đầu mối
tổng hợp thanh toán (paymentaggregator) và những tổ chức phi ngân hàng khác;
Thứ năm, các nhà hoạch định chính sách cần xác định rõ các ưu tiên và lộ trình đối với tiến
trình thúc đẩy tài chính toàn diện, đồng thời với việc nâng cao sự am hiểu về tài chính (financial
literacy) cho người dân cũng như tăng cường tư vấn và bảo vệ người tiêu dùng nhằm tối đa hóa
hiệu quả thực sự;
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Agarwal, S, S Alok, P Ghosh, S Kanti Ghosh, T Piskorski and A Seru. 2018a. “Banking
the unbanked: What do 255 million new bank accounts reveal about financial access?”, working
paper.
2. Agarwal, S, T Kigabo, C Minoiu, A Presbitero and A F Silva. 2018b. “Financial access
under the microscope”, working paper.
3. Allen, F., A. Demirguc-Kunt, L. Klapper, M.S. Martinez-Peria, 2016. “The Foundations of
Financial Inclusion." Journal of Financial Intermediation, 2016, vol. 27, issue C, 1-30.
4. Aportela, F. 1999. "Effects of Financial Access on Savings by Low-Income People."
MIT Department of Economics Dissertation Chapter 1.
5. Arcand, J L, E Berkes and U Panizza. 2015. “Too much finance?”, Journal of Economic
Growth20(2): 105-148.
6. Ashraf, N., Karlan, D. and Yin, W. 2006. “Tying Odysseus to the Mast: Evidence
from a Commitment Savings Product in the Philippines.” Quarterly Journal of Economics
121 (2): 635-72.
7. Ashraf, N., Karlan, D. and Yin, W. 2010. “Female Empowerment: Further Evidence
from a Commitment Savings Product in the Philippines.” World Development 28 (3): 333-44.
8. AusAID (Australian Agency for International Development). 2010. “Financial Services
for the Poor: A strategy for the Australian aid program 2010-2015.” Australian Agency for
International Development (AusAID), Canberra, March 2010.
9. Ayyagari, M., Demirguc-Kunt, A. and Maksimovic, V. 2012. “Financing of Firms in
Developing Countries: Lessons from Research.” Policy Research working paper; no. WPS 6036.
Washington, DC: World Bank.
435
- 10. Banerjee, A. 2004. “Contracting Constraints, Credit Markets and Economic
Development,” in Mathias Dewatripont, Lars P. Hansen and Steven Turnovsky, eds., Advances in
economics and econometrics: Theory and applications. Eighth World Congress (Vol. 3).
Cambridge: Cambridge University Press, 2004, pp. 1- 46.
11. Banerjee, A., and Duflo, E. 2011. “Poor Economics: A Radical Rethinking of the Way
to Fight Global Poverty”. Public Affairs, New York.
12. Barslund, M. and Tarp, F. 2008. “Formal and Informal Rural Credit in Four Provinces
of Vietnam.” The Journal of Development Studies, 44:4, 485-503.
13. Beck, T. 2015. “Microfinance: A Critical Literature Survey.” IEG working paper;
2015/No.4. Washington, D.C.: World Bank Group.
14. Beck, T., A. Demirguc-Kunt, and M. S. Martinez Peria. 2007a. “Reaching Out:
Access to and Use of Banking Services across Countries.” Journal of Financial Economics 85
(2): 234-66.
15. Beck, T., A. Demirguc-Kunt, and R. Levine. 2007b. “Finance, Inequality, and the
Poor.” Journal of Economic Growth 12 (1): 27-49.
16. Beck, T., Demirgüç-Kunt, A. and Singer, D. 2013. Is Small Beautiful? Financial
Structure, Size and Access to Finance. World Development, 52, pp.19-33.
17. Berger, A. and Udell, G. (2006). “A more complete conceptual framework for SME
finance.” Journal of Banking & Finance, 30(11), pp.2945-2966.
18. Berger, A., Klapper, L. and Udell, G. 2001. “The ability of banks to lend to
informationally opaque small businesses.” Journal of Banking & Finance, 25(12), pp.2127-2167.
19. Berger, Allen, and Gregory Udell. 1995. “Universal Banking and the Future of Small
Business Lending.” Finance and Economics Discussion Series, Board of Governors of the
Federal Reserve System, Washington, DC.
20. Breza, E and C Kinnan. 2018. “Measuring the equilibrium impacts of credit: Evidence
from the Indian microfinance crisis”, NBER working paper No. 24329.
21. Bruhn, M. and I. Love. 2014. “The Real Impact of Improved Access to Finance:
Evidence from Mexico.” Journal of Finance, 69:3, 1347-1376.
22. Burgess, R., and Pande, R. 2005. "Do Rural Banks Matter? Evidence from the Indian
Social Banking Experiment." American Economic Review, 95(3): 780-795.
23. Clarke, G., C. Xu, and H. Zou. 2006. “Finance and Inequality: What Do the Data Tell
Us?” Southern Economic Journal 72 (3): 578-96.
24. Collins, D., Morduch, J., Rutherford, S. and Ruthven, O. 2009. Portfolios of the Poor:
How the World’s Poor Live on $2 a Day. Princeton University Press.
25. Connolly, C., Georgeouras, M., Hems, L. and Wolfson, L. 2011. “Measuring Financial
Exclusion in Australia.” Centre for Social Impact (CSI) - University of New South Wales, for
National Australia Bank.
26. Cull, R., Demirgüç-Kunt, A., and Morduch, J. 2013. “Banking the World: Empirical
Foundations of Financial Inclusion.” Cambridge, MA: MIT Press.
27. Cull, R., Ehrbeck, T. and Holle, N. 2014. “Financial Inclusion and Development:
Recent Impact Evidence”. CGAP focus note; No. 92. Washington, DC; World Bank Group.
28. Dalton, P, H Pamuk, D Soest, R Ramrattan and B Uras. 2018. “Payment technology
adoption by SMEs: Experimental evidence from Kenya's mobile money”, working paper.
29. De la Torre, Augusto, Juan Carlos Gozzi, and Sergio Schmukler. 2007. “Innovative
Experiences in Access to Finance: Market-Friendly Roles for the Visible Hand?” Policy Research
Working Paper 4326, World Bank, Washington, DC.
30. Demirguc-Kunt, A., and R. Levine. 2009. “Finance and Inequality: Theory and
Evidence.” Annual Review of Financial Economics 1: 287-318.
436
- 31. Demirgüç-Kunt, A., Beck, T. H. L., & Honohan, P. 2008. Finance for All? Policies and
Pitfalls in Expanding Access. (A World Bank policy research report). Washington, D.C: World
Bank.
32. Demirguc-Kunt, A., L. Klapper, and D. Singer. 2013. “Financial Inclusion and Legal
Discrimination against Women: Evidence from Developing Countries.” Policy Research Working
Paper 6616, World Bank, Washington, DC.
33. Demirguc-Kunt, A., L. Klapper, and D. Singer. 2017. “Financial Inclusion and
Inclusive Growth: A Review of Recent Empirical Evidence”. Policy Research Working Paper;
No. 8040. World Bank, Washington, DC.
34. Demirguc-Kunt, Asli, T. Beck, and P. Honohan. 2008. “Finance for All: Policies and
Pitfalls in Expanding Access.” World Bank, Washington, DC.
35. Department of Economic and Social Affairs and United Nations Capital Development Fund.
2006. “Building Inclusive Financial Sectors for Development.” United Nations, New York, 2006.
36. Duong, Hoai An and Nghiem, Hong Son. 2014. “Effects of Microfinance on Poverty
Reduction in Vietnam: A Pseudo-Panel Data Analysis.” Journal of Accounting, Finance and
Economics, 4(2), pp. 58-67.
37. Dupas, P., and J. Robinson. 2013a. “Savings Constraints and Microenterprise
Development: Evidence from a Field Experiment in Kenya.” American Economic Journal:
Applied Economics 5 (1): 163-92.
38. Dupas, P., and J. Robinson. 2013b. “Why Don’t the Poor Save More? Evidence from
Health Savings Experiments.” American Economic Review 103 (4): 1138-71.
39. European Commission. 2008. “Financial Services Provision and Prevention of Financial
Exclusion.” Directorate-General for Employment, Social Affairs and Equal Opportunities
Inclusion, Social Policy Aspects of Migration, Streamlining of Social Policies.
40. Gourinchas, P-O and M Obstfeld. 2012. “Stories of the twentieth century for the
twenty-first”, American Economic Journal: Macroeconomics 4: 226-65.
41. GPFI (Global Partnership for Financial Inclusion). 2010. “G20 Financial Inclusion
Action Plan.”
42. GPFI (Global Partnership for Financial Inclusion). 2011. “The G20 Principles for
Innovative Financial Inclusion: Bringing the Principles to Life.”
43. GPFI (Global Partnership for Financial Inclusion). 2019. “Argentina Priorities
Paper 2019.”
44. Hastak, Anuradha and Gaikwad, Arun. 2015. Issues Relating to Financial Inclusion and
Banking Sectors in India. The Business and Management Review, Vol.4 (4).
45. Islam, E. & Mamum, S. A. 2011. “Financial Inclusion: The Role of Bangladesh Bank”.
Working Paper Series: WP1101. Research Department Bangladesh Bank, Dhaka.
46. Johnston, D. and Morduch, J. 2008. The Unbanked: Evidence from Indonesia. World
Bank Economic Review 22, 517-37.
47. Karlan, D. and Morduch, J. 2010. “Access to Finance.” Chapter 2, Handbook of
Development Economics, Volume 5 Dani Rodrik and Mark Rosenzweig, eds.
48. Keeton, William R. 1995. “Multi-Office Bank Lending to Small Businesses: Some New
Evidence.” Federal Reserve Bank of Kansas City Economic Review 80 (2): 45-57.
49. Klapper, L., M. El-Zoghbi, and J. Hess. 2016. “Achieving the Sustainable Development
Goals: The Role of Financial Inclusion.” CGAP.
50. Levine, R. 2005. Finance and Growth: Theory and Evidence. Handbook of Economic
Growth, Volume 1A, edited by Aghion, P. & Durlauf, S. N., North Holland: Elsevier.
51. Lewis, Logan, Bernardo Morais, and Claudia Ruiz. 2013. “Banking Competition and
Collusion.” Unpublished working paper, World Bank, Washington, DC.
437
- 52. Luan, D. X., Bauer, S. and Kühl, R. 2016. “Income Impacts of Credit on Accessed
Households in Rural Vietnam: Do Various Credit Sources Perform Differently?”, AGRIS on-line
Papers in Economics and Informatics, Vol. 8, No. 1, pp. 57 - 67. ISSN 1804-1930.
53. Mian, A and A Sufi. 2014. House of debt: How they (and you) caused the Great Recession,
and how we can prevent it from happening again, Chicago: University of Chicago Press.
54. Muralidharan, K, P Niehaus and S Sukhtankar. 2016. “Building state capacity:
Evidence from biometric smartcards in India”, American Economic Review 106(10): 2895-2929.
55. Park, C.-Y., and R. V. Mercado. 2015. “Financial Inclusion, Poverty, Income Inequality
in Developing Asia.” Asian Development Bank Economics Working Paper 426.
56. Pham, T. T. T., & Lensink, R. 2007. “Lending Policies of Informal, Formal and
Semiformal Lenders.”
57. Pitt, M and S Khandker. 1998. “The impact of group-based credit programs on poor
households in Bangladesh: does the gender of participants matter?”, Journal of Political Economy
106(5): 958-996.
58. Prina, S. 2012. “Do Basic Savings Accounts Help the Poor to Save? Evidence from a
Field Experiment in Nepal.” Weatherhead School of Management, Case Western Reserve
University, Cleveland, OH.
59. Quach, M. H, A., Mullineux, W., & Murinde, V. 2005. “Access to credit and household
poverty reduction in rural Vietnam: A cross-sectional study.” PhD thesis, The University of
Birmingham.
60. Ruiz, C. 2013. “From Pawn Shops to Banks: The Impact of Formal Credit on Informal
Households.” Policy Research Working Paper 6643, World Bank, Washington, DC.
61. Sahay, R., Čihák, M., N’Diaye, P., Barajas, A., Mitra, S., Kyobe, A., Mooi, Y. &
Yousefi, S. R. 2015. “Financial Inclusion: Can It Meet Multiple Macroeconomic Goals?” IMF
Staff Discussion Note, 15/17. International Monetary Fund, Washington, DC.
62. Sarma, M. 2016. “Measuring Financial Inclusion for Asian Economies.” S. Gopalan, T.
Kikuchi (eds.). Financial Inclusion in Asia. Palgrave Studies in Impact Finance.
63. Schularick, M and A Taylor. 2012. “Credit booms gone bust: Monetary policy, leverage
cycles, and financial crises, 1870-2008”, American Economic Review 102(2): 1029-1061.
64. Vuong, Q. D. 2012. Determinants of household access to formal credit in the rural areas
of the Mekong Delta, Vietnam. African and Asian studies, 11, 261-87.
65. World Bank. 2008. “The World Bank Annual Report 2008: Year in Review.”
Washington, DC: World Bank.
66. World Bank. 2012. “Financial Inclusion Strategies Reference Framework.” Prepared for
the G20 Mexico Presidency, World Bank, Washington, DC.
67. World Bank. 2014a. “Global Financial Development Report 2014: Financial Inclusion.”
Washington, DC.
68. World Bank. 2014b. “The Opportunities of Digitizing Payments.” Washington, DC.
438
nguon tai.lieu . vn