Xem mẫu
- Kỷ yếu HộI THảO KHOA HọC QUốC GIA
"CÁCH MạNG CÔNG NGHIệP 4.0 VÀ NHữNG ĐổI MớI TRONG LĨNH VựC TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG"
TÁC ĐỘNG CỦA FINTECH
TỚI NGHIỆP VỤ VÀ QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG TẠI VIỆT NAM
PGS.TS. Lê Thanh Tâm1
Viện Ngân hàng - Tài chính, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân
TS. Lê Nhật Hạnh
Khoa Quản trị Kinh doanh, Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh
ThS. Nguyễn Việt Cường
Vietcombank Ba Đình
ThS. Lê Phong Châu
Viện Ngân hàng - Tài chính, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân
Tóm tắt
Sự phát triển của lĩnh vực công nghệ tài chính (Fintech) là kết quả của ứng dụng
Cách mạng công nghiệp 4.0 đang tác động mạnh mẽ tới mọi công tác quản trị và nghiệp
vụ ngân hàng. Fintech gồm năm lĩnh vực: e-KYC; Blockchain; thanh toán; Open APIs; và
peer-to-peer lending. Fintech tác động mạnh mẽ tới hệ sinh thái tài chính - ngân hàng,
trong đó, hệ thống ngân hàng truyền thống chịu tác động nhiều nhất, cả về nghiệp vụ và
quản trị. Fintech tạo ra cả tác động tích cực như: tăng mức độ phổ cập tài chính, tăng tự
động hóa, giảm chi phí giao dịch, giúp nâng cấp và cải tiến dịch vụ ngân hàng, phù hợp
với nhu cầu ngày càng tăng và đa dạng của khách hàng, giảm rủi ro. Tuy vậy, các tác động
tiêu cực là: đối thủ cạnh tranh trực tiếp của ngân hàng ở một số lĩnh vực, sự liên kết và
lòng trung thành của khách hàng đối với ngân hàng bị suy giảm; rủi ro do tội phạm công
nghệ trong lĩnh vực ngân hàng tăng cao.
Tại Việt Nam, khung pháp lý về Fintech đã bắt đầu được xây dựng và đang có những
bước hoàn thiện nhất định. Tiềm năng thị trường khách hàng sử dụng Fintech rất tốt
với cơ cấu dân số vàng, tỷ lệ người dùng Internet và smart phone cao, trong khi giao
dịch đầu tư cho start-up Fintech tăng trưởng mạnh mẽ. Tuy vậy, các công ty Fintech tại
Việt Nam hiện vẫn tập trung vào lĩnh vực thanh toán, các lĩnh vực khác còn khá ít, hoạt
động Fintech còn kém phát triển, các tác động tích cực đang ở mức tiềm năng và nhỏ lẻ,
trong khi một số tác động tiêu cực đã xuất hiện. Để tận dụng được tiềm năng phát triển
của Fintech Việt Nam, cần có sự tham gia của nhiều bên có liên quan trong hệ sinh thái
Fintech, đặc biệt là Ngân hàng Nhà nước, các NHTM và công ty Fintech.
Từ khóa: Blockchain, e-KYC, Fintech, ngân hàng, open API, peer-to-peer lending,
thanh toán
1
Email của tác giả: tamlt@neu.edu.vn
20
- Kỷ yếu HộI THảO KHOA HọC QUốC GIA
"CÁCH MạNG CÔNG NGHIệP 4.0 VÀ NHữNG ĐổI MớI TRONG LĨNH VựC TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG"
Giới thiệu
Cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 (industrie 4.0) trong thời đại Internet kết nối vạn
vật (Internet of things) và trí tuệ nhân tạo (artificial intelligence - AI) có tốc độ đột phá
công nghệ chưa có tiền lệ trong lịch sử, phạm vi ảnh hưởng rộng lớn trên toàn cầu và
đang phá vỡ cấu trúc của hầu hết các ngành công nghiệp ở mọi quốc gia. Sự phát triển
của lĩnh vực công nghệ tài chính (Fintech) là kết quả của ứng dụng Cách mạng công
nghiệp 4.0 đang tác động mạnh mẽ tới mọi công tác quản trị và nghiệp vụ ngân hàng
và người dùng cuối cùng. Một số giao dịch Fintech đang thay đổi ngành ngân hàng một
cách căn bản. Lần đầu tiên trong lịch sử, vào ngày 14/5/2018, HSBC đã dùng công nghệ
chuỗi khối (blockchain) trong giao dịch tài trợ thương mại quốc tế với Ngân hàng ING
của Hà Lan để hỗ trợ Công ty Nông nghiệp và Thực phẩm Cargill, giảm thời gian giao
dịch xuống 24 giờ, so với mức thông thường 10 ngày theo phương pháp truyền thống
(Browne, 2018). Tại Trung Quốc, 900 triệu/tổng số 1,4 tỷ người hiện đang dùng QR code
để thanh toán hàng ngày, kể cả lái xe taxi, trong khi từ chối nhận tiền mặt hoặc thẻ tín
dụng (Banjo, 2018).
Fintech đã có các tác động rất lớn, cả tích cực và tiêu cực đến nghiệp vụ và quản trị
ngân hàng. Bài viết này có mục tiêu: Thứ nhất, tổng hợp các vấn đề cơ bản về Fintech và
tác động của Fintech đến nghiệp vụ - quản trị ngân hàng. Thứ hai, phân tích, đánh giá
thực trạng Fintech và tác động của sự phát triển Fintech tới ngành ngân hàng Việt Nam
trên các khía cạnh: khung pháp lý và các hoạt động xây dựng hệ sinh thái cho Fintech tại
Việt Nam; thực trạng hoạt động Fintech tại Việt Nam và các tác động. Thứ ba, đề xuất
ba nhóm khuyến nghị với các cơ quan quản lý, các ngân hàng thương mại, và các công
ty Fintech, góp phần tối ưu hóa các tác động tích cực và giảm thiểu tác động tiêu cự của
Fintech tới nghiệp vụ và quản trị ngân hàng Việt Nam trong thời gian tới.
1. Các vấn đề cơ bản về Fintech và tác động của Fintech đến
nghiệp vụ và quản trị ngân hàng
1.1. Fintech và các cấu phần của Fintech
Hiện nay, có khoảng hơn 200 khái niệm khác nhau về công nghệ tài chính - Fintech
(viết tắt của cụm từ financial technology), nhưng khái niệm được tổng hợp lại và thống
nhất nhiều nhất là: Fintech là việc áp dụng các công nghệ đổi mới, sáng tạo và hiện đại
cho lĩnh vực tài chính, nhằm mang tới cho khách hàng các giải pháp/dịch vụ tài chính
minh bạch, hiệu quả và thuận tiện với chi phí thấp hơn so với các dịch vụ tài chính
truyền thống (Mackenzie, 2015, Partrick, 2017). Theo Diễn đàn kinh tế thế giới WEF,
21
- Kỷ yếu HộI THảO KHOA HọC QUốC GIA
"CÁCH MạNG CÔNG NGHIệP 4.0 VÀ NHữNG ĐổI MớI TRONG LĨNH VựC TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG"
Fintech chỉ tập trung vào việc ứng dụng công nghệ phát triển từ các công ty nhỏ, mới
tham gia thị trường, không kể đến việc các công ty công nghệ lớn như Apple phát triển
Apple Pay, hoặc các tổ chức tài chính lớn tự phát triển các dịch vụ ứng dụng công nghệ
cao (WEF, 2017).
Có nhiều cách phân loại các lĩnh vực hoạt động chính của Fintech. Theo Dorfleitner
và các cộng sự (2017), Fintech bao gồm bốn mảng lớn: tài chính (gồm huy động vốn từ
cộng đồng crowdfunding, tín dụng và bao thanh toán), quản lý tài sản (giao dịch xã hội,
sử dụng robot, quản lý tài chính cá nhân, dịch vụ ngân hàng và đầu tư), thanh toán (các
hình thức thanh toán phi truyền thống, blockchain và tiền điện tử Cryptocurrencies);
và các nội dung Fintech khác (bảo hiểm, công cụ tìm kiếm và so sánh, nền tảng cơ sở
hạ tầng công nghệ thông tin). Theo Diễn đàn kinh tế thế giới WEF, những lĩnh vực hoạt
động chính của Fintech gồm: (i) Thanh toán; (ii) Huy động vốn; (iii) Cho vay; (iv) Đầu
tư và quản lý tài sản; (v) Bảo hiểm; (vi) Blockchain và các ứng dụng; (vii) Các công nghệ
hỗ trợ hoạt động tài chính - ngân hàng (Nhận biết khách hàng điện tử (e-KYC), thông
tin/xếp hạng tín dụng...) (WEF, 2017). Theo DBS & EY (2016), Fintech gồm (i) dữ liệu
tài chính và phân tích; (ii) phần mềm tài chính; (iii) các quá trình được số hóa; (iv) nền
tảng cho thanh toán. Theo ADB (2017), Fintech gồm năm lĩnh vực ưu tiên là: (i) định
danh khách hàng điện tử e-KYC; (ii) Blockchain; (iii) thanh toán (Payment); (iv) công
nghệ mã nguồn mở Open APIs; và (v) cho vay ngang hàng (peer-to-peer lending).
Nguồn: Tổng hợp từ ADB (2017), Dorfleitner và các cộng sự (2017), WEF (2017
Hình 1: Các cấu phần cơ bản của Fintech
22
- Kỷ yếu HộI THảO KHOA HọC QUốC GIA
"CÁCH MạNG CÔNG NGHIệP 4.0 VÀ NHữNG ĐổI MớI TRONG LĨNH VựC TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG"
Fintech chính là các cách thức mà các doanh nghiệp start-up tập trung vào công
nghệ có thể phát triển các sản phẩm tài chính ngân hàng mới, hoặc cung cấp cách thức
mới để tiếp cận khách hàng khi cung cấp các sản phẩm tài chính ngân hàng. Fintech đã
trở thành một phần trong ngành tài chính, tập trung vào các ứng dụng, quy trình, sản
phẩm hoặc mô hình kinh doanh mới với một số hoặc nhiều dịch vụ tài chính bổ sung,
dưới dạng quy trình trực tiếp giữa người cung cấp dịch vụ và khách hàng thông qua
Internet.
Fintech tác động mạnh mẽ tới hệ sinh thái tài chính – ngân hàng, bao gồm cung,
cầu, hệ thống hỗ trợ và khung pháp lý. Trong đó, hệ thống ngân hàng truyền thống chịu
tác động nhiều nhất, cả về nghiệp vụ và quản trị.
Nguồn: Tổng hợp từ ADB (2017), WEF (2017)
Hình 2: Tác động của Fintech tới nghiệp vụ và quản trị ngân hàng
1.2. Tác động của Fintech tới nghiệp vụ và quản trị ngân hàng
Có nhiều nghiên cứu về tác động của Fintech tới hệ sinh thái tài chính ngân hàng.
Theo WEF (2017) và ADB (2017), Fintech có các tác động tới nghiệp vụ và quản trị ngân
hàng như sau:
• Định danh khách hàng điện tử - E-KYC (Electronic Identity Authentication)
Đây là việc số hóa vấn đề KYC, một chính sách RegTech (công nghệ áp dụng trong
quy định và pháp luật) được áp dụng trên toàn cầu trong lĩnh vực tài chính. Các tổ chức
23
- Kỷ yếu HộI THảO KHOA HọC QUốC GIA
"CÁCH MạNG CÔNG NGHIệP 4.0 VÀ NHữNG ĐổI MớI TRONG LĨNH VựC TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG"
tài chính cần biết và hiểu khách hàng cũng như các giao dịch tài chính của họ để quản lý
rủi ro. Các ngân hàng hoặc công ty tài chính nhà ở phải hiểu rõ khách hàng bằng cách sử
dụng chương trình nhận diện khách hàng (Customer Identification Program - CIP) sử
dụng nguồn văn bản, dữ liệu hoặc thông tin đáng tin cậy và độc lập để xác minh danh tính
của khách hàng, địa chỉ tạm trú và thường trú, bản chất của cá thể kinh doanh, tình hình
tài chính và các thông tin tương tự khác. Thông thường, các giấy tờ yêu cầu cho quy trình
tuân thủ KYC bao gồm giấy chứng minh, hộ chiếu và giấy phép lái xe. Ngoài ra, việc theo
dõi các giao dịch liên tục được gọi là “Customer Due Diligence” (CDD) theo dõi các giao
dịch bất thường, các giao dịch tiền mặt và các giao dịch đáng ngờ (Menon, 2017).
Thông qua định danh khách hàng điện tử bằng các hình thức phi giấy tờ truyền
thống như: sinh trắc học (mắt, khuôn mặt, vân tay) khách hàng, ảnh chụp bản mềm,
e-KYC có thể giải quyết các vấn đề của khu vực tài chính truyền thống như sau (ADB,
2017; WEF, 2017):
(i) Giảm thời gian và chi phí nhân lực của việc nhận dạng khách hàng khi tới giao dịch,
hoặc khi khách hàng chuyển sang một tổ chức tín dụng mới, khách hàng không phải
khai lại nhiều lần một loại thông tin;
(ii) Giảm chi phí và thời gian điền các mẫu đơn, giấy tờ giao dịch thông qua điện tử hóa
chứng từ của khách hàng;
(iii) Giảm chi phí công chứng, thuê luật sư đánh giá mức độ chính xác của các giấy tờ
gốc và lưu trữ tại ngân hàng khi vay vốn, hoặc thực hiện các giao dịch; và
(iv) Giảm nguy cơ rửa tiền khi cơ sở hạ tầng về định danh khách hàng được các tổ chức
tín dụng cùng chia sẻ.
• Công nghệ chuỗi khối - blockchain
Blockchain là một công nghệ cho phép truyền tải dữ liệu một cách an toàn dựa vào
hệ thống mã hoá vô cùng phức tạp, là cuốn sổ cái kế toán, trong đó tiền mặt được giám
sát chặt chẽ. Blockchain sở hữu tính năng vô cùng đặc biệt đó là việc truyền tải dữ liệu
không đòi hỏi một trung gian để xác nhận thông tin. Hệ thống Blockchain tồn tại rất
nhiều nút độc lập có khả năng xác thực thông tin mà không đòi hỏi “dấu hiệu của niềm
tin”. Thông tin trong Blockchain không thể bị thay đổi và chỉ được bổ sung thêm khi có
sự đồng thuận của tất cả các nút trong hệ thống. Đây là một hệ thống bảo mật an toàn
cao trước khả năng bị đánh cắp dữ liệu. Ngay cả khi một phần của hệ thống Blockchain
sụp đổ, những máy tính và các nút khác sẽ tiếp tục bảo vệ thông tin và giữ cho mạng lưới
tiếp tục hoạt động (The Economist, 2015).
24
- Kỷ yếu HộI THảO KHOA HọC QUốC GIA
"CÁCH MạNG CÔNG NGHIệP 4.0 VÀ NHữNG ĐổI MớI TRONG LĨNH VựC TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG"
Blockchain có thể giải quyết các vấn đề sau của khu vực tài chính truyền thống
(ADB, 2017; WEF, 2017)
(i) Giảm thời gian và chi phí thực hiện các công đoạn của công tác nghiệp vụ và quản
trị tài trợ thương mại, với rất nhiều yêu cầu xác thực và chứng từ phức tạp đang làm
thủ công liên quan tới nhiều bên khác nhau trong các hợp đồng, đặc biệt là các hợp
đồng tài trợ thương mại quốc tế.
(ii) Tập trung hóa quản lý dữ liệu trong ngân hàng, từ đó giảm thiểu các rủi ro do nhầm
lẫn của con người do thao tác, khống và hack dữ liệu.
(iii) Giúp cập nhật dữ liệu liên tục, chia sẻ dữ liệu giữa các tổ chức tài chính tín dụng
toàn cầu với chi phí thấp và đồng nhất nhằm định danh khách hàng và chống
rửa tiền.
(iv) Giảm chi phí giao dịch thông qua các trung gian và các quy trình giải quyết giấy tờ
kéo dài, tăng mức độ tin tưởng giữa các bên giao dịch.
• Thanh toán kỹ thuật số (Digital Payment)
Là giao dịch thanh toán không dùng tiền mặt được xử lý thông qua các kênh kỹ
thuật số. Việc số hóa các dịch vụ tài chính liên quan đến sự thay đổi đột phá trong hoạt
động thanh toán thông qua quy trình mua sắm trực tuyến và quy trình thanh toán tại
các POS, là bước tiến hóa giúp thay đổi cách thức thanh toán truyền thống, từ tiền mặt
sang thẻ tín dụng/thẻ ghi nợ sử dụng các ứng dụng trên điện thoại di động, ví kỹ thuật
số (Janowitz, A & L. Biagi, 2018).
Thanh toán có các tác động như sau tới nghiệp vụ và quản trị ngân hàng (ADB,
2017; WEF, 2017):
(i) Giúp ngân hàng thu thập thông tin đầy đủ hơn với các khách hàng khi mở tài khoản
mới, đáp ứng các yêu cầu ngày càng nhiều về phòng chống rửa tiền và định danh
khách hàng.
(ii) Giảm chi phí thực hiện và lỗi thủ công đối với các giao dịch thanh toán các khoản
vay trả góp, xử lý trực tiếp giữa khách hàng và tổ chức cho vay.
(iii) Tăng mức độ tiếp cận các dịch vụ ngân hàng cơ bản, trong đó có các dịch vụ thanh
toán đối với khách hàng ở vùng sâu, vùng xa, vùng nông thôn, nơi không có sự hiện
diện của các phòng giao dịch, chi nhánh ngân hàng.
(iv) Giảm chi phí mở các điểm giao dịch/chi nhánh của các tổ chức cung cấp dịch vụ
ngân hàng ở khu vực nông thôn, nơi khối lượng giao dịch thấp.
25
- Kỷ yếu HộI THảO KHOA HọC QUốC GIA
"CÁCH MạNG CÔNG NGHIệP 4.0 VÀ NHữNG ĐổI MớI TRONG LĨNH VựC TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG"
(v) Giảm rủi ro, tăng mức độ tiếp cận và đáp ứng nhu cầu về dịch vụ chuyển tiền, ví dụ,
từ lao động nước ngoài gửi tiền cho gia đình họ sống ở nông thôn, hoặc từ cha mẹ
ở nông thôn hỗ trợ con em học tập trong thành phố.
(vi) Tăng mức độ hiểu biết về nhận thức và kiến thức
sử dụng dịch vụ tài chính thông
qua các công cụ kỹ thuật số (Internet, điện thoại di động thông minh) của dân cư.
• Chuẩn giao diện lập trình ứng dụng mở (Open APIs - Open application
programming interfaces).
API là một “giao diện” giữa phần mềm với phần mềm, là cách để các phần mềm (hệ
điều hành, ứng dụng, các module trong hệ thống doanh nghiệp…) giao tiếp với nhau và
tận dụng năng lực của nhau. Open APIs hoặc public APIs, là mã nguồn mở công cộng,
cung cấp cho nhà phát triển quyền truy cập có lập trình vào ứng dụng phần mềm sở hữu
độc quyền hoặc dịch vụ web (Proffitt, 2013). Open APIs tác động tới hoạt động và nghiệp
vụ ngân hàng như sau:
(i) API tiêu chuẩn cho phép các công ty chuyển tiền vào tài khoản ngân hàng thông qua
chức năng ghi nợ trực tiếp.
(ii) Hợp lý hóa/giảm thiểu số lượng giao diện và các yêu cầu tác động đến các nền tảng
core banking của ngân hàng.
• Cho vay ngang hàng (Peer-to-Peer Lending)
Là việc kết nối trực tiếp người đi vay và cho vay với nhau qua một nền tảng trực tiếp.
Người vay và người cho vay tự đăng ký trên nền tảng đó. Đối với người đi vay, các thông
tin cần cung cấp gồm: điểm tín dụng, mục đích sử dụng vốn, quy mô vốn cần vay, mức
thu nhập hàng năm, một số thông tin cá nhân khác. Trước khi cho phép các bên tham gia
vào bất kỳ hoạt động cho vay hoặc vay nào, đơn vị quản lý nền tảng sẽ phải thẩm định cả
hai bên (Briggman, S., 2015; The Economist, 2017).
P2P là cách thức cạnh tranh trực tiếp với hoạt động cho vay truyền thống của ngân
hàng, do các điểm mạnh nổi trội như sau:
(i) Thời gian xử lý khoản vay nhanh chóng, cách thức đi vay và cho vay dễ dàng (online),
lãi suất cố định.
(ii) Bổ sung thêm kênh tiếp cận tín dụng đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa, trong
điều kiện các doanh nghiệp này thường khó đáp ứng được các yêu cầu về tài sản bảo
đảm, cũng như các tài liệu, minh chứng.
26
- Kỷ yếu HộI THảO KHOA HọC QUốC GIA
"CÁCH MạNG CÔNG NGHIệP 4.0 VÀ NHữNG ĐổI MớI TRONG LĨNH VựC TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG"
(iii) Cho phép các doanh nghiệp sử dụng hóa đơn, giấy chuyển hàng, giấy nhập hàng để
đi vay trên thị trường trực tiếp.
(iv) Các doanh nghiệp nhỏ và vừa có thể sử dụng các sản phẩm “phần mềm doanh nghiệp”
trực tuyến để giúp quản lý đơn đặt hàng, hóa đơn, kế toán và quản lý tiền mặt.
(v) Tăng cường ứng dụng và phát triển các mô hình và/hoặc các thuật toán chấm điểm
tín dụng với doanh nghiệp nhỏ và vừa, cũng như cá nhân, tận dụng các nguồn
thông tin định tính và định lượng mới để thu thập và phân tích khách hàng.
Như vậy, Fintech có các lợi thế do công nghệ mang lại so với ngân hàng, từ đó việc
tạo ra các sản phẩm khác biệt, hướng tới khách hàng dễ dàng hơn so với ngân hàng
truyền thống. Fintech tạo ra cả tác động tích cực như sau:
- Tăng mức độ phổ cập tài chính thông qua tăng quy mô và số lượng giao dịch, giảm
chi phí giao dịch, tăng mức độ tiếp cận của khách hàng đến dịch vụ ngân hàng mọi
lúc mọi nơi, tăng mức độ tự động hóa.
- Giảm chi phí giao dịch, giúp nâng cấp và cải tiến dịch vụ ngân hàng, phù hợp với
nhu cầu ngày càng tăng và đa dạng của khách hàng.
- Công nghệ điều chỉnh giúp nâng cao chất lượng, tính tuân thủ và quản lý rủi ro của
các quy trình tuân thủ, quy trình báo cáo, bảo vệ khách hàng, chống rửa tiền và tội
phạm tài chính.
- Giảm rủi ro ở mức nhất định cho ngân hàng, tạo sự khác biệt về sản phẩm và trải
nghiệm của khách hàng.
Tuy vậy, Fintech cũng có những tác động tiêu cực tới ngân hàng như (i) là đối thủ
cạnh tranh trực tiếp của ngân hàng ở một số lĩnh vực như thanh toán, blockchain, cho
vay; (ii) khi ngân hàng ứng dụng quá nhiều công nghệ, các giao dịch trực tiếp (face - to
- face) giảm xuống, sự liên kết và lòng trung thành của khách hàng đối với ngân hàng bị
suy giảm; (iii) rủi ro do tội phạm công nghệ trong lĩnh vực ngân hàng tăng cao.
Do vậy, xu hướng thay vì cạnh tranh, chuyển sang hợp tác giữa ngân hàng và Fintech
đang dần trở nên phổ biến. Để tồn tại và phát triển, các công tin Fintech cần được tiếp
cận nguồn vốn, quy mô mạng lưới, các nguồn thông tin của khách hàng, cũng như sự hỗ
trợ, tư vấn về pháp lý của các ngân hàng (Nghiêm Thanh Sơn, 2018).
27
- Kỷ yếu HộI THảO KHOA HọC QUốC GIA
"CÁCH MạNG CÔNG NGHIệP 4.0 VÀ NHữNG ĐổI MớI TRONG LĨNH VựC TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG"
2. Thực trạng Fintech và tác động của sự phát triển Fintech tới
ngành ngân hàng Việt nam
2.1. Về khung pháp lý và các hoạt động xây dựng hệ sinh thái cho Fintech tại Việt Nam
Các quy định pháp lý cơ bản cho sự phát triển Fintech tại Việt Nam đã bắt đầu manh
nha từ 2010, tập trung vào nội dung về thanh toán, thể hiện trong Luật Ngân hàng Nhà
nước 2010, Nghị định 101/2012/NĐ-CP ngày 22/11/2012 về thanh toán không dùng
tiền mặt và Thông tư 39/2014/TT-NHNN ngày 11/12/2014 quy định về trung gian thanh
toán. Cụ thể, các dịch vụ trung gian thanh toán chính gồm:
- Dịch vụ cung ứng hạ tầng thanh toán điện tử, gồm: (i) Dịch vụ chuyển mạch tài
chính; (ii) Dịch vụ bù trừ điện tử; (iii) Dịch vụ cổng thanh toán điện tử.
- Dịch vụ hỗ trợ dịch vụ thanh toán, gồm: (i) Dịch vụ hỗ trợ thu hộ, chi hộ; (ii) Dịch
vụ hỗ trợ chuyển tiền điện tử; (iii) Dịch vụ Ví điện tử.
Đến năm 2016, Quyết định 844/QĐ-TTg ngày 18/4/2016 của Thủ tướng Chính
phủ về phê duyệt Đề án “Hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia đến
năm 2025”, trong đó có Fintech được ban hành. Mục tiêu của đề án này là (i) Tạo lập môi
trường thuận lợi để thúc đẩy, hỗ trợ quá trình hình thành và phát triển loại hình doanh
nghiệp có khả năng tăng trưởng nhanh dựa trên khai thác tài sản trí tuệ, công nghệ, mô
hình kinh doanh mới; (ii) Khẩn trương hoàn thiện hệ thống pháp lý hỗ trợ khởi nghiệp
đổi mới sáng tạo; thiết lập được Cổng thông tin khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc
gia; hỗ trợ được 800 dự án, 200 doanh nghiệp khởi nghiệp, trong đó 50 doanh nghiệp
gọi được vốn thành công từ các nhà đầu tư mạo hiểm, thực hiện mua bán và sáp nhập,
với tổng giá trị ước tính khoảng 1.000 tỷ đồng (Chính phủ, 2016).
Tháng 3/2017, Ban Chỉ đạo về lĩnh vực Fintech của NHNN được thành lập. Cho đến
nay, Ban chỉ đạo đã và đang thực hiện các hoạt động cơ bản như sau: (i) tập trung nghiên
cứu năm lĩnh vực trong Fintech (gồm công nghệ chuỗi khối - Blockchain, cho vay ngang
hàng - P2P Lending, định danh khách hàng điện tử - e-KYC, giao diện chương trình
ứng dụng mở - Open API, thanh toán kĩ thuật số - Digital Payment) làm cơ sở xây dựng
khuôn khổ pháp lý theo hướng thử nghiệm cho Fintech (regulatory sandbox); và (ii)
thực hiện phối hợp với MBI (ADB) tổ chức sự kiện Thử thách sáng tạo cùng công nghệ
tài chính Việt Nam lần thứ nhất (Fintech Challenge Vietnam) cho các công ty Fintech
trên toàn cầu.
28
- Kỷ yếu HộI THảO KHOA HọC QUốC GIA
"CÁCH MạNG CÔNG NGHIệP 4.0 VÀ NHữNG ĐổI MớI TRONG LĨNH VựC TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG"
2.2. Thực trạng Fintech tại Việt Nam và tác động của Fintech tới nghiệp vụ và
quản trị ngân hàng
Việt Nam được đánh giá là một trong những quốc gia có tiềm năng cho phát triển
Fintech tốt nhất trên thế giới. Theo Vietnam Digital Landscape (2018), trong tổng số 96
triệu dân, có tới 67% người đang dùng Internet, 57% đang sử dụng mạng xã hội một cách
thường xuyên, và 73% sử dụng điện thoại thông minh trong số 146,5 triệu thuê bao toàn
quốc. Mức độ sử dụng Internet và mạng xã hội tăng trưởng ấn tượng (28% với Internet
và 20% với mạng xã hội so với năm 2017). Việt Nam vẫn đang trong giai đoạn dân số
vàng, với độ tuổi trung bình 31 và 69.3% đang ở tuổi 15-60 (Dân số, 2018).
Các startups Việt nam trong những năm qua đã có những bước tiến nhảy vọt trong
đầu tư nói chung, đầu tư vào Fintech nói riêng. Theo Topica (2017), tổng giao dịch đầu
tư cho các startups Việt Nam đã tăng trưởng hết sức mạnh mẽ, từ 137 triệu USD năm
2015, lên tới 205 triệu USD năm 2016, và đạt mức 291 triệu USD năm 2017, với số giao
dịch tăng gần gấp đôi (92 giao dịch). Trong đó, ngành Fintech đứng thứ ba với 8 giao
dịch và tổng số tiền đầu tư là 57 triệu USD. Tính đến hết 2017, giá trị giao dịch thị trường
Fintech Việt Nam đã đạt mức 4,4 tỷ USD. Theo đánh giá của ADB năm 2017, trong 48
công ty Fintech được điều tra phỏng vấn, có tới 22 công ty trong lĩnh vực thanh toán
(chiếm 46%), trong khi các loại hình khác đều chiếm tỷ trọng nhỏ (cho vay: 3, tài chính
cá nhân: 4, quản lý dữ liệu: 2, blockchain: 4).
Nguồn: ADB (2017)
Hình 3: Các loại hình Fintech tại Việt Nam đến 2017
29
- Kỷ yếu HộI THảO KHOA HọC QUốC GIA
"CÁCH MạNG CÔNG NGHIệP 4.0 VÀ NHữNG ĐổI MớI TRONG LĨNH VựC TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG"
Tính tới 30/5/2018, con số công ty Fintech tại Việt Nam đã tăng lên 80 công ty. Các
công ty Fintech và ngân hàng đều có những ưu điểm và hạn chế riêng biệt, do vậy, xu
hướng hợp tác bổ trợ cho nhau để cung cấp dịch vụ ngân hàng tài chính có chất lượng
trở nên vô cùng quan trọng. Theo nghiên cứu nhanh của NHNN (2018), 72% công ty
Fintech đang lựa chọn việc hợp tác với các ngân hàng, trong khi 14% quyết định chọn
cạnh tranh với ngân hàng, và 14% còn lại chọn phát triển sản phẩm hoàn toàn mới.
Bảng 1: Mối quan hệ cộng sinh giữa ngân hàng và Fintech
Ngân hàng Fintech
(-) Chậm thay đổi, phát triển và thiếu tính linh hoạt trong (+) Có ưu thế về mặt đổi mới sáng tạo và khả năng ứng
ứng dụng công nghệ, dẫn tới chi phí giao dịch thường dụng công nghệ một cách linh hoạt và hiệu quả, giúp
cao và chưa kịp đáp ứng được nhu cầu từ khách hàng tiết giảm chi phí giao dịch và nâng cao trải nghiệm của
khách hàng.
(+) Có thế mạnh về mạng lưới khách hàng, nguồn nhân (-) Ít kinh nghiệm trong lĩnh vực tài chính ngân hàng,
lực giàu kinh nghiệm, hạ tầng công nghệ thông tin và thiếu nền tảng khách hàng, hệ thống kiểm soát tuân
thanh toán được đầu tư lớn, cơ chế quản lý rủi ro tốt thủ nội bộ, quản lý rủi ro còn yếu
Nguồn: Phạm Tiến Dũng (2018)
Do hoạt động của Fintech tại Việt Nam đang còn trong giai đoạn ban đầu, nên các
tác động cụ thể chưa thực sự rõ nét, mà mới chỉ tập trung ở hoạt động thanh toán. Hầu
hết các công ty Fintech ở Việt Nam chủ yếu trong lĩnh vực thanh toán, do khung pháp
lý về hoạt động này đã khá rõ ràng. Có 27 công ty đã đăng ký với NHNN để thực hiện
dịch vụ trung gian thanh toán. Thanh toán di động trở thành xu hướng với các công
nghệ như mã QR/tiếp xúc trường gần NFC/số hóa thông tin thẻ (tokenization)/Ví điện
tử. Số lượng dịch vụ ví điện tử hiện đã tăng lên 24. Có 12 ngân hàng đã triển khai dịch
vụ thanh toán QR Code với hơn 5.000 điểm chấp nhận thanh toán. Số tổ chức triển khai
dịch vụ thanh toán qua Internet tăng lên 78, trong khi có 41 tổ chức triển khai dịch vụ
thanh toán điện thoại di động (Phạm Tiến Dũng, 2018).
Bảng 2: Thanh toán không dùng tiền mặt qua các kênh hiện đại tại Việt Nam
Số lượng giao dịch 2017 So với Giá trị giao dịch 2017 So với
(triệu giao dịch) 2016 (nghìn tỷ đồng) 2016
Thông qua kênh Internet 191 +52% 13,000 +88%
Thông qua kênh điện thoại di động 131 +34% 390 +127%
Nguồn: Vụ Thanh toán, Ngân hàng Nhà nước (2018)
30
- Kỷ yếu HộI THảO KHOA HọC QUốC GIA
"CÁCH MạNG CÔNG NGHIệP 4.0 VÀ NHữNG ĐổI MớI TRONG LĨNH VựC TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG"
Như vậy, trong năm 2017, quy mô và giá trị giao dịch của các hình thức thanh toán
qua Internet và điện thoại di động đã tăng lên hết sức đáng kể, với sự đóng góp rất lớn
của các công ty Fintech và sự nỗ lực của các NHTM trong việc ứng dụng Fintech.
Ngoài hoạt động thanh toán đã có những bước khởi sắc và tác động nhất định, các
lĩnh vực khác của Fintech tại Việt Nam còn khá kém phát triển. Cụ thể, việc áp dụng
e-KYC trong nghiệp vụ và quản trị ngân hàng Việt Nam chỉ mới ở mức thử nghiệm, như
kết hợp nhận diện khách hàng trực tiếp với nhận diện qua điện thoại hoặc camera. Các
hoạt động P2P lending, blockchain và Open APIs chưa có khung pháp lý thử nghiệm.
Các dịch vụ ứng dụng như thẩm định và chấm điểm khách hàng hay cung cấp dữ liệu
lớn của khách hàng cho ngân hàng còn mang tính chất lẻ tẻ, do ngân hàng tự quyết định
khi làm việc với Fintech. Một số ví dụ điển hình trong hợp tác của Fintech với ngân hàng
thời gian qua tại Việt Nam là:
- Các chương trình thử nghiệm (đã hoàn tất) về hợp tác giữa ngân hàng và công
ty Fintech trong phát triển các ví điện tử (Vietcombank – MOMO, MB – Viettel,
PGBank – Petrolimex), sản phẩm Ví Việt của LienVietPostBank.
- Vietinbank hợp tác với công ty Opportunity Network (ON) để cung cấp nền tảng số
cho kết nối doanh nghiệp khách hàng của Vietinbank với trên 15000 doanh nghiệp
ở 113 quốc gia là thành viên của ON.
- VIB kết hợp với công ty Weezi ra mắt sản phẩm MyVIB Keyboard, một ứng dụng
chuyển tiền qua mạng xã hội.
- Techcombank cùng với Fastacahs giới thiệu tính năng F@st Mobile, phương thức
chuyển tiền nhanh chóng quan Facebook và Google+.
(Nguồn: ADB (2016), Nghiêm Thanh Sơn (2018), Nguyễn Thùy Dương (2018))
Tuy vậy, hoạt động Fintech tại Việt Nam còn kém phát triển, các tác động tích cực
đang ở mức tiềm năng và nhỏ lẻ, trong khi một số tác động tiêu cực đã xuất hiện. Một số
ngân hàng còn ngại ngùng chưa mở rộng cửa hợp tác với Fintech. Các quy trình thủ tục,
đặc biệt là quy trình đấu thầu, hạn chế sự tham gia của Fintech do các yêu cầu về báo cáo
tài chính. Một vài công ty Fintech strong lĩnh vực blockchain và P2P lending đang tạo ra
một số vụ việc xấu. Cụ thể, công ty Modern Tech lừa đảo hơn 15.000 tỷ thông qua bán
tiền ảo iFan và Pincoin cho 32.000 nhà đầu tư đầu năm 2018 (Thái Phương & Thy Thơ,
2018). Các lo ngại về việc bảo mật thông tin khách hàng và bảo vệ khách hàng tăng lên
khi các vụ tội phạm công nghệ ngày càng nhiều (Lê Thanh Tâm & Phạm Thị Thu Thảo,
2018).
31
- Kỷ yếu HộI THảO KHOA HọC QUốC GIA
"CÁCH MạNG CÔNG NGHIệP 4.0 VÀ NHữNG ĐổI MớI TRONG LĨNH VựC TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG"
3. Một số khuyến nghị
Để tận dụng được tiềm năng phát triển của Fintech Việt Nam, tăng các tác động tích
cực, giảm các tác động tiêu cực đến ngân hàng, cần có sự tham gia của nhiều bên có liên
quan trong hệ sinh thái Fintech.
• Đối với các cơ quan quản lý:
- Ngân hàng Nhà nước cần: (i) nghiên cứu, học tập kinh nghiệm của một số quốc gia
trong khu vực và trên thế giới để xây dựng và hoàn thiện khuôn khổ pháp lý đối với
một số vấn đề như mô hình ngân hàng đại lý (agent banking), e-KYC, tiền điện tử
(e-money), bảo vệ khách hàng và quản lý dữ liệu khách hàng, quản trị rủi ro, phòng
chống rửa tiền trong điều kiện áp dụng Cách mạng công nghiệp 4.0; (ii) xây dựng
khuôn khổ pháp lý thử nghiệm (Regulatory Sandbox Framework) cho Fintech. Một
số quốc gia như Thái Lan, Ấn Độ, Trung Quốc, Hàn Quốc đã phát triển các hình
thức Fintech này. Việt Nam hoàn toàn có thể học tập các mô hình đó.
- Bên cạnh đó, NHNN cần phối hợp với các bộ ngành có liên quan để thống nhất việc
ứng dụng Fintech trong các hoạt động quản trị ngân hàng như: Bộ Công An và Bộ
Tư pháp về vấn đề chấp nhận e-KYC và chia sẻ dữ liệu thông tin quốc gia về nhận
dạng khách hàng, giảm thiểu tội phạm công nghệ cao; Bộ Kế hoạch và Đầu tư về
vấn đề đấu thầu chọn công ty start-up Fintech khi thực hiện các dự án với các ngân
hàng có vốn chủ sở hữu chính do Nhà nước nắm giữ; Bộ Tài chính về vấn đề chứng
từ điện tử và thuế khóa liên quan tới Fintech; Bộ Giáo dục về giáo dục tài chính trên
phạm vi toàn quốc; Bộ Khoa học và Công nghệ về đảm bảo an ninh mạng và ứng
dụng các công nghệ mới trong lĩnh vực tài chính ngân hàng.
• Đối với các ngân hàng thương mại: (i) lựa chọn các cách thức hợp tác phù hợp
với Fintech, tận dụng lợi thế của Fintech để phát triển hoạt động và quản trị ngân hàng
toàn diện hơn. Ngân hàng có thể lựa chọn mua giải pháp của Fintech, liên doanh liên
kết hoặc mở công ty con riêng về Fintech. Cá thể hóa các thỏa thuận tiềm năng, tối ưu
hóa sự đổi mới, sáng tạo của các công ty Fintech nhằm bổ sung cho các điểm chưa hoàn
thiện của mình. Lựa chọn các công ty Fintech phù hợp để không ảnh hưởng tới vị thế và
niềm tin của khách hàng, luôn đảm bảo an toàn của ngân hàng và cả hệ thống; (ii) trước
mắt, sử dụng Fintech để tập trung vào thị trường khách hàng bán lẻ, và thử nghiệm dần
với các lĩnh vực khó hơn như tài trợ thương mại quốc tế; (iii) hiểu rõ thế mạnh và điểm
yếu cũng như sự khác biệt của các công ty Fintech và của ngân hàng, đặc biệt là sự khác
biệt về văn hóa (Fintech là mô hình nhanh gọn, chấp nhận rủi ro, trong khi ngân hàng là
mô hình thể chế chắc chắn, thận trọng, đặt mục tiêu an toàn lên hàng đầu), từ đó có các
32
- Kỷ yếu HộI THảO KHOA HọC QUốC GIA
"CÁCH MạNG CÔNG NGHIệP 4.0 VÀ NHữNG ĐổI MớI TRONG LĨNH VựC TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG"
giải pháp dung hòa sự khác biệt để tối ưu hóa các điểm mạnh của Fintech; (iv) học tập
bài học kinh nghiệm tốt và cả các bài học thất bại của các ngân hàng trên thế giới trong
công tác phối hợp làm việc với Fintech, đặc biệt ở các nước ASEAN.
• Đối với các công ty Fintech: (i) sử dụng công nghệ phù hợp, từ đó mở rộng mạng
lưới để tăng mức độ tiếp cận tốt hơn với khách hàng tiềm năng trong cung cấp các dịch
vụ tài chính ngân hàng điện tử; (ii) đảm bảo chất lượng dịch vụ cao, an toàn với chi phí
hợp lý để thỏa mãn nhu cầu và xây dựng niềm tin với khách hàng; (iii) am hiểu định
hướng, chiến lược, khẩu vị rủi ro, vị thế, thị phần của ngân hàng đối tác để phát triển
sản phẩm phù hợp với sứ mệnh và giá trị cốt lõi của ngân hàng; (iv) sử dụng nhiều
phương pháp PR hơn, đặc biệt là thông qua các chiến dịch quảng bá truyền miệng (word
of mouth) hoặc các câu chuyện (Story telling) để cho phép khách hàng biết về các sản
phẩm tài chính ngân hàng; (iv) đào tạo các đại lý kỹ lưỡng hơn và lựa chọn các đại lý cẩn
thận để tránh các rủi ro đạo đức và lựa chọn đối nghịch có thể xảy ra; và (v) cạnh tranh,
nhưng đồng thời, hợp tác với ngành ngân hàng để tận dụng cơ sở khách hàng tiềm năng
và thị trường của họ theo cơ chế hai bên cùng có lợi.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. ADB (2016), Moving towards greater financial inclusion: An assessment of the
Vietnam case, Internal Report of ADB TA 8587-VIE on Supporting Microfinance
Development Program.
2. ADB (2017), Fintech Vietnam Ecosystem Report, Internal Report of Mekong
Business Initiative project.
3. Banjo, S. (2018), “It’s Becoming Harder to Use Cash in China”, Bloomberg, February
13, 2018. https://www.bloomberg.com/news/articles/2018-02-13/it-s-becoming-
harder-to-use-cash-in-china
4. Briggman, S. (2015), Oc 28, 2015, Crowdfunding vs Peer to Peer Lending, https://
www.crowdcrux.com/crowdfunding-vs-peer-to-peer-lending/
5. Browne, R (2018), HSBC says it’s made the world’s first trade finance transaction
using blockchain, https://www.cnbc.com/2018/05/14/hsbc-makes-worlds-first-trade-
finance-transaction-using-blockchain.html, Published 6:16 AM ET Mon, 14 May 2018.
6. Chính phủ (2012), Nghị định 101/2012/NĐ-CP ngày 22/11/2012 về thanh toán không
dùng tiền mặt.
33
- Kỷ yếu HộI THảO KHOA HọC QUốC GIA
"CÁCH MạNG CÔNG NGHIệP 4.0 VÀ NHữNG ĐổI MớI TRONG LĨNH VựC TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG"
7. Chính Phủ (2016), Quyết định 844/QĐ-TTg ngày 18/4/2016 của Thủ tướng Chính
phủ về Phê duyệt Đề án “Hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia đến
năm 2025”.
8. Dân số (2018), https://danso.org/viet-nam/#thap
9. DBS & EY (2016), “The Rise of Fintech in China: Redefining Financial Services”, A
Collaborative Report by DBS & EY.
10. Dorfleitner, G., L. Hornuf, M. Schmitt & M. Weber (2017), Fintech in Germany,
Chapter 1, Springer.
11. Janowitz, A & L. Biagi (2018), “Fintech Report 2018 – Digital Payment”, Statista
Digital Market Outlook - Segment Report, https://www.statista.com/study/41122/
Fintech-report-digital-payments/
12. Mackenzie, A. (2015), “The Fintech Revolution”, London Business School Review, 28
September 2015, https://doi.org/10.1111/2057-1615.12059
13. Menon, P (2017), E-KYC Explained, July 14, 2017, https://www.5paisa.com/articles/
e-kyc-explained
14. Ngân hàng Nhà nước (2014), Thông tư 39/2014/TT-NHNN ngày 11/12/2014 quy
định về trung gian thanh toán.
15. Ngân hàng Nhà nước (2017), Quyết định số 328/QĐ-NHNN ngày 16/3/2017 về việc
thành lập Ban Chỉ đạo về lĩnh vực công nghệ tài chính của NHNN.
16. Ngân hàng Nhà nước (2018), Điều tra khảo sát của NHNN về vấn đề hợp tác và
cạnh tranh của Fintech với Ngân hàng thương mại, Vụ Thanh Toán, 2018.
17. Nghiêm Thanh Sơn (2018), “Ngân hàng – Fintech: Sự bổ trợ hoàn hảo”, Đặc san
Toàn cảnh Ngân hàng Việt Nam của Báo Đầu tư, số tháng 5/2018, trang 230-231.
18. Nguyễn Thùy Dương (2018), “Ngân hàng và Fintech: Những mảnh ghép trong hệ
sinh thái ngân hàng số”, Đặc san Toàn cảnh Ngân hàng Việt Nam của Báo Đầu tư, số
tháng 5/2018, trang 216-217.
19. Patrick, S. (2017), “Taming the Beast: A Scientific Definition of Fintech”, Journal of
Innovation Management, 4 (4): 32–54. ISSN 2183-0606
20. Phạm Tiến Dũng (2018), “Phát triển Fintech hướng tới thúc đẩy phổ cập tài chính
tại Việt Nam”, Bài trình bày tại Diễn đàn Fintech Việt Nam, 30/5/2018.
34
- Kỷ yếu HộI THảO KHOA HọC QUốC GIA
"CÁCH MạNG CÔNG NGHIệP 4.0 VÀ NHữNG ĐổI MớI TRONG LĨNH VựC TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG"
21. Proffitt, B. (2013), “What APIs Are And Why They’re Important”, Readwrite,
September 19, 2013, https://readwrite.com/2013/09/19/api-defined/
22. Quốc Hội (2010), Luật Ngân hàng Nhà nước 2010.
23. Thái Phương & Thy Thơ (2018), “Vỡ đường dây đa cấp 15.000 tỉ: Ham lời tiền
ảo, mất trắng tiền thật”, Báo Người Lao Động ngày 10/4/2018, https://nld.com.
vn/thoi-su/vo-duong-day-da-cap-15000-ti-ham-loi-tien-ao-mat-trang-tien-
that-20180409215911705.htm
24. The Economist (2015), “Blockchains: The great chain of being sure about things”, The
Economist. 31 October 2015. https://www.economist.com/briefing/2015/10/31/the-
great-chain-of-being-sure-about-things
25. The Economist (2017), “What is peer-to-peer lending”, The Economist, October 02,
2017, https://economictimes.indiatimes.com/wealth/borrow/what-is-peer-to-peer-
lending/articleshow/60890857.cms
26. Topica (2017), “Vietnam Startup Investment Insight: 2017 in Snapshot”, Topica
Founder Institute, https://www.slideshare.net/topicafounderinstitute/vietnam-
startup-deals-insight-2017-87618940
27. Vietnam Digital Landscape (2018), “Vietnam Digital in 2018 in Vietnam”, https://
www.slideshare.net/kiditer/vietnam-digital-landscape-2018
28. WEF (2017), “Beyond Fintech: How the Successes and Failures of New Entrants
Are Reshaping the Financial System”, Part of the Future of Financial Services Series –
Prepared in collaboration with Deloitte, August 2017.
Ngày gửi bài: 20/5/2018
Ngày gửi lại bài: 04/6/2018
Ngày duyệt đăng: 05/06/2018
35
nguon tai.lieu . vn