Xem mẫu
- SỰ XUẤT HIỆN CỦA CÁC LỰC LƯỢNG SÁNG TÁC MỚI
Gần đây đã xuất hiện một số đạo diễn trẻ nổi nên với vai trò tự sáng tác kịch
bản và làm phim, bên cạnh đó những đạo diễn Việt kiều cũng tự sáng tác kịch
bản cho phim của mình. Những tác phẩm của họ ra đời đã góp phần làm phong
phú nền điện ảnh nước nhà. Nhiều phim từng đi tranh giải thưởng ở các liên
hoan phim (LHP) hoặc được sự đón nhận nhiệt tình của khán giả.
1. Những nhà sáng tác trẻ ra mắt
Điện ảnh Việt Nam đang vận động theo cơ chế thị trường với nhiều biến đổi
có tính tích cực. Góp phần đáng kể vào những chuyển biến đó chính là sự xuất
hiện của lớp đạo diễn trẻ mới bước vào con đường sáng tạo nghệ thuật điện ảnh.
Từ năm 2003, công chúng điện ảnh được chứng kiến sự ra đời đồng loạt nhiều bộ
phim của các đạo diễn trẻ. Cũng phải nói rõ là trong số các đạo diễn này, có người
trẻ cả tuổi đời lẫn tuổi nghề như Nguyễn Quang Dũng, Vũ Ngọc Đăng, Quang
Hải, Thạc Chuyên, Đào Duy Phúc, Bùi Tuấn Dũng… Nhưng cũng có những người
không còn ít tuổi đời và tuổi nghề như Phi Tiến Sơn, Nguyễn Đức Việt hay Phạm
Hoàng Nam... Được coi là trẻ vì họ mới bước chân vào nghề đạo diễn, xuất hiện
trên generique không phải là những quay phim hay ở trong các thành phần khác và
phim truyện nhựa đầu tay của họ cũng chỉ ra đời trong vài năm trở lại đây (1).
Sự xuất hiện lớp đạo diễn trẻ cùng với những tác phẩm điện ảnh của họ đã
mang lại không khí mới cho nền điện ảnh Việt Nam. Các đề tài được lựa chọn,
cùng với phong cách tươi trẻ, chân thực và nhiều nét mới trong phương thức thể
hiện mà phim của họ tạo ra thực sự thu hút được khán giả. So với các lớp đạo diễn
trước, lớp đạo diễn trẻ gặp nhiều thuận lợi hơn khi có điều kiện tiếp cận thông tin
nghề nghiệp trên thế giới cùng những tiến bộ về kỹ thuật, kỹ xảo điện ảnh hiện đại
- ngày nay. Mặt khác, khi đất nước đang bước vào hội nhập quốc tế, giao lưu văn
hóa đa phương cũng giúp những người làm điện ảnh trẻ có cơ hội học hỏi và đón
nhận nhiều mặt tích cực của nghề. Từ đó những suy nghĩ, cảm nhận về con người,
thời đại đều in dấu trong các sáng tác của họ, tạo nên nét mới.
Những sáng tác của đạo diễn trẻ thường quan tâm đến các đề tài về cuộc sống
đương đại với những vấn đề của con người, của xã hội và ngay cả những vấn đề
nhạy cảm mà từ trước đến nay chưa bao giờ được điện ảnh đề cập đến. Về đề tài
hiện đại, nhiều bộ phim phản ánh cuộc sống của lớp thanh ni ên mới bước vào đời
phải đối mặt với những khó khăn trong cuộc sống. Một số phim đi vào thể hiện
tình cảm nội tâm trong mỗi con người. Chẳng hạn Khi nắng thu về hướng tới giới
trẻ, cũng có những mảng tối trong các mối quan hệ của xã hội như sự phản bội
tình yêu vì vật chất, tính thực dụng của một số nhân vật, hoặc trong Chuyện của
Pao là suy nghĩ của một thiếu nữ mới lớn người dân tộc vùng cao về tình yêu và
những mâu thuẫn trong gia đình. Ngay cả những vấn đề khá gai góc và phức tạp ở
cuộc sống đương đại cũng được đưa vào phim mà không hề né tránh. Đó là cuộc
sống hậu trường của những cô người mẫu (Những cô gái chân dài), nơi đằng sau
ánh hào quang là những bon chen đố kỵ và cả danh vọng phải đánh đổi bằng chính
bản thân. Rồi tác động của games online làm lệch lạc suy nghĩ của giới trẻ, khiến
cho họ ảo tưởng, bỏ bê thời gian học hành và có những sai phạm trong nhân cách,
trở thành kẻ ác (Võ lâm truyền kỳ). Hay như sự phản ánh hiện thực đen tối của xã
hội về ma túy, thuốc lắc, vũ trường (Vũ điệu tử thần) cũng như những quan hệ
đồng tính... Một số bộ phim hài thuộc dòng phim giải trí: 2 trong 1, Hồn Trương
Ba da hàng thịt, Đẻ mướn, Khi đàn ông có bầu… góp phần làm phong phú thêm
sự đa dạng ở nét hài hước về tình tiết, giả tưởng trẻ trung hơn so với nhiều phim
Việt trước đó. Với đề tài chiến tranh và hậu chiến, vốn được xem là truyền thống
của điện ảnh Việt Nam và thường dành cho những đạo diễn có tuổi, đã trải qua hai
hoặc một cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, các đạo diễn trẻ cũng đã
“xông” vào và cho ra đời các tác phẩm như Vào Nam ra Bắc, Đường thư, Sống
- trong sợ hãi, Sinh mệnh, Hoài vũ trắng, Chớp mắt cùng số phận… Trong nhiều
tác phẩm, các đạo diễn trẻ không mô tả cuộc chiến tranh hay những người lính
tham gia vào cuộc chiến một cách giản đơn, một chiều như các tác phẩm về đề tài
này trước đây. Trong các tác phẩm đó, chủ nghĩa anh hùng cách mạng, hay gương
những người lính anh hùng đã không được ca ngợi theo kiểu giản đơn như những
phim truyền thống về chiến tranh trước đây mà đời thường hơn, người hơn, đúng
hơn và đa dạng hơn… Những người lính (nhân vật) ấy cũng cảm thấy sợ hãi khi
bước vào cuộc chiến, nơi mà cái chết luôn rình rập, họ cũng giao động, hay trốn
chạy nhiệm vụ và đồng đội như Quang (Vào Nam ra Bắc), hay đòi hỏi được giải
quyết sinh lý và ước muốn có người nối dõi của người đàn ông ra mặt trận (Sinh
mệnh). Họ cũng có thể mắc những sai lầm “chết người” khi trao tình yêu của
mình cho người bên kia chiến tuyến (Hoài vũ trắng)… Có thể nói cách nhìn của
các đạo diễn trẻ đã khách quan hơn, công bằng hơn, nhiều màu sắc hơn, chân thật
và nhân bản hơn về những người lính trong cuộc chiến cũng như bản thân cuộc
chiến. Phải chăng, để có thể có cái nhìn như vậy, người sáng tác trẻ đã có khoảng
thời gian để nhìn nhận sự việc một cách khách quan, toàn diện hơn.
Trong số các đạo diễn trẻ, ngoài Bắc có thể kể đến: Phi Tiến Sơn với Vào
Nam ra Bắc, Lưới trời; Đào Duy Phúc với Chiến dịch trái tim bên phải, 2 trong
1, Sinh mệnh, Hoài vũ trắng; Bùi Thạc Chuyên với Sống trong sợ hãi; Ngô
Quang Hải với Chuyện của Pao; Bùi Tuấn Dũng với Đường thư, Hà Nội - Hà
Nội, Vũ điệu tử thần; Bùi Trung Hải với Khi nắng thu về; Nguyễn Đức Việt với
Em muốn làm người nổi tiếng; Lê Ngọc Linh với Chớp mắt cùng số phận.
Trọng Nam là Lâm Lê Dũng với U14, đội bóng trong mơ, Gió thiên đường; Vũ
Ngọc Đăng với Những cô gái chân dài, Đẹp từng centimet; Lý Khắc Linh với
Thập tự hoa; Phạm Hoàng Nam với Khi đàn ông có bầu Nguyễn Quang Dũng
với Hồn Trương Ba da hàng thịt, Nụ hôn thần chết, Giải cứu thần chết; Lê Bảo
Trung với Đẻ mướn, Võ lâm truyền kỳ, Phát tài,…
- Tuy vẫn còn những điều để bàn trong sáng tác của các đạo diễn trẻ, nhưng
cũng không thể không công nhận những thành công của họ. Chính vì thế, những
giải thưởng cho Phi Tiến Sơn (Bông sen Bạc LHP XIII cho Vào Nam, ra Bắc;
Bông sen Vàng LHP XIV và Cánh Diều Bạc cho Lưới trời), Bùi Tuấn Dũng
(Bông sen Vàng LHP XV cho Hà Nội - Hà Nội, giải đặc biệt của Ban Giám khảo
LHP XIV và giải Cánh diều Bạc cho Đường Thư), Thạc Chuyên (giải Cánh Diều
Vàng dành cho đạo diễn 2006), Quang Hải (giải Cánh Diều Vàng cho Chuyện của
Pao), Vũ Ngọc Đăng (giải Bông sen Bạc LHP lần thứ XIV cho Những cô gái
chân dài), Quang Dũng (Cánh Diều bạc cho Nụ hôn thần chết), Nguyễn Đức Việt
(giải khuyến khích của Hội điện ảnh cho Em muốn làm người nổi tiếng)… là
đáng ghi nhận và trân trọng.
2. Lực lượng sáng tác là Việt kiều
Mùa hè năm 1993, khi đạo diễn Việt kiều Trần Anh Hùng giới thiệu với đồng
nghiệp và người xem Việt Nam bộ phim Mùi đu đủ xanh, trong nhiều bài báo
giới thiệu người đạo diễn này, người ta cũng đã nhắc đến những đạo diễn người
Việt khác đang sống và làm việc ở nước ngoài. Và từ đó, nhất là từ năm 2000,
nhiều người trong số họ đã trở về làm phim ở trong nước. Với những góp mặt đó,
điện ảnh phim truyện Việt Nam đã phong phú thêm về số lượng cũng như đề tài,
và có những thay đổi (ở chừng mực nào đó) theo hướng tích cực về nghệ thuật
cũng như phương pháp thể hiện. Những thay đổi này, một mặt do các đạo diễn
Việt kiều mang đến từ những nước có nền công nghiệp điện ảnh phát triển, công
nghệ làm phim tiên tiến. Mặt khác, do các đạo diễn trẻ trong nước tìm tòi, học hỏi
từ sách vở, từ các trường dạy Điện ảnh Việt Nam, từ phim nước ngoài, và cả từ
chính những đạo diễn Việt kiều này để không bị thua kém họ.
Hầu hết các đạo diễn Việt kiều khi làm phim ở trong nước luôn cố gắng khai
thác những đề tài gắn liền với những nét lạ của văn hóa, phong tục, tập quán, lịch
sử… nước nhà như Ba mùa (Tony Bùi), Mùa Len trâu, (Nguyễn Võ Nghiêm
- Minh), Mê thảo, thời vang bóng (Việt Linh), Dòng máu anh hùng (Nguyễn
Chánh Charlie Trực), áo lụa Hà Đông (Lưu Huỳnh)… Hay những nét đẹp trong
tình cảm gia đình hoặc trong quan hệ người với người, có thể nhắc đến Mùi đu đủ
xanh, Mùa hè chiều thẳng đứng (Trần Anh Hùng), Sài gòn nhật thực (Othello
Khanh), Chuyện tình Sài Gòn (Ringo Le), Huyền thoại mẹ (Lưu Huỳnh),
Chuyện tình xa xứ (Victor Vũ) hay Cú và Se sẻ (Stephane Gauger)… Đây là
những lựa chọn khôn ngoan khi các tác giả Việt kiều có ý định mang phim mình ra
thi thố với thị trường điện ảnh thế giới. Những đặc điểm độc đáo mang tính dân
tộc đó sẽ thành những sản phẩm độc đáo, hấp dẫn, gây sự tò mò của khán giả nước
ngoài.
Đã có những thành công của một số tác phẩm phim truyện của Việt kiều khi
khai thác đề tài quê hương. Trong số đó phải nhắc đến Mùa len trâu (Nguyễn Võ
Nghiêm Minh), Mê thảo, thời vang bóng (Việt Linh) hay áo lụa Hà Đông,
Huyền thoại mẹ (Lưu Huỳnh), Dòng máu anh hùng (Nguyễn Chánh Charlie
Trực)… Trong Mùa len trâu, thông qua câu chuyện dẫn trâu đi len trong mùa
nước lũ của Kìm, đạo diễn Nguyễn Võ Nghiêm Minh vẽ nên một bức tranh về
cuộc sống của người nông dân Nam bộ. Với ý tưởng và những gì tác giả gửi gắm,
người xem thấy cái tâm trong sáng, thiện chí, không thù ghét, hằn học, hướng về
cội nguồn để gạn chắt, nâng niu những gì là tốt lành, ấm áp, đáng trân trọng, tự
hào trong tâm thức cũng như trong cuộc sống đầy thử thách nghiệt ngã mà người
Việt đã và đang phải đối mặt. Bức tranh với nước là tâm điểm, là biểu tượng cho
cả sự sống lẫn cái chết, dần được khắc họa. Mùa len trâu kỹ càng về dàn dựng, về
tạo hình, chiếu sáng, tiếng động và âm nhạc. Cốt truyện phim được triển khai trên
một đề tài không mới, nhưng đã khơi được cái tứ mới. Diễn biến câu chuyện và sự
phát triển tính cách của từng nhân vật tron g Mùa len trâu thật tự nhiên, hợp lý,
không sắp đặt, gượng gạo... Phim chân thực đến từng chi tiết rất bay bổng, vượt
qua cái thực thường tình để đạt tới một tầm cao khác. Trong những phim như Mê
thảo, thời vang bóng (Việt Linh) hay áo lụa Hà Đông, Huyền thoại mẹ (Lưu
- Huỳnh), Dòng máu anh hùng (Nguyễn Chánh Charlie Trực)… người xem cũng
thấy được thành công của các tác giả cũng như những nét đẹp văn hóa của dân tộc
có trong phim.
Tuy nhiên, cũng phải nhìn nhận rằng nhiều trong số các đạo diễn Việt kiều
đó chưa hiểu biết đầy đủ, sâu sắc về văn hóa của dân tộc, bộc lộ sự thiếu hụt về
vốn sống trong phim của họ. Đây chính là hạn chế lớn nhất đã dẫn đến thất bại
hàng loạt của các bộ phim của đạo diễn Việt kiều. Có thể thấy ở một số phim nh ư
1735km, 39 độ yêu, Thập tự hoa, Chuyện tình Sài Gòn, 14 ngày phép… và nhiều
bộ phim khác là những sản phẩm không hoàn thiện do sự thiếu hiểu biết đầy đủ về
các yếu tố văn hóa dân tộc trong đề tài thể hiện của họ.
Khi mà người xem chỉ quan tâm đến phim hay hoặc dở, thì khó chấp nhận
những bộ phim nửa nạc, nửa mỡ. Chẳng hạn như phim 14 ngày phép, đạo diễn
Nguyễn Trọng Khoa, tốt nghiệp biên kịch trường điện ảnh USC (2) danh tiếng.
Xem phim của anh, người ta có cảm giác đạo diễn không kiểm soát được phim của
mình, từ khâu viết kịch bản, giai đoạn tiền kỳ và hậu kỳ... Cũng phải nói rằng đây
không chỉ là trường hợp của Nguyễn Trọng Khoa mà còn của nhiều đạo diễn trẻ
Việt kiều khác… Ngay cả với đạo diễn đàn anh Lưu Huỳnh, phim của anh cũng có
những điểm cần phải bàn cãi về cách thể hiện trên nền văn hóa dân tộc…
Trong thời gian tới, khi mà chính sách nói chung, trong đó có chính sách về
văn hóa, nghệ thuật của Nhà nước ngày càng cởi mở, thì Việt kiều về nước làm
phim sẽ nhiều hơn. Đó là bởi, kinh phí sản xuất phim tại Việt Nam rẻ hơn rất
nhiều so với ở Mỹ và các nước có nền công nghiệp điện ảnh phát triển. Thứ hai,
rất quan trọng với các đạo diễn Việt kiều, về n ước họ được làm những bộ phim
với câu chuyện Việt Nam, thể hiện đời sống tinh thần x ã hội và con người Việt
Nam mà họ mong muốn. Đó là điều mà gần như không thể làm được ở trên đất
Mỹ hoặc các quốc gia khác. Và điều này không chỉ đúng với các đạo diễn là Việt
kiều mà còn đúng cả với các đạo diễn phim truyện người Việt Nam (3). Thực sự,
- phim của nhiều đạo diễn Việt kiều đang đánh mất dần niềm tin nơi khán giả bởi sự
ngây ngô, hời hợt, dễ dãi trong cách nhìn nhận về cuộc sống, con người Việt Nam
đương đại cũng như cách thể hiện các đề tài này. Sản xuất ra một bộ phim là
không dễ dàng vì nhiều điều kiện, nhất là về kinh tế, vì vậy nên chắt chiu từng cơ
hội có được. Mong sao, họ sẽ làm được nhiều hơn những bộ phim Việt thật sự,
chứ không phải những câu chuyện, những con người hay những tập quán văn hóa
xa lạ được vay mượn từ một nơi nào đó và thể hiện áp đặt trong bối cảnh Việt
Nam.
nguon tai.lieu . vn