Xem mẫu

  1. 337 TÁC ĐỘNG CỦA CHUYỂN ĐỔI SỐ VÀ CÁC BƯỚC CHUYỂN ĐỔI ĐỐI VỚI NGÀNH NGÂN HÀNG TẠI VIỆT NAM Nguyễn Lê Đình Quý, Đại học FPT Mai Xuân Bình, Trần Thanh Hải Khoa Quản trị kinh doanh, Đại học Duy Tân TÓM TẮT Đối với ngân hàng, chuyển đổi số không chỉ giới hạn trong việc số hóa dữ liệu giao dịch mà thông qua đó còn tập trung nâng cao trải nghiệm của khách hàng và được thực hiện nhờ quá trình tự động hóa, sử dụng khoa học phân tích dữ liệu để hiểu biết sâu sắc về khách hàng, nhằm đưa ra các sản phẩm dịch vụ phù hợp đáp ứng với sự phát triển công nghệ ngân hàng. Chuyển đổi số đang có nhiều tác động đến ngành ngân hàng và đặt ra vấn đề cấp thiết cần chuyển đổi để phù hợp hơn với bối cảnh hiện nay. Bằng phương pháp thu thập thông tin và dữ liệu thứ cấp sau đó phân tích và tổng hợp, bài viết này đã đưa ra tổng quan bối cảnh và các bước chuyển đổi đối với ngành ngân hàng tại Việt Nam, cùng với các khuyến nghị đối với cơ quan quản lý và ngân hàng. Từ khóa: ngân hàng số, chuyển đổi số, bước chuyển đổi. 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Công nghệ số đang dần thay đổi cơ bản hình thức cung ứng các dịch vụ tài chính - ngân hàng. Cách mạng công nghiệp 4.0 (CMCN 4.0) đang hàng ngày hàng giờ làm thay đổi diện mạo các ngân hàng, các đơn vị cung cấp dịch vụ tài chính hay các ngành dịch vụ khác trên thế giới. Ngành công nghiệp ngân hàng đang ứng dụng nhiều hơn các công nghệ tiên tiến trong cung cấp các sản phẩm dịch vụ tài chính sáng tạo như: Internet kết nối vạn vật IoT, trí tuệ nhân tạo (AI), học máy (ML), phân tích dữ liệu nâng cao, công nghệ sổ cái phân tán (DLT), điện toán đám mây và các giao diện lập trình ứng dụng (APIs). Một nhân tố nữa góp phần tạo nên cách mạng trong ngành tài chính số, đó chính là sự tham gia sâu rộng của các công ty công nghệ trong lĩnh vực tài chính (Fintech). Tuy nhiên, sự phát triển và ứng dụng công nghệ số trong ngành ngân hàng cũng đi kèm không ít thách thức về thể chế, vốn đầu tư lớn, về nguồn nhân lực ngân hàng có đầy đủ kiến thức và năng lực để nắm bắt các công nghệ mới và các kỹ năng mới trong hoạt động ngân hàng – tài chính thời kỳ số hóa, về năng lực kiểm soát, xử lý được những rủi ro mới một cách hiệu quả, cũng như cả vấn đề bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng tài chính.
  2. 338 Nhóm tác giả bằng phương pháp thu thập thông tin và dữ liệu thứ cấp sau đó phân tích và tổng hợp để giới thiểu tổng quan bối cảnh, vai trò và các tác động đối với ngành ngân hàng trong chuyển đổi số. Qua đó, nhóm tác giả cũng có một số khuyến nghị giải pháp đối với ngành ngân hàng với các ngân hàng trong bối cảnh đó. 2. TỔNG QUAN NGÀNH NGÂN HÀNG TRONG CHUYỂN ĐỔI SỐ. 2.1. Bối cảnh và vai trò của ngành ngân hàng trong chuyển đổi số Theo nghiên cứu của Temenos (2017), ngân hàng số là ngân hàng tập trung vào trải nghiệm, bao gồm: - Trải nghiệm khách hàng: Cho phép khách hàng tự phục vụ trên nhiều thiết bị trong các môi trường, bối cảnh tùy biến để tạo nên những trải nghiệm cá nhân phù hợp. - Trải nghiệm triển khai: Giúp các ngân hàng cung cấp dịch vụ khi khách hàng có nhu cầu với sự tham gia tối thiểu của con người, quy trình xử lý nhanh trong khi vẫn cho phép nhân viên phục vụ khách hàng qua các kênh ngoại tuyến và liên tục cải tiến sản phẩm và quy trình. The báo cáo của Ngân hàng Thế giới (WB, 2018), việc chuyển đổi số sẽ giúp cho ngân hàng phát triển các sản phẩm dịch vụ điện tử như các công ty công nghệ tài chính. Ứng dụng chuyển đổi số trong hoạt động ngân hàng sẽ làm giảm nhân sự, giảm bớt giấy tờ giao dịch… do đó, sẽ làm giảm chi phí xử lý trên hệ thống số. Theo nghiên cứu của Shahar (2017), một ngân hàng số hóa chuyên cho vay bất động sản đã cắt giảm 70% chi phí xử lý trên mỗi khoản vay. Việc số hóa ngân hàng giúp cho ngân hàng đáp ứng được kỳ vọng ngày càng cao cũng như xu hướng giao dịch trên các thiết bị điện tử của khách hàng, đơn giản hóa quy trình, thủ tục xử lý, câng cao tính cạnh tranh, cắt giảm chi phí. 2.2. Tác động của chuyển đổi số đến ngành ngân hàng tại Việt Nam Tài chính – ngân hàng là khu vực năng động nhất ở Việt Nam về triển khai nghiên cứu và ứng dụng cuộc CMCN 4.0. Các xu hướng nổi bật trong ứng dụng CMCN 4.0 ở Việt Nam bao gồm tăng cường phát triển ngân hàng số, ứng dụng dữ liệu lớn, ứng dụng trí tuệ nhân tạo vào phục vụ khách hàng trong ngân hàng số, ứng dụng công nghệ điện toán đám mây và nghiên cứu, ứng dụng tự động hóa quy trình bằng rôbốt. Công nghệ tài chính (Financial technology, viết tắt là Fintech) góp phần làm thay đổi sâu sắc diện mạo của ngành công nghiệp tài chính – ngân hàng ở Việt Nam. Theo Khảo sát toàn cảnh về Fintech của khu vực ASEAN 2018 của Ernst & Young (một trong bốn công
  3. 339 ty kiểm toán hàng đầu thế giới hiện nay), Việt Nam hiện có khoảng 78 công ty Fintech đang hoạt động với tổng số vốn đầu tư lên tới 129 triệu USD. Trong đó, hiện có tới 90% các khoản thanh toán đang dùng tiền mặt và các công ty Fintech Việt Nam tập trung khá nhiều cho lĩnh vực thanh toán, chiếm 47% trên tổng số 78 công ty Việt Nam, đây là tỷ lệ cao nhất trong khu vực ASEAN. Các sản phẩm chủ yếu của Fintech trong lĩnh vực ngân hàng như: Ví điện tử, chuyển tiền ngang cấp, dịch vụ cung cấp thông tin tài chính, cho vay ngang hàng, gọi vốn cộng đồng, tiền thuật toán Bitcoin... Có thể nói, khu vực dịch vụ ngân hàng ở Việt Nam đã có phản ứng nhanh nhất so với các khu vực khác trong việc chủ động nghiên cứu và ứng dụng khoa học - công nghệ của CMCN 4.0 vào đổi mới cách thức quản trị ngân hàng; đổi mới quan hệ khách hàng; hiện đại hóa cách thức thực hiện giao dịch, các kênh cung cấp, phân phối sản phẩm; ứng dụng dữ liệu lớn; ứng dụng trí tuệ nhân tạo; ứng dụng điện toán đám mây; công nghệ Fintech trong thanh toán... Nguyên nhân của sự bứt phá này ở khu vực ngân hàng là: Chi phí giảm thúc đẩy lan tỏa rộng rãi công nghệ trong khu vực tài chính – ngân hàng; Việc kết hợp nhiều loại hình công nghệ số, hội tụ công nghệ số với các công nghệ khác giúp nâng cao hiệu quả hoạt động, làm cho quá trình vận hành trở nên đơn giản hơn, chính xác hơn; Hệ thống ngân hàng hiện nay đang tiếp cận khá tốt với xu thế công nghệ trên thế giới. Tuy nhiên, so với quy mô tổng thể của cả hệ thống ngân hàng Việt Nam, có thể thấy việc nghiên cứu, chủ động ứng dụng công nghệ của CMCN 4.0 còn rời rạc và chỉ diễn ra chủ yếu ở các tổ chức ngân hàng lớn - là nhóm có thế mạnh sẵn có về khoa học - công nghệ trước đó nhận thức được tầm quan trọng của CMCN 4.0. Bên cạnh đó, vẫn còn không ít tổ chức ngân hàng đang trong giai đoạn nghiên cứu hoặc chưa có động thái gì. Nhóm này chủ yếu là các ngân hàng có quy mô nhỏ, nền tảng khoa học - công nghệ còn hạn chế, chưa bắt kịp được xu thế thay đổi của CMCN 4.0 trong nước và trên thế giới. Bối cảnh này sẽ tạo áp lực lớn cho nhóm còn lại trước việc phải cấu trúc lại hoạt động trên nền tảng ứng dụng công nghệ của CMCN 4.0 để tồn tại. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang có tác động đến hầu hết các lĩnh vực; trong đó có tài chính ngân hàng, theo đó, làn sóng chuyển đổi số của các ngân hàng đã diễn ra mạnh mẽ trong thời gian gần đây. Cùng chung xu hướng quốc tế ấy, chuyển đổi số trong lĩnh vực ngân hàng tại Việt Nam là tất yếu, giúp ngành ngân hàng vượt lên thách thức của kỷ nguyên số bởi công nghệ đang được ứng dụng vào mọi mặt của cuộc sống. Ngân hàng
  4. 340 số có thể coi là đích trong khi chuyển đổi số là một quá trình với nhiều cấp độ hướng tới ngân hàng số đích thực. Ngân hàng số là ngân hàng có thể thực hiện hầu hết các giao dịch ngân hàng bằng hình thức trực tuyến thông qua Internet, khách hàng giao dịch không phải đến chi nhánh ngân hàng và giảm thiểu đến mức tối đa những thủ tục giấy tờ liên quan. So với mô hình ngân hàng truyền thống hay ngân hàng điện tử thì ngân hàng số có nhiều điểm khác biệt. Nếu như ngân hàng điện tử (Internet banking) chỉ cho phép khách hàng thực hiện một số tính năng như thanh toán, chuyển tiền hay kiểm tra số dư tài khoản thì ngân hàng số có thể cung cấp tất cả các sản phẩm dịch vụ trực tuyến, cung cấp nhiều sản phẩm tài chính mới như thanh toán di động, cho vay tiêu dùng tín chấp trên nền tảng công nghệ phân tích dữ liệu tiên tiến, sản phẩm bảo hiểm số, đầu tư số... Việt Nam được đánh giá là thị trường đầy tiềm năng, cơ hội cho phát triển ngân hàng số với 96,5 triệu dân, cơ cấu dân số trẻ (người trưởng thành chiếm khoảng 70%), đồng thời 72% dân số sở hữu điện thoại thông minh, 130 triệu thuê bao di động, 64 triệu người dùng Internet (chiếm 67% dân số). Theo một nghiên cứu của Ngân hàng Nhà nước, hiện nay, 94% ngân hàng bước đầu triển khai hoặc đang nghiên cứu, xây dựng chiến lược chuyển đổi số, trong đó 59% ngân hàng đã bắt đầu triển khai chuyển đổi số trên thực tế. 6% ngân hàng hiện chưa tính đến việc xây dựng một chiến lược chuyển đổi số tổng thể. Phần lớn các ngân hàng Việt Nam đã triển khai ngân hàng số ở cấp độ chuyển đổi về kênh giao tiếp và quy trình, chuyển đổi về nền tảng dữ liệu mới được nghiên cứu, triển khai tại một số ngân hàng tiên phong. 2.3. Các bước chuyển đổi số để trở thành ngân hàng số toàn diện Theo nghiên cứu của Mersch (2017), có 5 bước để thực hiện chuyển đổi số như sau: Bước 1: Đánh giá để hiểu biết các bước ứng dụng và công nghệ. Ứng dụng công nghệ tài chính trong chuyển đổi số của ngân hàng hiện nay. Trước khi thực hiện chuyển đổi số, ngân hàng phải đánh giá được chi phí và hiệu quả hoạt động của các ứng dụng và công nghệ hiện có nhằm nhận diện được những yếu kém về công nghệ và lãng phí về tài chính. Hiện nay, các nền tảng khoa học phân tích dữ liệu tự động giám sát và quản lý công nghệ trên hệ thống, có thể giúp phát hiện sớm các vấn đề khi vận hành, tối ưu hóa chi tiêu cho công nghệ.
  5. 341 Bước 2: Đơn giản hóa cơ sở hạ tầng, ứng dụng và quy trình dựa trên các hiểu biết thu được từ việc đánh giá hiểu biết các bước ứng dụng và công nghệ. Việc ứng dụng hệ thống công nghệ dư thừa, trùng lắp, hay ít sử dụng làm tăng chi phí hoạt động, giảm hiệu quả và làm trì trệ khả năng đổi mới, sáng tạo của các ngân hàng. Do đó, việc đơn giản hóa cơ sở hạ tầng, ứng dụng và các quy trình sẽ giúp cho ngân hàng thiết kế lại để phù hợp với mô hình ngân hàng số toàn diện. Bước 3: Đẩy nhanh quá trình đổi mới thông qua các nền tảng module. Các nền tảng module tích hợp các giao diện lập trình ứng dụng cũng đóng góp vào quá trình tích hợp hệ thống ngân hàng với nền kinh tế giao diện lập trình ứng dụng. Ngân hàng cũng có thể lựa chọn các module và giao diện lập trình ứng dụng dựa trên các ưu tiên kinh doanh của mình và tốc độ hiện đại hóa mong muốn. Bước 4: Thiết kế các quy trình và ứng dụng dựa trên kinh nghiệm có được. Thiết kế của ngân hàng nên dựa trên sự hiểu biết sâu sắc về hành vi và cách sử dụng của khách hàng để tiếp tục đổi mới các dịch vụ và tập trung vào trải nghiệm của khách hàng. Các nền tảng khoa học phân tích dữ liệu có thể giúp đơn giản và tối ưu hóa việc áp dụng dữ liệu lớn thông qua cung cấp các giải pháp phân tích tích hợp sẵn và dễ sử dụng cho nhóm khách hàng doanh nghiệp. Bước 5: Xây dựng các ứng dụng mới có thể hỗ trợ các mô hình kinh doanh mới, danh mục sản phẩm và kênh phân phối mới. Ngân hàng tập trung xây dựng các ứng dụng ngân hàng mới, thông minh, nhằm tạo ra lợi thế người đi đầu trong ứng dụng công nghệ số. Phát triển các ứng dụng đổi mới và thông minh cho phép ngân hàng thu hút được các phân khúc khách hàng mới nhằm tạo ra kênh thu nhập mới. 2.4. Biểu hiện của ngân hàng số Biểu hiện cơ bản của một ngân hàng khi ứng dụng công nghệ tài chính trong ngân hàng số là: Một là, thay đổi tương tác với khách hàng: Thể hiện ở việc ngân hàng cung cấp các dịch vụ tự phục vụ. Đây là dịch vụ đánh dấu sự khác biệt đối với một ngân hàng có ứng dụng chuỗi khối và không ứng dụng chuỗi khối. Hai là, thay đổi hình thức của chi nhánh/phòng giao dịch: Thể hiện rõ nét là chi nhánh/phòng giao dịch chuyển sang địa điểm kinh doanh, nơi chủ yếu để tiếp thị sản phẩm và cung cấp giá trị tăng thêm cho khách hàng.
  6. 342 Ba là, thay đổi cách thức làm việc của nhân viên: Nhân viên sẽ tập trung vào xây dựng mối quan hệ với khách hàng, thiết kế và quảng bá sản phẩm của ngân hàng, đặc biệt là những sản phẩm có ứng dụng Fintech. Bốn là, đối diện với nhiều đối thủ cạnh tranh mới: Không chỉ cạnh tranh với các đối thủ trong ngành tài chính – ngân hàng mà còn cạnh tranh với các tổ chức khác. Cạnh tranh chủ yếu là các sản phẩm ứng dụng chuỗi số. Năm là, mô hình hoạt động mới sẽ chiếm ưu thế hơn so với mô hình truyền thống. Việc ứng dụng Fintech trong ngân hàng số sẽ đưa ra các sản phẩm công nghệ cao, tạo sự khác biệt so với các sản phẩm truyền thống và mang lại hiệu quả cao hơn.
  7. 343 3. KIẾN NGHỊ ĐỐI VỚI CƠ QUAN QUẢN LÝ VÀ NGÂN HÀNG Thứ nhất, hoàn thiện khuôn khổ pháp lý theo hướng tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển ngân hàng số, đồng thời chú trọng bảo vệ quyền lợi và lợi ích các bên tham gia thị trường, trong đó ưu tiên việc xem xét các quy định cho phép định danh khách hàng điện tử. Nghiên cứu kinh nghiệm của một số quốc gia trong chính sách quản lý và phát triển ngân hàng số cho thấy các quốc gia đều có chính sách thân thiện với phát triển ngân hàng số (Singapore, Ấn Độ, Trung Quốc, Hàn Quốc, các quốc gia ASEAN, Liên minh châu Âu). Các chính sách tạo lập môi trường cho phát triển ngân hàng số gồm các chính sách tạo dựng nền tảng thông tin, cơ sở dữ liệu công dân quốc gia, quy định về quy trình định danh khách hàng điện tử và hoàn thiện hạ tầng hỗ trợ. Ngoài ra, các quốc gia cũng ban hành các chương trình, kế hoạch hành động khuyến khích sự phát triển của thanh toán trực tuyến, khuyến khích công nghệ tài chính Fintech phát triển, các chính sách liên quan tới nguồn nhân lực, bảo vệ an toàn người dùng, nâng cao an ninh mạng. Việc triển khai quy trình khai nhận diện khách hàng điện tử có thể được thực hiện theo lộ trình hoặc có những biện pháp khuyến khích khách hàng thực hiện quy trình định danh điện tử. Một số biện pháp có thể áp dụng như: Quy định về giá trị chuyển khoản tối đa đối với các loại tài khoản đã được định danh và chưa được định danh (Đây là các quy định đang được áp dụng bởi các sàn giao dịch tiền điện tử trên thế giới). Một biện pháp khác là áp dụng quy trình định danh điện tử được thực hiện đơn giản hơn đối với những khách hàng được giới thiệu bởi một khách hàng đã được thực hiện đầy đủ quy trình nhận diện và các khách hàng hiện hữu tại ngân hàng hoặc ngân hàng khác. Thứ hai, Ngân hàng Nhà nước cần nhanh chóng hoàn thiện và áp dụng các cơ chế khuyến khích sự phát triển của công nghệ tài chính, đặc biệt là đối với hoàn thiện và áp dụng Khung thử nghiệm pháp lý (Regulatory Sandbox) đối với phát triển công nghệ tài chính. Ngân hàng Nhà nước hiện nay đang trong quá trình xây dựng khung pháp lý thử nghiệm cho công nghệ tài chính (Fintech Regulatory Sandbox). Khung pháp lý thử nghiệm cần quy định rõ ràng về lĩnh vực phạm vi hoạt động; sản phẩm dịch vụ; lợi ích của người tiêu dùng và nền kinh tế; mức độ thử nghiệm; quy trình đăng ký báo cáo; thử nghiệm và giám sát; công bố sản phẩm dịch vụ thành công và khả năng nhân rộng. Các tổ chức quốc tế hiện nay đang có các hỗ trợ kỹ thuật hoặc các tài trợ tài chính cho hoạt động tiếp cận và triển khai khung thử nghiệm pháp lý là Aspen Institute, Bill và Melinda Gates Foundation, Cambridge Center for Alternative Finance, CGAP, FSD Africa, Omidyar Network, UNCDF, Ngân hàng thế giới. Tại Việt Nam, khung thử nghiệm pháp lý Sandbox có thể tập trung trước mắt vào thử nghiệm các hoạt động đổi mới
  8. 344 trong quy trình nhận diện khách hàng điện tử, thí điểm những công nghệ mới trong ngân hàng, tài chính. Hiện nay, ngành Ngân hàng đang xúc tiến một số nghiên cứu có tính định hướng lớn như: Nghiên cứu quản lý hoạt động huy động và cho vay ngang hàng dựa trên nền tảng công nghệ cao, Xây dựng hệ thống định danh khách hàng điện tử phục vụ cho việc nhận biết khách hàng trong các dịch vụ tài chính - ngân hàng, Nghiên cứu giao diện kết nối ứng dụng mở (Open API) để ứng dụng trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng tại Việt Nam. Việc nghiên cứu các hoạt động này có thể kết hợp để triển khai trong khung thử nghiệm pháp lý Sandbox. Đặc biệt, khung thử nghiệm pháp lý chỉ nên coi là một cấu phần trong chiến lược tổng thể để phát triển ngân hàng số. Thứ ba, các cơ quan chức năng liên quan (như Ngân hàng Nhà nước, Bộ Giáo dục và đào tạo, Bộ Tài chính, Cơ quan truyền thông) và các đơn vị cung cấp dịch vụ ngân hàng số cần chú trọng việc giáo dục và phổ cập kiến thức tài chính, nâng cao nhận thức của người dùng khi sử dụng các dịch vụ tài chính số. Các cơ quan chức năng cần khuyến khích ngân hàng hướng dẫn và có các hình thức cung cấp thông tin cho khách hàng để nâng cao nhận thức của khách hàng khi sử dụng các dịch vụ ngân hàng số. Đây cũng là biện pháp được Cơ quan quản lý tiền tệ Singapore (MAS) khuyến khích các ngân hàng và hiệp hội các ngành công nghiệp đóng vai trò tiên phong trong nâng cao nhận thức của khách hàng về những lợi ích và rủi ro của các dịch vụ ngân hàng số trong Hướng dẫn quản lý rủi ro công nghệ và ngân hàng điện tử sửa đổi (IBTRM). Hành động này giúp thúc đẩy tạo lập môi trường ý thức về an toàn thông tin và nâng cao lòng tin của người sử dụng dịch vụ vào các hệ thống dịch vụ tài chính trực tuyến. TÀI LIỆU THAM KHẢO: 1. Đỗ Danh Thanh (2018), Chuyển đổi số: Xu hướng tất yếu của ngành Ngân hàng. 2. Minh Tâm (2019), “Nóng” cuộc đua chuyển đổi số giữa các ngân hàng. 3. Bank for International Settlement - BIS (2018), Digital currencies. http://www.bis.org/bcbs/publ/d431.htm. 4. Deloitte (2018), Fintech Regulatory Environment. http://2.deloitte.com. 5. E&Y (2018), ASEAN Fintech Census 2018. 6. Temenos (2017), Digital Banking. http://www.temenos.com. 7. WB (2018), http://data. Worldbank.org/indicator/it.cel. 8. Đào Văn Hùng, Phát triển khu vực tài chính – ngân hàng trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, Tạp chí Cộng sản số 6/2019. 13. Mersch, Y. (2017). Digital Base Money: an assessment from the ECB’s perspective. Speech at the Farewell ceremony for Pentti Hakkarainen, Deputy Governor of Suomen Pankki–Finlands Bank, Helsinki, 16.
nguon tai.lieu . vn