- Trang Chủ
- Kinh tế học
- Tác động của chỉ số năng lực logistics tới kết quả hoạt động thương mại quốc tế của Việt Nam
Xem mẫu
- TÁC ĐỘNG CỦA CHỈ SỐ NĂNG LỰC LOGISTICS TỚI KẾT QUẢ
HOẠT ĐỘNG THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM
GS,TS. Đặng Đình Đào - Trường Đại học Kinh tế quốc dân
ThS. Nguyễn Tiến Dũng - Trường Đại học Quy Nhơn
TS. Vũ Thị Nữ - Trường Đại học Quy Nhơn
Tóm tắt: Nghiên cứu này sử dụng mô hình lực hấp dẫn (Gravity model) để xem xét tác
động của chỉ số năng lực logistics quốc gia (LPI) lên kết quả họat động thương mại quốc
tế của Việt Nam từ năm 2007 đến năm 2018. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng chỉ số LPI có
tác động tích cực lên kết quả thương mại quốc tế của Việt Nam, kết quả này chỉ ra rằng khi
Việt Nam cải thiện chỉ số năng lực logistics sẽ làm tăng kim ngạch xuất, nhập khẩu của
Việt Nam. Bên cạnh đó, kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra trong 6 thành phần cấu thành nên
chỉ số LPI thì có 5 thành phần có tác động tích cực và có ý nghĩa thống kê lên kết quả
thương mại quốc tế của Việt Nam, đó là: Kết cấu hạ tầng, Vận tải quốc tế, Chất lượng dịch
vụ logistics, Khả năng theo dõi và truy xuất và Thời gian giao hàng. Dựa trên kết quả
nghiên cứu, nhóm tác giả đưa ra một số khuyến nghị giải pháp nhằm nâng cao năng lực
logistics từ đó thúc đấy sự phát triển thương mại quốc tế của Việt Nam trong tương lai.
Từ khóa: Thương mại quốc tế, chỉ số năng lực logistics quốc gia, LPI, mô hình lực hấp dẫn
THE IMPACT OF LOGISTICS PERFORMANCE ON
VIETNAM'S INTERNATIONAL TRADE
Abstract: This study uses the gravity model to examine the logistics performance index
(LPI) impact on Vietnam's international trade operation from 2007 to 2018. Research
results show that the LPI positively impacts Vietnam's global trade results. This result
indicates that when Vietnam improves LPI, it will increase import and export turnover. In
addition, the research results also suggest that five components in six components making
up the LPI index have a positive and statistically significant impact on Vietnam's
international trade results, including Infrastructure, Ease of Arranging Shipments, Quality
of Logistics Services, Tracking and Tracing, and Timeliness. Based on the research results,
the authors make some recommendations and solutions to improve LPI, thereby promoting
the development of the international trade of Vietnam in the future.
Keywords: International trade, logistics performance index, LPI, gravity model
1. Giới thiệu
Logistics ngày càng trở nên phổ biến và đóng vai trò rất quan trọng trong việc thúc
đẩy đầu tư trong nước, tăng cường thương mại nội địa cũng như thương mại quốc tế. Hơn
nữa, hoạt động logistics hiệu quả còn là chìa khóa cho sự phát triển chung của một nền
kinh tế. Một lý do thuyết phục để giải thích cho sự phát triển kinh tế vững chắc của các
428
- quốc gia và vùng lãnh thổ như Mỹ, Đức, Hồng Kông, Nhật Bản và Singapore đó chính là
hiệu quả trong hoạt động logistics (Armstrong & Associates Inc., 2016). Hoạt động
logistics hiệu quả sẽ giúp tăng khả năng cạnh tranh của một quốc gia, giảm chi phí giao
dịch và tăng tiềm năng hội nhập toàn cầu (Prawpan Oruangke, 2021). Bên cạnh đó, hoạt
động logistics hiệu quả cũng chính là giải pháp cốt lõi cho tăng trưởng kinh tế, nâng cao
năng lực cạnh tranh (Arvis & cộng sự, 2014) và là yếu tố then chốt của phát triển nền kinh
tế bền vững (Bizoi & Sipos, 2014). Trong khi đó, thương mại quốc tế là một thành phần
quan trọng trong sự phát triển kinh tế của một quốc gia nói riêng và nền kinh tế toàn cầu
nói chung. Các quốc gia dựa vào thương mại quốc tế để gia tăng doanh số xuất khẩu các
sản phẩm được sản xuất trong nước của họ trên thị trường toàn cầu và hoạt động này luôn
được coi là một phương tiện quan trọng để phát triển kinh tế. Hoạt động logistics được vận
hành hiệu quả chính là một trong những yếu tố hỗ trợ đắc lực cho sự tăng trưởng của
thương mại quốc tế (Gani, 2017). Theo Hausman & cộng sự (2013), năng lực logistics có
tác động không nhỏ đến khối lượng giao dịch giữa các đối tác thương mại. Cải tiến dịch vụ
logistics sẽ giúp các nước sản xuất các sản phẩm phức tạp hơn và khuyến khích quá trình
đa dạng hóa xuất nhập khẩu, góp phần cải thiện sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh
tế (De & Saha, 2013).
Ngành dịch vụ logistics của Việt Nam càng ngày thể hiện được vai trò quan trọng
trong cơ cấu tổng thể nền kinh tế quốc dân, nó đảm bảo việc lưu thông dòng hàng hóa phục
vụ cho nhu cầu tiêu dùng nội địa và xuất nhập khẩu. Bên cạnh đó, nó còn hỗ trợ, kết nối và
thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế của cả nước cũng như góp phần nâng cao năng lực
cạnh tranh của nền kinh tế. Theo bảng xếp hạng của Ngân hàng thế giới (WB) về Chỉ số
năng lực logistics quốc gia (LPI), Việt Nam đứng thứ 39/160 nước trong năm 2018, tăng
25 bậc so với năm 2016 và vươn lên đứng thứ 3 trong các nước thuộc ASEAN. Tuy nhiên,
ngành logistics Việt Nam vẫn còn nhiều điểm yếu như chi phí logistics còn cao, tại Việt
Nam chi phí logistics tương đương 20,9% GDP năm 2014 và khoảng 18% GDP năm 2018
(nhưng thực tế, theo chúng tôi, con số này còn cao hơn nhiều!) trong khi chi phí logistics
của Hoa Kỳ, Singapore chỉ khoảng 7,5-8,5% GDP, Trung Quốc là 14,5% (Bộ Công
Thương, 2020). Ngoài ra, ngành logistics Việt Nam còn một số điểm yếu khác như cơ sở
hạ tầng logistics thiếu sự kết nối giữa các doanh nghiệp dịch vụ logistics với nhau cũng
như thiếu sự kết nối giữa các doanh nghiệp logistics và các doanh nghiệp sản xuất, kinh
doanh thương mại khác. Chính vì vậy, việc nghiên cứu để nâng cao năng lực logistics đóng
vai trò rất quan trọng để thúc đẩy hoạt động thương mại quốc tế của Việt Nam.
Mục tiêu của nghiên cứu này là xác định mối quan hệ và chiều tác động của chỉ số
năng lực logistics (LPI) cũng như các thành phần của nó đối với kết quả họat động thương
mại quốc tế của Việt Nam từ năm 2007 đến năm 2018. Trên cơ sở đó đề xuất các khuyến
nghị và giải pháp nhằm nâng cao năng lực logistics từ đó thúc đấy sự phát triển thương mại
quốc tế của Việt Nam. So với các nghiên cứu trước đây, kết quả nghiên cứu này đã làm
phong phú thêm bằng chứng thực nghiệm về sự tác động của chỉ số năng lực logistics quốc
gia tới kết quả thương mại quốc tế ở các khía cạnh sau: Thứ nhất, các nghiên cứu trước
đây thường xem xét kết quả mối quan hệ này theo mẫu bao gồm một nhóm các quốc gia
như ASEAN, EU, trong khi đó nghiên cứu này chỉ xem xét mối quan hệ giữa LPI với kết
429
- quả thương mại quốc tế của một quốc gia đó chính là Việt Nam; Thứ hai, theo sự hiểu biết
của nhóm tác giả, đây là nghiên cứu định lượng đầu tiên xem xét mối quan hệ này được
thực hiện cho Việt Nam tính tới thời điểm hiện nay; Cuối cùng, nghiên cứu này đã xem
xét đồng thời tác động của cả chỉ số năng lực logistics nói chung (LPI) và các thành phần
của nó tới kết quả thương mại quốc tế của Việt Nam, từ đó giúp đưa ra các khuyến nghị và
giải pháp cụ thể giúp đẩy mạnh được hoạt động thương mại quốc tế thông qua việc cải
thiện năng lực logistics quốc gia.
Ngoài phần giới thiệu, bài nghiên cứu bao gồm 4 phần khác, cụ thể như sau: phần
thứ hai trình bày tổng quan nghiên cứu và cơ sở lý thuyết, phần thứ ba trình bày mô hình
nghiên cứu, phần thứ tư phân tích kết quả nghiên cứu và phần cuối cùng là phần khuyến
nghị và giải pháp.
2. Tổng quan nghiên cứu và cơ sở lý thuyết
2.1. Tổng quan nghiên cứu
Kể từ khi Ngân hàng Thế giới công bố LPI lần đầu tiên (năm 2007) thì các thành
phần của LPI đã được sử dụng rộng rãi để nghiên cứu mối quan hệ giữa hoạt động logistics
và thương mại quốc tế. Một số nghiên cứu điển hình như nghiên cứu của Martí & cộng sự
(2014) đã áp dụng LPI và các thành phần của LPI để phân tích tầm quan trọng của hiệu
quả hoạt động logistics đối với thương mại quốc tế, kết quả cho thấy rằng sự cải thiện
trong bất kỳ thành phần nào của LPI đều khiến các quốc gia này tăng khối lượng thương
mại quốc tế đặc biệt là đối với các quốc gia ở Châu Phi, Nam Mỹ và Đông Âu. Nghiên cứu
của Gani (2017) về tác động của hoạt động logistics đối với thương mại quốc tế của 60
quốc gia, nghiên cứu này sử dụng LPI và các thành phần của nó để phân tích, kết quả chỉ
ra rằng LPI và các thành phần của nó có tác động tích cực và có ý nghĩa thống kê đối với
thương mại quốc tế, đặc biệt là đối với kết quả hoạt động xuất khẩu. Nghiên cứu của Wang
& Choi (2018) cũng phân tích mối quan hệ giữa hiệu quả hoạt động logistics và khối lượng
thương mại quốc tế giữa hai nhóm nước đang phát triển và phát triển, kết quả chỉ ra rằng
việc cải thiện hoạt động logistics có tác động tích cực đến thương mại quốc tế và ảnh
hưởng mạnh hơn đối với các nước phát triển. Areej Aftab Siddiqui & San Vita (2018) đã
tiến hành nghiên cứu tác động của hiệu suất logistics vào thương mại trong lĩnh vực may
mặc ở Campuchia, Bangladesh và Ấn Độ, kết quả cho thấy mặc dù hiệu quả hoạt động
logistics ở mức cơ bản nhưng nó có tác động đáng kể đến thương mại thông qua các
nghiên cứu khác nhau cũng như các phân tích thực nghiệm. Nghiên cứu của Petra & cộng
sự (2020) về tác động của năng lực logistics đối với thương mại quốc tế tại EU15 và
CEMS cho thấy sự khác biệt về giá trị LPI có tác động không đồng nhất đến thương mại
song phương, đặc biệt khi xem xét thương mại ở các loại hàng hóa khác nhau và các nhóm
cặp quốc gia khác nhau. Bên cạnh đó, nghiên cứu gần đây của Prawpan Oruangke (2021)
cũng chỉ ra LPI và các thành phần của nó là tác động tích cực và có ý nghĩa thống kê đối
với thương mại ASEAN, đặc biệt là đối với hoạt động xuất khẩu. Vì vậy, cho đến nay kết
quả của các nghiên cứu thực nghiệm cơ bản cho thấy những cải tiến đối với các thành phần
của LPI sẽ dẫn đến sự tăng trưởng đáng kể trong dòng chảy thương mại hay nói cách khác
là hoạt động logistics hiệu quả sẽ đóng góp tích cực cho thương mại quốc tế.
430
- Từ tổng quan nghiên cứu cho thấy hầu hết các nghiên cứu trước đây thường tập
trung phân tích mối quan hệ giữa LPI và thương mại quốc tế trong mẫu nghiên cứu bao
gồm nhiều quốc gia hay giữa nhóm các quốc gia thuộc nhiều khu vực địa lý khác nhau mà
chưa có nghiên cứu nào quan tâm tới mối quan hệ này trong phạm vi một quốc gia riêng lẻ
cùng với các mối quan hệ thương mại của quốc gia này. Chính vì vậy, nghiên cứu này sẽ
tìm hiểu tác động của chỉ số LPI tới hoạt động thương mại quốc tế của Việt Nam với các
quốc gia mà Việt Nam có mối quan hệ thương mại.
2.2. Cơ sở lý thuyết
2.2.1. Chỉ số năng lực logistics quốc gia (Logistics Performance Index - LPI)
LPI là một chỉ số xếp hạng hiệu quả, năng lực hoạt động logistics của các quốc gia
do Ngân hàng Thế giới (WB) xác lập. LPI gồm 2 loại là LPI quốc tế và LPI nội địa. Đối
với thương mại quốc tế thì chỉ số năng lực logistics quốc gia đang được đề cập là LPI quốc
tế (kể từ đây được gọi tắt là LPI). Chỉ số này là một thước đo quan trọng đo lường hiệu quả
hoạt động logistics của một quốc gia trong bối cảnh chuỗi cung ứng ngày toàn cầu càng
phức tạp, vốn là xương sống của thương mại quốc tế (Prawpan Oruangke, 2021). LPI là
một công cụ đánh giá năng lực logistics giúp các quốc gia xác định được các cơ hội và
thách thức mà họ phải đối mặt trong hoạt động về logistics thương mại cũng như những gì
họ nên làm để cải thiện hiệu quả hoạt động này (Đặng Đình Đào & cộng sự, 2019). Trong
tất cả sáu phiên bản xếp hạng về chỉ số năng lực logistics quốc gia do WB công bố lần lượt
vào các năm 2007, 2010, 2012, 2014, 2016 và 2018 thì chỉ số LPI (LPI quốc tế) đều được
tính bằng trung bình cộng của sáu thành phần (trừ năm 2007 là bảy thành phần, thêm 1
thành phần liên quan tới chi phí logistics) (Arvis & cộng sự, 2018):
Thông quan: Hiệu quả khi thực hiện các thủ tục hải quan và quá trình thông quan.
Kết cấu hạ tầng: Chất lượng của cơ sở hạ tầng liên quan đến thương mại và vận tải.
Vận tải quốc tế: Mức độ dễ dàng khi thu xếp vận chuyển hàng hóa xuất nhập khẩu
với giá cả cạnh tranh.
Chất lượng dịch vụ Logistics: Năng lực và chất lượng của các nhà cung cấp dịch
vụ logistics.
Khả năng theo dõi và truy xuất: Khả năng theo dõi và truy xuất các lô hàng.
Thời gian giao hàng: Việc giao hàng đúng lịch trong thời gian giao hàng đã định
hoặc dự kiến.
LPI được xây dựng dựa trên một cuộc khảo sát toàn cầu và phiếu khảo sát được
gửi tới những chuyên gia logistics đến từ các công ty chịu trách nhiệm vận tải đa quốc
gia, các doanh nghiệp vận tải lớn, đại lý giao nhận và các công ty chuyển phát. Điểm số
của LPI và sáu thành phần của nó nằm trong khoảng từ 1 đến 5, với điểm số càng cao
thì cho thấy hoạt động logistics càng hiệu quả. Như vậy, về bản chất thì điểm số LPI là
công cụ so sánh quốc tế toàn diện nhất để đo lường về mức độ “thân thiện” trong việc
tạo điều kiện thuận lợi cho thương mại và vận tải của mỗi quốc gia. Việc hiểu được các
yếu tố cấu thành nên LPI có thể giúp các quốc gia nâng cao hiệu quả vận tải hàng hóa
cũng như xác định được những điểm yếu và điểm mạnh của mình so với các đối thủ
cạnh tranh trên thị trường.
431
- 2.2.2. Thương mại quốc tế
Thương mại quốc tế là việc trao đổi vốn, hàng hóa và dịch vụ qua biên giới hoặc
lãnh thổ quốc tế xuất phát từ nhu cầu của các quốc gia về hàng hóa hoặc dịch vụ đó
(Wonnacott & cộng sự, 2020). Thương mại quốc tế rõ ràng là một phần quan trọng trong sự
phát triển của nền kinh tế toàn cầu. Các quốc gia thông qua thương mại quốc tế để thúc đẩy
việc tiêu thụ các sản phẩm, dịch vụ được tạo ra trong nước trên thị trường toàn cầu. Đối
với các nền kinh tế mới nổi, thương mại quốc tế là một động lực quan trọng để phát triển
kinh tế. Kết quả thương mại quốc tế của một quốc gia được biểu hiện qua tổng kim ngạch
xuất nhập khẩu của quốc gia đó với các đối tác thương mại của quốc gia này. Đương nhiên,
khối lượng thương mại giữa hai quốc gia phụ thuộc vào sức hấp dẫn của hàng hóa, dịch vụ
do nước xuất khẩu tạo ra và nhu cầu của nước nhập khẩu. Khi một quốc gia nhập khẩu có
nhiều nguồn cung cấp tiềm năng, khoảng cách địa lý, các chi phí thông quan, vận chuyển
hàng hóa, thuế quan và một số yếu tố liên quan khác sẽ là những yếu tố quyết định đến
khối lượng thương mại song phương giữa các đối tác thương mại.
2.2.3. Mối quan hệ giữa năng lực logistics quốc gia với kết quả thương mại quốc tế
Đã có nhiều mô hình lý thuyết cũng như một số mô hình định lượng được thiết lập
nhằm luận giải về cơ cấu thương mại giữa các quốc gia. Tuy nhiên, để phục vụ tốt nhất cho
mục đích lượng hóa các mối quan hệ giữa các yếu tố ảnh hưởng với kết quả thương mại
quốc tế thì lý thuyết hay mô hình lực hấp dẫn (Gravity model) được rất nhiều tác giả sử
dụng trong các nghiên cứu ở quá khứ như Hausman & cộng sự (2013), Petra & cộng sự
(2021). Trong phạm vi của nghiên cứu này nhóm tác giả cũng sử dụng mô hình này làm
mô hình nền tảng cho nghiên cứu. Mô hình lực hấp dẫn lần đầu tiên được đề xuất bởi Jan
Tinbergen (1962) và Linnemann (1966). Mô hình này dự đoán rằng kết quả thương mại
giữa hai quốc gia tương quan dương với tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của mỗi quốc gia
và tương quan âm với khoảng cách địa lý giữa hai quốc gia đó. Mô hình giản đơn đầu tiên
có dạng:
Trong đó:
+ : Kết quả trao đổi thương mại 2 chiều
+ G : Hằng số
+ : Quy mô nền kinh tế quốc gia xuất khẩu i.
+ : Quy mô nền kinh tế quốc gia nhập khẩu j.
+ : Khoảng cách giữa quốc gia i và quốc gia j.
Khi logarit 2 vế của phương trình, ta được:
với : là sai số ngẫu nhiên.
Các nghiên cứu sau đó dựa trên cơ sở của mô hình lực hấp dẫn ban đầu đã bổ sung
thêm các nhân tố tác động đến kết quả thương mại quốc tế khác như: quy mô dân số quốc
gia, sự khác biệt về văn hóa, lịch sử thuộc địa, sự đa dạng ngôn ngữ, thể chế, sự bất ổn
432
- định, hiệp định thương mại tự do và một số nhân tố khác (Gbetnkom & Khan 2002; Erdem
& Nazlioglu, 2008; Hatab & cộng sự, 2010). Tuy nhiên, trong nghiên cứu này nhóm tác
giả sẽ xem xét tác động của chỉ số năng lực logistics quốc gia (LPI) tới kết quả thương mại
quốc tế tương tự như đề xuất trong các nghiên cứu của Hausman & cộng sự (2013), Marti
& cộng sự (2014).
3. Phương pháp và dữ liệu nghiên cứu
3.1. Phương pháp nghiên cứu
Xuất phát từ mô hình lực hấp dẫn và kết quả nghiên cứu của Hausman &
cộng sự (2013), nhóm tác giả đề xuất mô hình để xem xét mối quan hệ giữa LPI và kết quả
thương mại quốc tế của Việt Nam trong nghiên cứu này có dạng như sau:
trong đó: là biến phụ thuộc được tính bằng kết quả thương mại giữa hai quốc
gia, cụ thể bao gồm: tổng kim ngạch xuất nhập khẩu, kim ngạch xuất khẩu và kim ngach
nhập khẩu, với i đại diện cho Việt Nam và j đại diện cho các quốc gia có quan hệ thương
mại với Việt Nam. Các biến độc lập bao gồm: và lần lượt là chỉ số năng lực
logistics của Việt Nam và các quốc gia là đối tác thương mại; và
đại diện cho quy mô nền kinh tế được thể hiện qua chỉ tiêu tổng thu nhập quốc nội tính
theo sức mua tương đương (PPP - purchasing power parity) của Việt Nam ) và các
quốc gia là đối tác thương mại ; là khoảng cách địa lý tính bằng kilomet
từ Việt Nam tới các quốc gia là đối tác thương mại; cuối cùng là sai số ngẫu nhiên của
mô hình.
Nhằm xem xét tác động của các thành phần của LPI tới kết quả thương mại quốc tế
và tránh hiện tượng đa cộng tuyến trong mô hình nghiên cứu, nhóm tác giả lần lượt xem
xét 6 mô hình tương ứng với 6 thành phần của LPI là: Thông quan, Kết cấu hạ tầng, Vận
tải quốc tế, Chất lượng dịch vụ logistics, Khả năng theo dõi và truy xuất, Thời gian giao
hàng. Các mô hình này có dạng như sau:
433
- Giả thuyết nghiên cứu chính trong mô hình này là: LPI và các thành phần của nó có
tác động tích cực lên kết quả thương mại quốc tế của Việt Nam. Trong khi đó, nhóm tác
giả cũng ủng hộ các giả thuyết ban đầu của mô hình lực hấp dẫn cho rằng: quy mô nền
kinh tế tác động tích cực và khoảng cách địa lý tác động tiêu cực lên kết quả thương mại
quốc tế. Về mô hình định lượng, nhóm tác giả sử dụng phương pháp bình phương nhỏ nhất
(OLS) để lượng hóa mối quan hệ giữa các biến trong mô hình lực hấp dẫn nói chung và
xác định mối quan hệ giữa LPI và các thành phần của nó với kết quả thương mại quốc tế
của Việt Nam nói riêng với sự hỗ trợ của phần mềm STATA 14.
3.2. Dữ liệu nghiên cứu
Dữ liệu được sử dụng trong nghiên cứu là dữ liệu thứ cấp, được thu thập
trong các năm 2007, 2010, 2012, 2014, 2016, 2018 và được tổ chức theo dạng dữ liệu bảng
với chuỗi thời gian không liên tục. Việc này là do chỉ số LPI chỉ được WB công bố trên Cơ
sở dữ liệu World Bank LPI database ở các năm trên. Dữ liệu về kết quả thương mại hai
chiều được lấy từ Cơ sở dữ liệu World Integrated Trade Solution (WITS) củaWB, dữ liệu
về tổng thu nhập quốc nội (GDP) lấy từ cơ sở dữ liệu World Development Indicators của
WB. Cuối cùng dữ liệu về khoảng cách địa lý giữa các quốc gia được lấy từ Bộ dữ liệu
Centre d'Études Prospectives et d'Informations Internationales (CEPII) database của Trung
tâm nghiên cứu Pháp về kinh tế quốc tế. Các quan sát trong mẫu nghiên cứu được chọn khi
đảm bảo được hai yêu cầu: i. Việt Nam và các đối tác thương mại có cả kim ngạch xuất
khẩu và nhập khẩu lớn hơn 0 ở một trong các năm 2007, 2010, 2012, 2014, 2016, 2018; ii.
Các đối tác thương mại được WB xếp hạng về chỉ số năng lực logistics quốc gia.
4. Kết quả nghiên cứu và thảo luận
Trước tiên nghiên cứu này xem xét mối quan hệ giữa các nhân tố trong mô hình lực
hấp dẫn cơ bản thể hiện qua kết quả mô hình (1). Kết quả hồi quy cho thấy các giả thuyết
của mô hình lực hấp dẫn cơ bản đều được xác nhận, cụ thể: i. Các biến đại diện cho quy
mô của nền kinh tế Việt Nam ( ) và các đối tác thương mại ( có tác động tích cực
lên kết quả thương mại giữa hai quốc gia; ii. Khoảng cách địa lý giữa hai quốc gia ( có
tác động tiêu cực lên kết quả thương mại quốc tế. Sau đó, nhóm tác giả đưa 2 biến đại diện
cho Chỉ số năng lực logistics quốc gia (LPI) vào mô hình (2) để xem xét mối quan hệ với
kết quả thương mại quốc tế của Việt NamKết quả cho thấy tồn tại hiện tượng đa cộng
tuyến trong mô hình này (hệ số VIF trung bình của các biến độc lập trong mô hình (2) lớn
hơn 2 và các biến và có hệ số VIF lần lượt là 2,56 và 2,57 đều lớn hơn 2). Vì
mục đích của nghiên cứu là xem xét mối quan hệ giữa LPI và kết quả thương mại quốc tế
của Việt Nam nên nhóm nghiên cứu quyết định loại biến quy mô nền kinh tế của Việt Nam
ra khỏi mô hình hồi quy để tránh hiện tượng đa cộng tuyến làm ảnh hưởng tới kết
quả hồi quy và thu được kết quả cuối cùng trong mô hình 3.
434
- Bảng 1: Kết quả hồi quy mô hình lực hấp dẫn bao gồm LPI trong giai đoạn 2007 -
2018
(1) (2) (3) (4) (5)
Biến phụ thuộc ( XK + NK XK + NK XK + NK XK NK
1,256*** 1,295***
(0,107) (0,166)
0,871*** 0,748*** 0,740*** 0,787*** 0,680***
(0,021) (0,029) (0,030) (0,034) (0,045)
-0,860*** -0,855*** -0,848*** - -
0,823*** 0,944***
(0,060) (0,058) (0,061) (0,067) (0,089)
-1,152 8,387*** 8,469*** 5,520***
(1,580) (1,043) (1,157) (1,526)
1,760*** 1,930*** 1,799*** 2,983***
(0,290) (0,301) (0,334) (0,444)
Hằng số - - -4,505*** - -
14,991*** 14,370*** 5,394*** 3,112***
(1,217) (1,386) (0,592) (0,658) (0,871)
R2 điều chỉnh 0,769 0,780 0,761 0,733 0,609
Số quan sát 722 722 722 718 694
Hệ số VIF trung bình 1,02 2,05 1,54 1,53 1,53
Ghi chú: ***: sig < 0,01; **: sig < 0,05; *: sig < 0,1
(Nguồn: từ kết quả tính toán của nhóm tác giải trên phần mềm STATA 14)
Sau khi loại biến ra khỏi mô hình, ta thấy các giả thuyết của mô hình nghiên
cứu đều đã được ủng hộ trong mô hình (3), cụ thể: i. Chỉ số LPI của cả Việt Nam cũng như
các đối tác thương mại đều có tác động tích cực lên kết quả thương mại quốc tế của Việt
Nam; ii. Quy mô nền kinh tế ( của đối tác thương mại có tác động thuận chiều lên kết
quả thương mại quốc tế; iii. Khoảng cách địa lý giữa hai quốc gia tác động ngược chiều lên
kết quả thương mại quốc tế. Kết quả này tương tự với kết quả nghiên cứu của Petra & cộng
sự (2021), Prawpan Oruangke (2021). Trong mô hình (3) cũng không còn tồn tại hiện
tượng đa cộng tuyển với hệ số VIF trung bình < 2. Sau khi xem xét mối quan hệ giữa LPI
với kết quả thương mại bao gồm nhập khẩu và xuất khẩu, nhóm nghiên cứu cũng xem xét
tác động của LPI tới kết quả xuất khẩu và nhập khẩu của Việt một cách riêng rẽ trong mô
hình (4) và (5). Kết quả mô hình (4) và (5) một lần nữa khẳng định kết quả của mô hình (3)
và cho thấy thêm bằng chứng thuyết phục về tác động tích cực của chỉ số LPI tới kết quả
thương mại quốc tế của Việt Nam.
435
- Bảng 2: Kết quả hồi quy mô hình lực hấp dẫn sử dụng từng thành phần của LPI
trong giai đoạn 2007 - 2018
Biến phụ thuộc là kết quả thương mại quốc tế của Việt Nam (
(1) (2) (3) (4) (5) (6)
0,794*** 0,754*** 0,784*** 0,738*** 0,765*** 0,804***
(0,028) (0,030) (0,028) (0,031) (0,031) (0,029)
- - -0,847*** - - -
0,850*** 0,857*** 0,856*** 0,862*** 0,858***
(0,063) (0,061) (0,060) (0,061) (0,063) (0,061)
0,108
(1,166)
1,595***
(0,248)
4,027***
(0,519)
1,468***
(0,754)
15,443***
(1,723)
1,702***
(0,302)
3,546***
(0,594)
1,907***
(0,277)
2,726***
(0,706)
1,634***
(0,278)
9,144***
(0,990)
1,217***
(0, 321)
Hằng số -0,883** - -8,445*** - - -
2,097*** 2,040*** 1,881*** 5,821***
(0,627) (0,424) (0,897) (0,448) (0,494) (0,614)
R2 điều chỉnh 0,739 0,760 0,764 0,754 0,743 0,758
Số quan sát 722 722 722 722 722 722
Chú thích: ***: sig < 0,01; **: sig < 0,05; *: sig < 0,1
(Nguồn: từ kết quả tính toán của nhóm tác giải trên phần mềm STATA 14)
436
- Để có cái nhìn sâu sắc hơn về mối quan hệ giữa LPI và kết quả thương mại quốc tế
của Việt Nam, nhóm nghiên cứu tiếp tục tiến hành hồi quy từng thành phần cấu tạo nên chỉ
số LPI với kết quả thương mại quốc tế của Việt Nam, bao gồm: Thông quan, Kết cấu hạ
tầng, Vận tải quốc tế, Chất lượng dịch vụ Logistics, Khả năng theo dõi và truy xuất và
Thời gian giao hàng. Kết quả hồi quy cho thấy các thành phần của LPI đều có tác động tích
cực và có ý nghĩa thống kê lên kết quả thương mại quốc tế của Việt Nam, ngoại trừ biến
“thông quan”, cụ thể kết quả các mô hình được thể hiện trong bảng 4.2. Kết quả nghiên
cứu này trùng khớp với nghiên cứu của Prawpan Oruangke (2021) trong quá khứ.
5. Kết luận và khuyến nghị giải pháp
Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng chỉ số LPI của Việt Nam có tác động tích cực lên
kết quả thương mại quốc tế của Việt Nam, kết quả này ngụ ý rằng cải thiện chỉ số năng
lực logistics của Việt Nam sẽ làm tăng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam. Bên
cạnh đó, theo kết quả nghiên cứu thì trong 6 thành phần cấu tạo nên chỉ số LPI thì có 5
thành phần có tác động tích cực và có ý nghĩa thống kê lên kết quả thương mại quốc tế
của Việt Nam, đó là: Kết cấu hạ tầng, Vận tải quốc tế, Chất lượng dịch vụ logistics,
Khả năng theo dõi và truy xuất và Thời gian giao hàng. Điều này cũng có nghĩa là nếu
cải thiện hiệu quả các thành phần này thì sẽ thúc đẩy thương mại quốc tế của Việt Nam.
Dựa trên kết quả nghiên cứu, nhóm tác giả đưa ra một số khuyến nghị giải pháp nhằm
nâng cao năng lực logistics từ đó thúc đấy sự phát triển thương mại quốc tế của Việt
Nam, cụ thể như sau:
Thứ nhất, cải thiện môi trường logistics và tăng cường đầu tư kết cấu hạ tầng, đặc
biệt là hạ tầng kết nối: Các cơ quan chức năng cần xây dựng và điều chỉnh quy hoạch hạ
tầng để đảm bảo kết nối thông suốt đường bộ, đường sắt với khu công nghiệp, cảng biển và
sân bay thông qua việc xây dựng các trung tâm logistics, khu công nghiệp logistics như là
một hạ tầng kết nối hiệu quả giao thông, vừa là mô hình kinh doanh mang lại nguồn thu
lớn cho ngân sách nhà nước, tiến tới xây dựng thị trường bất động sản logistics tại các địa
phương và ở Việt Nam và nhằm thu hút các tập đoàn logistics trong nước và quốc tế. Đẩy
nhanh tiến độ xây dựng các dự án giao thông trọng điểm (đường cao tốc, sân bay, cảng
biển), triển khai việc xây dựng các cơ sở hạ tầng có tính kết nối để làm đòn bẩy phát triển
kinh tế, cụ thể đẩy nhanh việc hiện đại hóa tuyến đường sắt Bắc - Nam hai chiều, tốc độ
cao theo tiêu chuẩn quốc tế, ưu tiên đầu tư xây dựng tuyến đường sắt kết nối với vùng
Đồng Bằng Sông Cửu Long, đồng thời cải tạo, nâng cấp đồng bộ các tuyến đường sắt từ
Hà Nội đến các tỉnh như Hải Phòng, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Hạ Long. Bên cạnh đó, đầu
tư mở rộng cảng hàng không quốc tế Tân Sơn Nhất, sớm quy hoạch, xây dựng các trung
tâm logistics chuyên dùng để tập kết xe tải, container, kho bãi, gia tăng giá trị cho hàng
xuất khẩu của Việt Nam, tránh tình trạng hàng nghìn xe dồn ứ tại các cửa khẩu không biết
khi nào được thông quan ở các tỉnh biên giới phía Bắc. Ngoài ra, hiện nay đa số hàng hóa
xuất nhập khẩu của Việt Nam là thông qua đường biển, vì thế bên cạnh việc đầu tư phát
triển đồng bộ hạ tầng bến cảng thì việc cải thiện hạ tầng công nghệ thông tin trong công tác
quản lý, kết nối các cảng biển quốc tế với các trung tâm logistics có quy mô lớn mà không
437
- phải là các cảng cạn (ICD) như trong Quy hoạch Cảng biển Việt Nam giai đoạn 2021-
2030, tầm nhìn đến năm 2045 vừa ban hành gần đây. Đây là giải pháp để giúp các địa
phương giảm ùn tắc giao thông, xây dựng cảng xanh, vừa giúp các doanh nghiệp giảm chi
phí logistics cũng là giải pháp quan trọng để cải thiện môi trường logistics đang yếu kém ở
nước ta.
Thứ hai, giảm chi phí dịch vụ logistics cho cả lĩnh vực sản xuất và lĩnh vực lưu
thông: Các cơ quan chức năng cần rà soát, cắt giảm các khoản phí, lệ phí về sử dụng hạ
tầng làm ảnh hưởng đến lưu chuyển hàng hóa trong nước cũng như xuất nhập khẩu. Các
doanh nghiệp logistics cần thường xuyên giám sát các thủ tục hành chính và cần làm việc
với các hãng tàu nước ngoài để đảm bảo mức phí dịch vụ tại cảng ở mức hợp lý nhằm tạo
mức độ dễ dàng khi thu xếp vận chuyển hàng hóa xuất nhập khẩu với giá cả cạnh tranh.
Thứ ba, nâng cao nâng cao năng lực và chất lượng dịch vụ logistics: Các doanh
nghiệp cung cấp dịch vụ logistics cần tập trung ứng dụng công nghệ thông tin, nâng cao
trình độ quản lý và trình độ kinh doanh để đảm bảo chất lượng cung cấp dịch vụ ngày càng
cao và góp phần cắt giảm chi phí logistics. Hiệp hội Doanh nghiệp dịch vụ logistics Việt
Nam đẩy mạnh hơn nữa việc liên doanh liên kết giữa các doanh nghiệp trong nước và
doanh nghiệp nước ngoài để mở rộng quy mô doanh nghiệp, tăng cường hợp tác quốc tế về
logistics để phát triển dịch vụ logistics xuyên biên giới. Các cơ quan chức năng cũng cần
có chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp mở văn phòng đại diện, đầu tư ra nước ngoài trong
lĩnh vực cung ứng dịch vụ logistics.
Thứ tư, tăng cường khả năng theo dõi và truy xuất các lô hàng trong suốt hành
trình, nhất là đối với hàng vận tải biển đi và đến từ các cảng Việt Nam: Các doanh nghiệp
công nghệ cần tích cực nghiên cứu, phát triển các công cụ để cải thiện khả năng cung cấp
thông tin giúp việc theo dõi và truy xuất các lô hàng được nhanh chóng, chính xác, xây
dựng sàn giao dịch thông tin logistics Việt Nam và cho các địa phương để tránh vận
chuyển đường vòng, xe chạy quá tải hay xe chạy một chiều. Bên cạnh đó, các cơ quan
chức năng cần có các chính sách hỗ trợ việc nghiên cứu, phát triển và ứng dụng các công
nghệ mới, các phần mềm chuyên dùng logistics trong các hoạt động logistics để đón đầu
các xu thế mới của thị trường logistics quốc tế.
Cuối cùng là cải thiện khả năng giao hàng: Các cơ quan hải quan, cảng vụ, sân bay,
quản lý đường bộ, quản lý đường sắt cần có sự phối hợp chặt chẽ trong các thủ tục tại cửa
khẩu và bố trí thời gian làm việc hợp lý để hỗ trợ doanh nghiệp nhanh chóng thông quan,
giải phóng hàng hóa nhằm đảm bảo thời gian giao hàng đúng hạn với các doanh nghiệp
dịch vụ logistics, các hãng vận chuyển trong nước và nước ngoài. Đồng thời, các cảng
biển, sân bay và trung tâm logistics cần triển khai lệnh giao hàng điện tử, phiếu xuất nhập
kho điện tử để rút ngắn thời gian làm thủ tục giao hàng. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp sử
dụng dịch vụ logistics cần tìm kiếm, lựa chọn các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ logistics
chuyên nghiệp, uy tín, chất lượng cao để đẩy mạnh việc thuê ngoài dịch vụ logistics nhằm
tạo ra một thị trường đủ lớn để phát triển hoạt động logistics, qua đó đảm bảo các lô hàng
xuất nhập khẩu được giao hàng đúng thời hạn.
438
- TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Armstrong & Associates, Inc. (2016), ‘Third-party logistics market results and trends
for 2017 including estimates for 190 countries’, Economic Research Institute for
ASEAN and East Asia.
2. Areej Aftab Siddiqui & San Vita (2018), ‘Impact of Logistics Performance on Trade
with Specific Reference to Garment Sector in Cambodia’, Bangladesh and India, Global
Business Review, 1-15.
3. Arvis, J.-F., Saslavsky, D., Ojala, L., Shepherd, B., Busch, C., & Raj, A. (2014),
‘Connecting to Compete 2014: Trade Logistics in the Global Economy - The Logistics
Performance Index and Its Indicators’, World Bank: Washington, DC.
4. Arvis, J.-F., Ojala, L.,Wiederer,C., Shepherd, B., Raj, A., Dairabayeva, K., Kiiski, T.
(2018), ‘Connecting to Compete 2018: Trade Logistics in the Global Economy, The
Logistics Performance Index and Its Indicators’, Washington, D.C.: World Bank.
5. Bizoi, A., & Sipos, A. (2014), ‘Logistics Performance and Economic Development-A
Comparison within the European Union’, Proceeding of MAC-EMM.
6. Bộ Công Thương (2020), ‘Báo cáo logistics Việt Nam 2020’, Nhà xuất bản Công
Thương, Hà Nội.
7. Đặng Đình Đào, Tạ Văn Lợi, Nguyễn Minh Sơn và Đặng Thị Thúy Hồng (2019),
‘Dịch vụ logistics ở Việt Nam trong tiến trình hội nhập quốc tế’, Nhà xuất bản Lao
động - Xã hội, Hà Nội.
8. De, P., & Saha, A. (2013), ‘Logistics, Trade and Production Networks: An Empirical
Investigation, Research and Information System’, Discussion Paper, (181).
9. Erdem, E., & Nazlioglu, S. (2008, August), ‘Gravity Model of Turkish agricultural
exports to the European Union’, In International Trade and Finance Association
Conference Papers (p. 21). bepress.
10. French Research Center in International Economics (2021), ‘Centre d'Études
Prospectives et d'Informations Internationales (CEPII) database’, retrieved on
November 12th 2021, from
http://www.cepii.fr/CEPII/en/bdd_modele/presentation.asp?id=6
11. Gani, A. (2017), ‘The logistics performance effect in international trade’, The Asian
Journal of Shipping and Logistics, 33(4), 279- 288.
12. Gbetnkom, D., and Khan, S. A. (2002), ‘Determinants of agricultural exports: The case
of Cameroon’, AERC Research Paper 120 African Economic Research Consortium,
Nairobi.
13. Hatab, A. A., Romstad, E., & Huo, X. (2010), ‘Determinants of Egyptian agricultural
exports: A gravity model approach’, Modern Economy, 1(03), 134.
14. Linnemann, H. (1966), ‘An econometric study of international trade flows (No. 42)’,
Amsterdam, North-Holland.
15. Hausman, W. H., Lee, H. L., & Subramanian, U. (2013), ‘The impact of logistics
performance on trade’, Production and Operations Management, 22(2), 236-252.
439
- 16. Martí, L., Puertas, R., & García, L. (2014), ‘The importance of the Logistics
Performance Index in international trade’, Applied Economics, 46(24), 2982-2992
17. Petra Adelajda Zaninovic, Vinko Zaninovic and Helga Pavlic Skender (2020), ‘The
effects of logistics performance on international trade: EU15 vs CEMS’, Economic
research-ekonomska istraživanja 2021, VOL. 34, NO. 1, 1566-1582.
18. Prawpan Oruangke (2021), ‘The Impact of International Logistics Performance on
ASEAN Trade’, Chiang Mai University Journal of Economics.
19. Tinbergen, J. (1962), ‘Shaping the world economy; suggestions for an international
economic policy’.
20. Wang, M.L., & Choi, C.H. (2018), ‘How logistics performance promote the
international trade volume? A comparative analysis of developing and developed
countries’, International Journal of Logistics Economics and Globalisation, 7(1), 49-70.
21. Wonnacott, Paul, Allais, Maurice , Balassa, Bela , Robinson, Romney and Bertrand,
Trent J.. "international trade". Encyclopedia Britannica, 11 Nov. 2020,
https://www.britannica.com/topic/international-trade. Accessed 14 December 2021.
22. World Bank (2021), ‘The World Development Indicators’, retrieved on November 12th
2021, from https://databank.worldbank.org/source/world-development-indicators.
23. World Bank (2021), ‘The World Integrated Trade Solution’, retrieved on November
12th 2021, from https://wits.worldbank.org/Default.aspx?lang=en.
24. World Bank (2021), ‘The World Bank LPI database’, retrieved on November 12th
2021, from https://lpi.worldbank.org/.
440
nguon tai.lieu . vn