Xem mẫu

  1. HỘI THẢO KHOA HỌC “PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HỌC CÔNG Ở VIỆT NAM” SỰ TRỞ VỀ CỦA NHỮNG CÔ DÂU VIỆT VÀ NHỮNG NGƢỜI CON LAI TS. Nguyễn Nữ Nguyệt Anh Khoa Xã hội học, Trƣờng ĐH KHXH&NV, ĐHQG TP. HCM Email: nguyen.nunguyetanh@hcmussh.edu.vn PGS. TS. Nguyễn Thị Hồng Xoan Khoa Xã hội học, Trƣờng ĐH KHXH&NV, ĐHQG TP. HCM Email: xoannguyen@hcmussh.edu.vn Tóm tắt: Dựa trên nguồn dữ liệu của 754 bảng hỏi và 84 cuộc phỏng vấn sâu cho nhiều nhóm đối tượng liên quan đến hôn nhân xuyên quốc gia thu thập từ cuộc khảo sát từ năm 2015 đến năm 2016 tại thành phố Cần Thơ và tỉnh Vĩng Long, bài viết bàn về đời sống của những phụ nữ Việt Nam thất bại trong hôn nhân với người chồng nước ngoài (chủ yếu là người Hàn Quốc hay Đài Loan) và những đứa con lai họ đem về Việt Nam. Đồng thời, bài viết cũng phân tích các tác động của sự quay trở về này đối với gia đình và cộng đồng của họ ở Việt Nam. Từ khóa: trở về, hôn nhân xuyên quốc gia, cô dâu Việt, con lai Nghiên cứu về di cƣ trở về (return migration) Trở về đƣợc xem là bƣớc hoàn thành vòng di cƣ, trong đó ngƣời di cƣ quay về nƣớc nhƣng sống ở một nơi khác hay quay về chính quê hƣơng mình (Anarfi & Jägare, 2008; Eastmond, 2006). Sự trở về có thể không nằm trong dự tính của ngƣời di cƣ mà xảy ra trong bối cảnh họ bị trục xuất vì họ là những ngƣời cƣ trú bất hợp pháp tại nƣớc tiếp nhận do thị thực đã hết hạn (Cassarino, 2008). Các nghiên cứu của Nguyen (2017b) và Chimni (2004) đã chỉ ra rằng, những ngƣời di cƣ buộc phải quay về nƣớc một cách không tự nguyện thƣờng gặp nhiều khó khăn trong việc tái hòa nhập cộng đồng nơi họ xuất cƣ, đặc biệt là tìm kiếm việc làm và ổn định cuộc sống. De Bree và các cộng sự (2010) cho biết, trở về không chỉ đơn thuần là việc quay về quê nhà và định cƣ lâu dài mà còn là việc ngƣời di cƣ có đƣợc cảm giác „thuộc về‟ hay không. Mặc dù trở về chính cộng đồng của mình, điều đó không có nghĩa là ngƣời di cƣ có thể tiếp tục cuộc sống trƣớc đây mà họ phải nỗ lực để đƣợc gia đình và cộng đồng chấp nhận. Sau khoảng thời gian di cƣ ra nƣớc ngoài, cộng đồng có thể có nhiều thay đổi và bản thân những ngƣời di cƣ cũng có nhiều thay đổi sau khi họ đã có những trải nghiệm xuyên văn hóa (Chae, 2010; Ghanem, 2003; Hammond, 1999). Do vậy, sau khi trở về, việc ngƣời di cƣ hòa nhập nhanh chóng, ổn định cuộc sống của bản thân là một quá trình đầy khó khăn. Những hoạt động kết nối với gia đình và cộng đồng ở quê nhà giúp cho việc hòa nhập của ngƣời di cƣ đƣợc thuận lợi hơn sau khi họ quay về (Cassarino, 2004; Duval, 2004). Cảm giác „đƣợc thuộc về‟ nghĩa là việc ngƣời di cƣ cảm thấy an toàn khi trở về và gắn bó với gia 218
  2. HỘI THẢO KHOA HỌC “PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HỌC CÔNG Ở VIỆT NAM” đình và quê hƣơng (Yuval-Davis và các cộng sự, 2006). Tuy nhiên, nghiên cứu này cho thấy hầu hết phụ nữ kết hôn với ngƣời nƣớc ngoài không có sự chuẩn bị cho sự quay trở về của mình. Khi họ không cảm thấy an toàn nếu sống với chồng và/hoặc gia đình chồng, họ buộc phải ra đi. Một số phụ nữ tìm cách về Việt Nam càng nhanh càng tốt, trong khi một số ngƣời lƣu lại kiếm việc để tích lũy tiền cho cuộc sống sau này. Việc quay về diễn ra ngoài dự định và thƣờng mang tính đột ngột. Họ quyết định quay về khi cuộc sống hôn nhân không thể cứu vãn hoặc không có việc làm và ngƣời chồng không phụ giúp họ gửi tiền về cho gia đình ở Việt Nam. Những phụ nữ Việt Nam kết hôn với đàn ông nƣớc ngoài trong nghiên cứu này trở về do nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó phần lớn là do sự thất bại trong hôn nhân. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng một số lƣợng lớn phụ nữ Việt Nam kết hôn với đàn ông Hàn Quốc hay Đài Loan và di cƣ theo chồng ra nƣớc ngoài sinh sống là vì lý do kinh tế, với mong muốn sau khi lấy chồng có thể nâng cao điều kiện sống cho bản thân và cho gia đình (Nguyen, 2010; Nguyễn, 2008). Với trình độ học vấn và kỹ năng tay nghề trƣớc khi kết hôn thấp, cộng với việc bị chồng hay gia đình chồng hạn chế cho đi làm, khi hôn nhân thất bại, nhiều ngƣời phải trở về với hai bàn tay trắng và thậm chí đem theo cả ngƣời con lai còn nhỏ, phải nhờ gia đình ở Việt Nam hỗ trợ chăm sóc và nuôi nấng. Bên cạnh đó, những ngƣời phụ nữ này, thí dụ trong nghiên cứu của Kim (2015) về phụ nữ Việt và Mông Cổ kết hôn với đàn ông Hàn Quốc, thƣờng gặp nhiều rắc rối trong thủ tục pháp lý liên quan đến việc chấm dứt chính thức mối quan hệ hôn nhân với ngƣời chồng nƣớc ngoài cũng nhƣ làm các giấy tờ cần thiết nhƣ giấy khai sinh hay hộ chiếu Việt Nam giúp ngƣời con lai có thể đến trƣờng và đƣợc hƣởng các hỗ trợ giành cho trẻ em Việt Nam. Những vấn đề phát sinh liên quan đến sự quay về của những ngƣời phụ nữ di cƣ và những ngƣời con lai không chỉ khiến cho cuộc sống của hai mẹ con gặp khó khăn mà còn ảnh hƣởng rất lớn đến gia đình và cộng đồng ở Việt Nam. Bài viết này bàn về đời sống của những phụ nữ Việt Nam thất bại trong hôn nhân với ngƣời chồng nƣớc ngoài, chủ yếu là ngƣời Hàn Quốc hay Đài Loan, và những đứa con lai họ đem về Việt Nam cũng nhƣ tác động của sự quay trở về này gia đình và cộng đồng của họ ở Việt Nam. Sau khi bàn về các nghiên cứu về di cƣ ngƣợc (quay về cộng đồng xuất cƣ), bài viết sẽ giới thiệu về phƣơng pháp tiếp cận. Tiếp đến, bài viết sẽ phân tích đời sống sau khi quay trở về quê hƣơng của những ngƣời phụ nữ Việt Nam kết hôn với ngƣời nƣớc ngoài và những ngƣời con lai của họ cũng nhƣ những ảnh hƣởng của việc họ quay về Việt Nam trong tình trạng ít đƣợc chuẩn bị cả về tâm lý, pháp lý và điều kiện vật chất đến gia đình và cộng đồng. Phƣơng pháp nghiên cứu Nghiên cứu này sử dụng kết hợp phƣơng pháp định lƣợng và định tính. Dữ liệu sơ cấp của nghiên cứu đƣợc thu thập thông qua khảo sát thực địa từ năm 2015 đến năm 2016, tiến hành ở quận Thốt Nốt (thành phố Cần Thơ) và thị xã Bình Minh và huyện Bình Tân (tỉnh Vĩnh Long), là những địa phƣơng có số lƣợng lớn các cô gái đi lấy chồng nƣớc ngoài, đặc 219
  3. HỘI THẢO KHOA HỌC “PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HỌC CÔNG Ở VIỆT NAM” biệt là ngƣời Đài Loan và Hàn Quốc. Bảng1: Số lƣợng bảng hỏi và phỏng vấn sâu phân theo địa bàn khảo sát Thành phố Cần Tỉnh Vĩnh Long Tổng Thơ Bảng hỏi 311 443 754 Phỏng vấn sâu 46 38 84 Mẫu dành cho bảng hỏi là những hộ gia đình có phụ nữ kết hôn với ngƣời nƣớc ngoài. Mẫu dành cho phỏng vấn sâu bao gồm một số cán bộ địa phƣơng cấp phƣờng/xã và cấp quận/huyện, đại diện Sở Tƣ pháp, Hội Phụ nữ, cô dâu đang về thăm nhà hay đã quay trở về Việt Nam sinh sống, đại diện hộ gia đình (chủ yếu là cha hoặc mẹ) có con kết hôn với ngƣời Đài Loan hay Hàn Quốc. Sự trở về quê nhà của các phụ nữ kết hôn với ngƣời nƣớc ngoài Trong những năm gần đây, ở Hàn Quốc số phụ nữ nƣớc ngoài ly thân hay ly hôn ngƣời chồng Hàn quay về quê nhà tăng. Theo thống kê của Hàn Quốc về ngƣời nƣớc ngoài năm 2014, tỷ lệ ly hôn của các gia đình đa văn hóa là 11,7%,; trong đó đối với những cặp có con nhỏ thì tỷ lệ này lên đến 23.1% và có xu hƣớng gia tăng. Những phụ nữ đã ly thân hay ly hôn và chƣa nhập đƣợc quốc tịch thƣờng bị trục xuất vì họ “không phù hợp để đƣợc trao quyền công dân hay cƣ trú thêm” vì họ là “những cá nhân không cần thiết nữa” (Kim và các cộng sự, 2017, p. 39). Việt Nam và các nƣớc – quê hƣơng ngƣời chồng của các cô dâu Việt đều không có thống kê đầy đủ về số phụ nữ quay trở về một mình hay với con của họ bởi vì nhiều ngƣời trong số họ chƣa hoàn tất các thủ tục ly dị ở quê chồng và cũng không khai báo với chính quyền địa phƣơng quê nhà về sự trở về của mình. Việc “chạy trốn” khỏi chồng và đem theo con là công dân của nƣớc sở tại để quay về Việt Nam định cƣ lâu dài không đƣợc chính phủ của các quốc gia này khuyến khích, thậm chí là vi phạm luật. Ngƣời nữ di cƣ thƣờng xem việc họ quay về nƣớc là một sự kiện vui sau khi họ đã kết thúc chuỗi ngày khó khăn ở xứ ngƣời. Ruben và các cộng sự (2009) cho rằng sự trở về chỉ có thể ổn định khi những ngƣời trở về có thể đƣợc kết nối với gia đình và cộng đồng trên các khía cạnh kinh tế, mạng xã hội và tâm lý - xã hội. Tuy nhiên, các câu chuyện mà nghiên cứu thu thập đƣợc từ các cuộc phỏng vấn sâu ở cả Vĩnh Long và Cần Thơ cho thấy rằng những phụ nữ kết hôn với ngƣời nƣớc ngoài sau khi trở về đều có kinh tế khó khăn, mang những nỗi buồn và những tổn thƣơng tâm lý sâu sắc. Tƣơng tự với nghiên cứu của Bélanger và các cộng sự (2009), những ngƣời phụ nữ Việt Nam kết hôn với ngƣời nƣớc ngoài và gia đình họ đã kỳ vọng rất lớn rằng cuộc hôn nhân xuyên quốc gia sẽ giúp cuộc sống của họ tốt hơn, nhất là về mặt kinh tế. Vì vậy, khi họ trở về tay trắng thì họ thƣờng cảm thấy bị kỳ thị do chƣa làm tốt vai trò của mình trong việc duy trì hôn nhân (nhằm duy trì sự đảm bảo đƣợc cƣ trú ở nƣớc ngoài để có cơ hội kiếm tiền). Do không chuẩn bị cho sự trở về, những phụ nữ này gặp càng nhiều khó khăn trong việc tái hòa nhập với chính cộng đồng quê hƣơng mình. 220
  4. HỘI THẢO KHOA HỌC “PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HỌC CÔNG Ở VIỆT NAM” Thái độ của gia đình và cộng đồng đối với việc trở về của các cô dâu Việc ly thân, ly dị hay trở thành góa bụa của những ngƣời phụ nữ tham gia vào hôn nhân quốc tế không chỉ đƣợc xem là thất bại trong hôn nhân mà còn là thất bại trong việc phụ giúp kinh tế cho gia đình. Vì mục đích ban đầu khi kết hôn với ngƣời nƣớc ngoài của phần lớn các cô dâu trong nghiên cứu này là để nâng cao đời sống kinh tế cho gia đình ở Việt Nam nên khi quay về quê nhà trắng tay, họ thƣờng cảm thấy xấu hổ và sợ bị cộng đồng dị nghị. Nghiên cứu của Kim và các đồng sự (2017) về sự trở về quê nhà của những phụ nữ Việt Nam và Mông Cổ lấy chồng Hàn Quốc cho thấy họ thƣờng chịu những lời đồn không hay và sự kỳ thị của chính cộng đồng nơi mình sinh sống ở Việt Nam. Những phụ nữ trở về tay không thƣờng bị xem là những ngƣời di cƣ thất bại, đặc biệt là khi họ làm mẹ đơn thân và đem theo con nhỏ về nƣớc. Điều này giải thích nguyên nhân của việc rất nhiều phụ nữ sau khi ly thân hay ly hôn chồng vẫn quyết định ở lại nƣớc của chồng để sống và làm việc dù thị thực của họ không còn hiệu lực do ngƣời chồng từ chối bảo lãnh cho vợ. Sau khi kết hôn, cộng đồng thƣờng xem họ là những ngƣời thuộc về „nơi khác‟ (quốc gia nhập cƣ quê chồng) trong khi „nơi khác‟ đã gần nhƣ chối bỏ quyền cƣ trú cũng nhƣ các quyền xã hội khác do vai trò của họ với tƣ cách là vợ của các công dân của các quốc gia này đã chấm dứt. Vào năm 2010, một trong những nhà nghiên cứu của cuộc khảo sát này đƣợc một tờ báo có tiếng của Thành phố Hồ Chí Minh đặt hàng viết một loạt phóng sự về hôn nhân xuyên quốc gia ở Đồng bằng Sông Cửu Long. Tòa báo đã „gợi ý‟ cho tác giả hãy tập trung làm cho những câu chuyện về hôn nhân xuyên quốc gia này trở nên „bê bối‟, tạo dƣ luận theo hƣớng tiêu cực. Điều này, theo ban biên tập giải thích, là để làm cho dƣ luận xã hội nổi giận và công chúng sẽ đấu tranh để các nhà cầm quyền thắt chặt các cuộc hôn nhân quốc tế này ở Việt Nam. Ở thời điểm đó, chính quyền địa phƣơng đã tránh trao đổi với nhà nghiên cứu về các vấn đề liên quan đến hôn nhân xuyên quốc gia trong khu vực của họ do lo sợ rằng họ sẽ bị khiển trách vì thiếu khả năng „kiểm soát‟ vấn đề này. Họ chỉ trích những ngƣời phụ nữ tham gia vào hôn nhân quốc tế là „đánh mất phẩm hạnh của phụ nữ‟ hay là „nỗi ô nhục quốc gia‟. Tuy nhiên, trong lúc nói chuyện thân tình, chính vị cán bộ này đã làm cho nhà nghiên cứu ngạc nhiên khi thẳng thắn chia sẻ rằng “hôn nhân quốc tế thực chất là một cách giảm nghèo hiệu quả trong địa phƣơng. Phải cảm ơn những ngƣời phụ nữ này vì nhờ họ mà điều kiện kinh tế tại địa phƣơng đƣợc cải thiện” (Cán bộ tƣ pháp thành phố CT, 2009). Những phản ứng trái chiều của dƣ luận và chính quyền địa phƣơng cho thấy những ngƣời sống ngoài cộng đồng của các phụ nữ kết hôn với ngƣời nƣớc ngoài thƣờng có những định kiến với các cuộc hôn nhân quốc tế trong khi những ngƣời sống trong cộng đồng có cái nhìn bớt khắt khe hơn đối với quyết định lấy chồng nƣớc ngoài của các cô gái. Nghiên cứu này đƣa ra kết quả khá tích cực về thái độ của gia đình cũng nhƣ cộng đồng trong những năm gần đây đối với việc trở về của những phụ nữ kết hôn với ngƣời nƣớc ngoài (xem Bảng 2). 221
  5. HỘI THẢO KHOA HỌC “PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HỌC CÔNG Ở VIỆT NAM” Bảng 2: Thái độ của họ hàng, cộng đồng và chính quyền đối với hôn nhân xuyên quốc gia Thái độ của họ Thái độ của cộng Thái độ của chính hàng đồng quyền Hoàn toàn phản 1,0% 1,3% 0% đối Phản đối 5,5% 5,1% 1,0% Bình thƣờng 48,2% 53,1% 69% Ủng hộ 22,8% 21,2% 16,4% Hoàn toàn ủng hộ 22,5% 19,3% 13,5% (Phỏng vấn bảng hỏi hộ gia đình tại Cần Thơ, tháng 8 năm 2016) Bảng 2 chỉ ra rằng họ hàng, cộng đồng nói chung và chính quyền địa phƣơng hầu nhƣ đều cho rằng việc các phụ nữ trong vùng quyết định kết hôn với ngƣời nƣớc ngoài là bình thƣờng (tỷ lệ tƣơng ứng là 48,2%; 53,1% và 69%). Ngạc nhiên là, tỷ lệ thể hiện sự ủng hộ và hoàn toàn ủng hộ các cuộc hôn nhân này từ họ hàng là 45,3%, từ cộng đồng là 40,5%, và từ chính quyền địa phƣơng là 29,9%. Kết quả này cho thấy hôn nhân xuyên quốc gia đã đƣợc ngƣời dân trong các khu vực đƣợc khảo sát chấp nhận nhƣ một hiện tƣợng bình thƣờng. Khi cô gái trở về, phản ứng thƣờng thấy của gia đình là “bình thƣờng”, “không có tiền thì về thôi”, “cũng không nghĩ gì nhiều, thấy bển khổ quá nên về đây kiếm chồng cũng tốt” hay “tùy con gái, nếu hạnh phúc thì ở, còn không hạnh phúc thì chia tay thôi”. Có những ngƣời tỏ rõ thái độ vui mừng “mừng lắm, trông con về, nhớ nó” hay tỏ rõ sự thất vọng vì cuộc hôn nhân của cô gái bị đổ vỡ “buồn, mong con có cuộc sống tốt hơn”. Khi thấy cô dâu trở về, một số ngƣời bà con, hàng xóm có ngƣời hỏi thăm hoàn cảnh, nơi sống bên nƣớc ngoài của cô gái, ngƣời tỏ thái độ vui và cảm thông “con về thấy vui quá”, “về nƣớc mà sống tốt hơn là đƣợc chứ bên đó khổ cực quá” trong khi một số ngƣời “không nói gì vì trong xóm cũng có nhiều gia đình bị gạt nên về nƣớc”. Nhìn chung, gia đình, cộng đồng cũng nhƣ chính quyền địa phƣơng của những địa bàn đƣợc khảo sát cảm thấy việc kết hôn với ngƣời nƣớc ngoài của các phụ nữ trong vùng là bình thƣờng. Khi thất bại trong hôn nhân và trở về, làng xóm và chính quyền địa phƣơng cũng ít có thái độ dị nghị vì hiện tƣợng này đã xảy ra khá phổ biến trong vùng trong những năm gần đây. Họ xem đây chỉ là những trƣờng hợp không may, còn đa phần những ngƣời phụ nữ kết hôn với ngƣời nƣớc ngoài khác đều có cuộc sống hạnh phúc hơn. Tuy nhiên, chính bản thân các cô dâu khi trải nghiệm sự đổ vỡ hôn nhân lại cảm thấy e ngại, sợ bị cộng đồng chê trách nhƣ nhận xét của một cô dâu: Dƣ luận xã hội trƣớc khi lấy chồng thì không có gì bất thƣờng, vì ngƣời dân ở đây đã quen với việc cô dâu Việt Nam lấy chồng nƣớc ngoài, họ không nói gì, thậm chí còn mừng cho cô dâu. Tuy nhiên, khi bỏ chồng về nƣớc, bề ngoài thì không quan tâm, nhƣng họ vẫn nói vào nói ra. Dù gì truyền thống nƣớc mình, con gái bỏ chồng, ngƣời ta không thích. 222
  6. HỘI THẢO KHOA HỌC “PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HỌC CÔNG Ở VIỆT NAM” (An, cô dâu, phỏng vấn sâu, ngày 12.08.2016) Tóm lại, ở những khu vực có số lƣợng lớn phụ nữ kết hôn với ngƣời nƣớc ngoài nhƣ Cần Thơ và Vĩnh Long, gia đình, cộng đồng và chính quyền đều không có những phản ứng khắt khe đối với những trƣờng hợp thất bại trong hôn nhân và trở về quê nhà. Tuy vậy, những mặc cảm của việc kết hôn vì tiền nhƣng lại thất bại, không thể tiếp tục giúp đỡ gia đình cũng nhƣ đã từng trải qua một đời chồng khiến những ngƣời phụ nữ này cảm thấy thiếu tự tin trong việc hòa nhập vào cộng đồng. Bên cạnh đó, họ cũng phải đối mặt với nhiều khó khăn khác trong quá trình tiếp tục cuộc sống ở quê nhà. Những trở ngại về kinh tế, pháp lý và tinh thần đối với các cô dâu Chủ nghĩa đa văn hóa của Hàn Quốc phản ánh quan điểm vì quốc gia dân tộc và kỳ vọng những ngƣời phụ nữ di cƣ tham gia vào hệ thống gia trƣởng (Kim, 2007). Những ngƣời phụ nữ này không đƣợc đối xử bình đẳng nhƣ ngƣời chồng của họ mà chỉ đơn thuần là những ngƣời vợ của những ngƣời đàn ông Hàn Quốc và là mẹ của những trẻ em lai Hàn - Việt mang quốc tịch Hàn Quốc. Những phụ nữ có con đƣợc đối xử tốt hơn về mặt cƣ trú, có cơ hội thuận lợi hơn khi xin quốc tịch và các hỗ trợ xã hội khác. Công dân đƣợc hiểu là một cá nhân có tƣ cách pháp lý, các quyền, đƣợc tham gia và thuộc về xã hội nào đó cả về chính trị lẫn địa lý (Bloemraad và các cộng sự, 2008, pp. 153-154). Chính phủ Hàn Quốc trao họ quyền công dân và ngƣời chồng Hàn hỗ trợ họ hoàn tất các thủ tục để trở thành công dân vì họ làm tốt vai trò của một ngƣời mẹ của những đứa con mang quốc tịch Hàn Quốc (Kim, 2013). Kim (2015) và Heo (2012) cho rằng Hàn Quốc vẫn còn giữ tƣ tƣởng quốc gia chủ nghĩa; do vậy, việc quản lý xã hội và giúp cho các cô dâu hội nhập chỉ diễn ra trong lãnh thổ quốc gia. Những ngƣời nhập cƣ khi đã ra khỏi lãnh thổ thì không còn là mối quan tâm của họ nữa. Điều này xảy ra tƣơng tự ở Đài Loan. Sau khi ly thân hay ly dị với ngƣời chồng nƣớc ngoài, những cô dâu Việt thƣờng gặp những rắc rối về mặt pháp lý trong việc có đƣợc giấy chứng nhận ly hôn vì cần có sự tham gia của ngƣời chồng trong việc hoàn tất các thủ tục ly hôn. Do vậy, nhiều phụ nữ gặp khó khăn trong việc tái hôn và ổn định cuộc sống mới sau này. Luật Hôn nhân và gia đình của Việt Nam quy định rằng các công dân Việt Nam đã làm thủ tục ghi chú hôn nhân tại Việt Nam, khi muốn ly hôn ngƣời chồng/vợ ngƣời nƣớc ngoài phải nộp giấy xác nhận rằng việc ly hôn của họ đã đƣợc chấp thuận bởi tòa nơi họ chính thức đăng ký hết hôn. Nếu một bên vắng mặt, ngƣời vắng mặt phải nộp giấy báo vắng đƣợc xác nhận bởi một đại diện lãnh sự. Do vậy, họ phải cẩn thận vì tài liệu ly hôn chỉ có thời gian trong một thời gian nhất định. Nếu không, ngay cả trong trƣờng hợp ngƣời chồng thuận tình ly hôn, ngƣời vợ cũng không thể hoàn tất thủ tục ly hôn tại Việt Nam. Nghiên cứu này ghi nhận năm trƣờng hợp cô dâu quay về với những di chứng tổn thƣơng tinh thần nghiêm trọng và sự thiếu thốn vật chất, phải nhờ đến sự hỗ trợ của ngƣời thân trong việc chữa trị và duy trì cuộc sống. Những cô dâu này quay về Việt Nam trong tâm thế “bị trục xuất”, “bị trả về” hay “buộc phải quay về vì không thể chịu đựng đƣợc nữa”. Hầu hết các trƣờng hợp khác trở về tay không và ôm theo con còn nhỏ. Một số phụ nữ chƣa có quốc 223
  7. HỘI THẢO KHOA HỌC “PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HỌC CÔNG Ở VIỆT NAM” tịch chính thức hiểu rằng việc xin thị thực quay lại Hàn Quốc hay Đài Loan theo diện đi làm khá khó khăn và tốn kém; do vậy, sau khi “chạy trốn” khỏi nhà chồng, họ quyết định ở lại quê chồng làm việc mong kiếm đƣợc một số tiền. Tuy nhiên, trên thực tế, ngƣời chồng đã ngừng bảo lãnh hay không gia hạn thị thực cho vợ mình và đơn phƣơng ly hôn. Các cô dâu này không còn quyền cƣ trú hợp pháp và có thể bị trục xuất về nƣớc bất cứ lúc nào. Cơ hội để quay trở lại quê chồng vì bất cứ lý do gì, ngay cả để thăm con, đều rất khó khăn. Một số cô dâu mạnh mẽ hơn, sau khi quay về đã tự đƣa ra các chiến lƣợc cho việc bắt đầu lại cuộc sống mới bằng cách gửi con lại nhờ cha mẹ chăm sóc (nếu có con), tìm việc làm (thƣờng là di cƣ ra nƣớc ngoài hay đến vùng khác ở Việt Nam) hay/và tái hôn. Nhiều phụ nữ quyết định vẫn tái hôn với ngƣời nƣớc ngoài để tìm kiếm cơ hội ra nƣớc ngoài làm việc và xem đổ vỡ của cuộc hôn nhân trƣớc đó là thất bại ban đầu. Việc quay về sống và làm việc ở cộng đồng làm cho các cô dâu có cảm giác không thoải mái và ngại rằng gia đình cũng sẽ bị đàm tiếu nếu họ không thể tìm đƣợc công việc tốt. Điều này thể hiện rằng việc tái định cƣ ở ngay chính cộng đồng của mình không dễ dàng đối với những phụ nữ thất bại trở về mặc dù cộng đồng đã bớt khắt khe hơn đối với những trƣờng hợp này. Hệ quả của việc trở về của cô dâu đến gia đình và cộng đồng ở Việt Nam Sau khi ly thân hay ly hôn, hầu nhƣ không có phụ nữ Việt Nam kết hôn với ngƣời nƣớc ngoài nào đƣợc hƣởng chút tài sản gì từ chồng. Thậm chí, khi ngƣời chồng đã mất, toàn bộ tài sản và tiền bảo hiểm của chồng cũng bị nhà chồng thu giữ mà không chia lại một phần nhỏ nào. Sự trở về của các cô dâu Việt lấy chồng nƣớc ngoài xảy ra trong những bối cảnh không mong muốn và không đƣợc dự đoán trƣớc. Do vậy, các cô dâu ít có sự chuẩn bị về tâm lý và tài chính cho việc quay về quê nhà. Nếu nhƣ trƣớc đây các nƣớc tiếp nhận mở rộng cửa chào đón cô dâu thì ngay sau khi ngƣời chồng nƣớc ngoài thông báo cho Sở Di trú là cô dâu “chạy trốn” hay “bắt cóc trẻ em” cánh cửa này bỗng đóng sập lại. Nghiên cứu này ghi nhận, tất cả những cô dâu bỏ đi khỏi nhà chồng đều là những trƣờng hợp chƣa có quốc tịch của quê chồng. Mọi quyền lợi, kể cả quyền đƣợc cƣ trú cũng bị tƣớc đoạt ngay sau một thời gian ngắn. Chỉ một số cô dâu chấp nhận trở thành bất hợp pháp, cố nán lại nƣớc sở tại để làm việc kiếm tiền, tích lũy chút vốn liếng trƣớc khi bị trục xuất về nƣớc. Hầu hết, họ quay về một mình hay với con nhỏ trong sự bất lực và không có chút tài sản gì. Điều này đồng nghĩa với việc sự hỗ trợ kinh tế cho gia đình ở Việt Nam bị gián đoạn. Chƣa kể, họ phải nhờ gia đình hỗ trợ kinh tế trong quá trình tìm việc làm mới ở trong nƣớc hay ở nƣớc ngoài. Tình trạng của một số cô dâu sau khi trở về thậm chí còn tệ hơn cả trƣớc lúc di cƣ. Nhƣ đã trình bày ở trên, một số cô bị trầm cảm, tâm thần, hầu nhƣ không thể tự lo cho cuộc sống của mình mà phải phụ thuộc hoàn toàn vào sự hỗ trợ tài chính và chăm sóc của ngƣời thân. Không những các cô đã không thể tiếp tục giúp đỡ gia đình mà ngƣợc lại, còn phải sống nhờ ngƣời thân. Bảo hiểm y tế hỗ trợ một phần chi phí chữa trị cho ngƣời bị bệnh tâm thần và nhà nƣớc trợ cấp một số tiền nhỏ cho họ. Những ngƣời phụ nữ này dù đang trong độ tuổi lao động nhƣng hầu nhƣ không còn khả năng lao động kiếm sống. Con số những ngƣời phụ nữ 224
  8. HỘI THẢO KHOA HỌC “PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HỌC CÔNG Ở VIỆT NAM” kết hôn với ngƣời nƣớc ngoài bị bệnh liên quan đến thần kinh ngày càng tăng. Sau khi về quê nhà, họ trở thành gánh nặng dai dẳng cho gia đình của mình, vốn đã nghèo lại càng khó khăn hơn. Con lai và trách nhiệm của gia đình và cộng đồng trong việc chăm sóc trẻ em lai Sau khi ly thân hay ly hôn với chồng nƣớc ngoài, những ngƣời phụ nữ Việt Nam không chỉ gặp rắc rối trong việc hoàn tất thủ tục ly hôn mà còn trong việc đấu tranh để giành quyền nuôi con. Nếu họ bị buộc phải rời khỏi quê chồng, họ hầu nhƣ không thể đƣợc quyền nuôi con dù con còn nhỏ. Những ngƣời con lai này đều mang quốc tịch của ngƣời cha. Ở Hàn Quốc, tòa thƣờng ƣu tiên trao quyền nuôi con cho ngƣời cha hoặc mẹ có khả năng kinh tế cao hơn và có điều kiện chăm sóc con tốt hơn (Nguyen, 2017a). Ngay cả khi ngƣời mẹ nƣớc ngoài đi làm và tạo ra thu nhập, họ cũng hiếm khi có thể giành đƣợc quyền này. Một số phụ nữ chấp nhận để con lại cho ngƣời chồng vì họ nghĩ con họ sẽ có môi trƣờng tốt hơn khi ở nƣớc ngoài dù biết rằng cơ hội gặp lại con rất mong manh. Trong khi đó, một số phụ nữ đã quyết định bí mật đƣa con về Việt Nam mà ngƣời chồng của họ không hề hay biết. Thí dụ, đối với trƣờng hợp hôn nhân Hàn - Việt, nếu bị ngƣời chồng phát hiện và trình báo với chính quyền, những phụ nữ này có thể bị khép tội “bắt cóc trẻ em” và hầu nhƣ bị tƣớc quyền nuôi dƣỡng con của chính mình. Điều này là do ngƣời Hàn Quốc còn giữ quan niệm về huyết thống, trong đó đứa trẻ tự nhiên đã là công dân Hàn Quốc và thuộc về ngƣời cha. Vì vậy, ngƣời phụ nữ nƣớc ngoài không có cơ hội thực hiện quyền của mình với tƣ cách là ngƣời mẹ (Kim, 2015). Lee (2015) nhận định rằng, trong khi ở nhiều nƣớc khác, ngƣời di cƣ phải đối mặt với những khó khăn trong việc đƣa con của họ đến nƣớc đến thì những phụ nữ di cƣ sang Hàn Quốc theo diện kết hôn gặp khó khăn trong việc đƣa con họ đi ra khỏi lãnh thổ Hàn Quốc. Do vậy, khi đã nhận thấy không thể tiếp tục mối quan hệ với ngƣời chồng Hàn, một số phụ nữ Việt ôm con chạy về Việt Nam trong tình trạng thiếu chuẩn bị tài chính và các tài liệu cần thiết liên quan đến đứa trẻ, trừ cuốn hộ chiếu. Con số chính thức về con lai theo mẹ về Việt Nam định cƣ lâu dài khó có thể thống kê cụ thể. Bộ Tƣ Pháp Hàn Quốc đã ghi nhận 63 trƣờng hợp phụ nữ Việt Nam rời khỏi Hàn Quốc cùng với đứa con mang quốc tịch Hàn trong thời gian từ tháng 1 đến tháng 5 năm 2010. Tuy nhiên, họ không thể chắc chắn liệu những ngƣời phụ nữ này sau đó có đem con trở lại Hàn Quốc hay không. Điều này xảy ra tƣơng tự với các con lai Đài - Việt hay Singapore - Việt. Bên cạnh những đứa trẻ lai mang quốc tịch nƣớc ngoài, nhiều trẻ lai mang quốc tịch Việt Nam đang sống với ngƣời thân bên ngoại ở Việt Nam. Hầu hết, đó là những trƣờng hợp ngƣời mẹ bỏ về Việt Nam trong quá trình mang bầu, sinh con ở Việt Nam và nhập quốc tịch Việt Nam cho con. Khi số trẻ em lai ngày càng tăng, đặc biệt là ở những vùng có nhiều phụ nữ kết hôn với ngƣời nƣớc ngoài, việc chăm sóc và quản lý nhóm trẻ này không chỉ là trách nhiệm của riêng gia đình mà của địa phƣơng nơi các em sống. Đời sống của những ngƣời con lai khi ở quê mẹ Báo cáo Kết quả khảo sát tình hình trẻ em là con của công dân Việt Nam với ngƣời nƣớc ngoài trên địa bàn quận Thốt Nốt đến ngày 30/6/2016 của Phòng Tƣ pháp quận cho thấy 225
  9. HỘI THẢO KHOA HỌC “PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HỌC CÔNG Ở VIỆT NAM” tổng số trẻ em lai trên địa bàn là 154; trong đó 144 trẻ đã đăng ký khai sinh, 10 trẻ chƣa đăng ký khai sinh, 46 trẻ đã có quốc tịch Việt Nam. Phòng Lao động, Thƣơng binh - Xã hội quận Thốt Nốt cũng đã tổng kết, cho đến năm 2016, trẻ em là con phụ nữ Việt Nam kết hôn với ngƣời nƣớc ngoài trở về địa phƣơng có các quốc tịch khác nhau, cụ thể Đài loan: 82, Hàn Quốc: 26, Malaysia: 4, Singapore: 2, Việt Nam: 29, Mỹ 2. Đây chỉ là những báo cáo từ quận Thốt Nốt, thành phố Cần Thơ nơi có nhiều phụ nữ kết hôn với ngƣời nƣớc ngoài. Ở những địa bàn khác, hiếm có những báo cáo liên quan đến trẻ em lai. Điều này cho thấy, vấn đề trẻ em lai còn mới, gây lúng túng cho chính quyền địa phƣơng trong việc quản lý, cho cộng đồng trong việc chấp nhận và cho gia đình trong việc chăm sóc và nuôi dƣỡng. Trẻ em lai đƣợc gửi về cho nhà ngoại (thƣờng là ông bà ngoại đã già) do nhiều nguyên nhân, chủ yếu là: cha mẹ đang trong hôn nhân nhƣng bận rộn với công việc nên không có thời gian chăm sóc con chu đáo, cha mẹ ly thân/ly hôn và mẹ đi làm ở thành phố khác hay ở nƣớc ngoài hay mẹ lập gia đình mới. Điểm đáng lƣu ý là, ngoài một số phụ nữ kết hôn với ngƣời Đài Loan ly thân/ly hôn chồng phải gửi con cho cha mẹ để đi làm thì một số khác tạm thời gửi con về cho nhà ngoại do không sắp xếp đƣợc thời gian trông con vì phải cùng chồng đi làm. Điều này không xảy ra với các cặp Hàn - Việt nào trong nghiên cứu này. Không có cặp vợ chồng Hàn - Việt nào trong nghiên cứu này nhờ nhà ngoại chăm sóc em bé. Việc nhấn mạnh đến tính thuần nhất của chủng tộc làm cho ngƣời dân Hàn Quốc tin vào sự vƣợt trội về văn hóa Hàn Quốc so với các nền văn hóa khác (Koo, 2007; Lee, 2008; Park & Watson, 2011), đặc biệt là văn hóa của ngƣời vợ đến từ các quốc gia Đông Nam Á nghèo. Vì vậy, dù kinh tế khó khăn, ngƣời chồng Hàn Quốc và gia đình chồng vẫn không cho phép ngƣời vợ Việt Nam đem con nhờ nuôi nấng. Có những khác biệt giữa nhóm cha mẹ đang trong hôn nhân nhờ nhà ngoại chăm sóc con trong một khoảng thời gian nhất định và nhóm những ngƣời mẹ ly thân/ly hôn và buộc phải gửi con cho ông bà nuôi dƣỡng. Nhóm cha mẹ đang trong hôn nhân (thƣờng là Đài - Việt) thƣờng gửi tiền chu cấp cho con và một ít cho ông bà. Họ cũng thƣờng xuyên giữ liên lạc và cập nhật tình hình con cái. Họ thƣờng nhờ gia đình vợ nuôi con giúp cho đến khi bé đi học lớp 1 sẽ đón bé quay trở lại Đài Loan. Một số trẻ đƣợc ông bà gửi đi học mẫu giáo để có cơ hội tiếp xúc với bạn bè cùng trang lứa và biết nói tiếng Việt. Những đứa trẻ này nhận đƣợc sự yêu thƣơng từ cha mẹ và gia đình bên ngoại. Trong khi đó, nhóm trẻ lai có mẹ đơn thân thƣờng có cuộc sống khó khăn hơn cả về vật chất lẫn tinh thần. Sau khi ly thân/ly hôn với chồng và gửi con về nhờ gia đình ở Việt Nam nuôi dƣỡng, hầu hết những ngƣời mẹ đơn thân quay trở lại quê chồng để tìm việc nếu thị thực của họ còn hạn hoặc di cƣ đến thành phố khác kiếm tiền. Một số phụ nữ sau đó tái hôn với chồng ngƣời Việt Nam hay nƣớc ngoài để xây dựng hạnh phúc mới. Con của nhóm phụ nữ này nhận đƣợc ít sự hỗ trợ tài chính và tình cảm của mẹ. Những ngƣời mẹ này thƣờng chỉ gửi một ít tiền đủ để trang trải chi phí sinh hoạt hằng ngày cho con, thậm chí chỉ đủ đóng học phí cho con hay hoàn toàn không chu cấp. Họ cũng bận rộn với việc kiếm tiền hay phải chăm lo cho gia đình mới của mình nên ít liên lạc và tâm sự với con. Do vậy, những đứa trẻ có mẹ đơn thân hay tái hôn thƣờng sống khép 226
  10. HỘI THẢO KHOA HỌC “PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HỌC CÔNG Ở VIỆT NAM” mình, mặc cảm với cảnh không cha, thiếu thốn tình cảm của ngƣời mẹ và sống trong nghèo khó. Một số trẻ thậm chí còn không đƣợc đi học vì ông bà đã già yếu, không lo nổi học phí và đồ dùng học tập cho cháu. Ở thời điểm thực hiện nghiên cứu tại Vĩnh Long và Cần Thơ, có nhiều trẻ lai đang sống cùng ông hoặc/và bà ngoại. Một số em ban đầu bị bạn bè trêu chọc là “những đứa không cha” hay “con lai” làm cho các em rất tủi thân. Dần dần bạn bè cũng bớt tỏ thái độ tiêu cực và chơi đùa bình thƣờng với các em. Các thầy cô và mọi ngƣời xung quanh thƣờng cố gắng giúp đỡ các em về vật chất và hỗ trợ các em hòa nhập vào cuộc sống ở quê mẹ. Những khó khăn của gia đình và cộng đồng trong việc nuôi dƣỡng và chăm sóc trẻ em lai Sự gửi nhờ con cho ông bà ngoại và ngƣời thân chăm sóc có thể đi kèm với chu cấp tài chính hoặc không. Trong trƣờng hợp ngƣời nuôi dƣỡng con lai chỉ nhận đƣợc khoản tài chính hạn hẹp từ ngƣời mẹ đơn thân, họ thƣờng phải chi tiêu rất tiết kiệm vì bản thân họ đã già yếu, phần lớn đã hết khả năng lao động tạo thu nhập. Việc nuôi dƣỡng và chăm sóc trẻ em lai trở thành gánh nặng kinh tế cho gia đình nhà ngoại. Họ không những không hoặc hạn chế nhận đƣợc sự giúp đỡ tài chính từ con gái mà còn phải lo chi phí sinh hoạt và học hành cho cháu. Họ cũng thay thế ngƣời mẹ làm nhiệm vụ chăm sóc và nuôi dạy cháu. Khi đem con về Việt Nam trong tình trạng “chạy trốn” khỏi chồng, những ngƣời phụ nữ kết hôn với ngƣời nƣớc ngoài chỉ cầm theo cuốn hộ chiếu mà không có giấy khai sinh của con. Vì vậy, khi làm thủ tục đòi hỏi cần giấy khai sinh nhƣ nhập học hay mua bảo hiểm y tế, ngƣời nuôi dƣỡng trẻ lai gặp nhiều rắc rối. Do các em đang mang hộ chiếu nƣớc ngoài nên tiền học phí cao và phải mua bảo hiểm y tế trong khi ngƣời nuôi dƣỡng các em là ông bà già yếu có điều kiện kinh tế rất khó khăn. Chính vì vậy, dù đã đến hay quá tuổi đi học nhiều trẻ em lai không đƣợc đến trƣờng. Bên cạnh đó, vì các em là ngƣời nƣớc ngoài nên mỗi ba tháng gia đình phải gia hạn thị thực cho các em. Số tiền gia hạn thị thực cao so với điều kiện kinh tế của ngƣời nuôi dƣỡng và thủ tục gia hạn đòi hỏi những ngƣời này phải đi tới nhiều cơ quan có thẩm quyền để đƣợc xác nhận trong khi họ là những ngƣời già. Điều này ảnh hƣởng không nhỏ đến sức khỏe và khả năng tài chính của ông bà ngoại. Một số ngƣời nuôi dƣỡng đã không biết thị thực của cháu cần phải gia hạn hay họ không có khả năng gia hạn thị thực. Nếu thị thực không đƣợc gia hạn, trẻ lai trở thành ngƣời cƣ trú bất hợp pháp tại địa phƣơng mặc dù họ là con của ngƣời mẹ Việt Nam. Xác định rõ rằng ngƣời con lai sẽ không đƣợc gửi lại cho ngƣời cha ở nƣớc ngoài và ngƣời mẹ hầu nhƣ không thể quay lại nơi họ đã từng sống với chồng vì hết hạn thị thực hoặc thậm chí không nhớ tên bệnh viện nơi mình sinh con để xin giấy chứng sinh, nhiều ngƣời mẹ đã quyết định làm giấy khai sinh cho trẻ lai ở Việt Nam và xin đƣợc nhập quốc tịch Việt Nam cho trẻ. Nhóm trẻ lai mang quốc tịch Việt Nam đƣợc hƣởng các chính sách của chính phủ Việt Nam dành cho trẻ em nhƣ không phải đóng học phí cho đến hết cấp II và các chi phí khác cũng thấp hơn rất nhiều so với trẻ mang quốc tịch nƣớc ngoài. Trên địa bàn hai vùng khảo sát, hiện nay đang xảy ra tình trạng nhiều phụ nữ kết hôn với 227
  11. HỘI THẢO KHOA HỌC “PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HỌC CÔNG Ở VIỆT NAM” ngƣời nƣớc ngoài mang con trở về quê sinh sống lâu dài, trong đó nhiều trẻ em vẫn đang mang quốc tịch nƣớc ngoài. Chính quyền địa phƣơng gặp nhiều khó khăn trong việc quản lý trẻ lai có quốc tịch nƣớc ngoài cƣ trú trong khu vực cũng nhƣ giải quyết những thủ tục giấy hành chính liên quan đến nhóm trẻ này. Phần đông các em ở với ông bà ngoại già yếu do mẹ của các em thƣờng đi làm xa, cha không đoái hoài đến, các em ít đƣợc hƣởng sự nuôi dƣỡng và chăm sóc trọn vẹn. Nhiều em không đƣợc đi học và một số em có biểu hiện trầm cảm. Các em sẽ tiếp tục sống và trƣởng thành ở quê mẹ; vì vậy, việc không đƣợc đến trƣờng và thiếu thốn sự chăm sóc của cha mẹ sẽ khiến các em không định hƣớng đƣợc tƣơng lai của mình. Về lâu dài, điều này sẽ ảnh hƣởng không nhỏ không những đến cuộc đời của chính các em mà còn đến gia đình và cộng đồng địa phƣơng. Kết luận Nhiều cuộc nghiên cứu đã chứng minh rằng hôn nhân xuyên quốc gia đã có những tác động tích cực đến kinh tế gia đình và cộng đồng ở Việt Nam. Tuy nhiên, hệ lụy của các cuộc hôn nhân thất bại cũng gây nhiều ảnh hƣởng tiêu cực đến không chỉ các cặp đôi, nhất là các cô dâu mà còn đến ngƣời con lai, gia đình của họ và cộng đồng ở Việt Nam. Sự trở về mà không có chút tài sản nào, cộng thêm việc mang tiếng đã từng kết hôn và đem con nhỏ theo về cùng khiến cho phần lớn các cô dâu cảm thấy mặc cảm và khó khăn trong việc xây dựng cuộc sống mới sau khi hôn nhân tan vỡ dù gia đình và cộng đồng ít có những phản ứng không hay đối với những trƣờng hợp này. Khả năng của những ngƣời phụ nữ kết hôn với đàn ông nƣớc ngoài có thể hỗ trợ kinh tế cho cha mẹ bị hạn chế. Thậm chí nhiều phụ nữ phải nhờ vào sự giúp đỡ của gia đình trong việc chăm sóc chính bản thân mình (đặc biệt là những trƣờng hợp bị tâm thần) hay hỗ trợ nuôi con. Trẻ em lai thƣờng không có điều kiện sống và học tập tốt nhƣ các bạn cùng trang lứa trong địa phƣơng và lớn lên trong sự thiếu vắng tình cảm và sự chăm sóc của cha mẹ, ảnh hƣởng không tốt cho tƣơng lai sau này. Bên cạnh đó, chính quyền địa phƣơng cũng gặp nhiều trở ngại khi cố gắng giúp đỡ nhóm trẻ này vì phần lớn các em có quốc tịch nƣớc ngoài. TÀI LIỆU THAM KHẢO Tài liệu tiếng Anh 1. Anarfi, J, & Jägare, Sara. (2008). Toward the sustainable return of West African transnational migrants: What are the options? Assets, Livelihoods and Social Policy: New Frontiers of Social Policy, 107-126. 2. Bélanger, Danièle, Lee, HK, & Khuat, TH. (2009). Sweet dreams, sour endings: Stories of marriage migrants returning home to Vietnam. Paper presented at the Meeting of the Association for Asian Studies, Chicago. 3. Bloemraad, Irene, Korteweg, Anna, & Yurdakul, Gokc¸e. (2008). Citizenship and immigration: Multiculturalism, assimilation, and challenges to the nation-state. Annual Review of Sociology, 34, 153-179. 228
  12. HỘI THẢO KHOA HỌC “PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HỌC CÔNG Ở VIỆT NAM” 4. Cassarino, Jean-Pierre. (2004). Theorising return migration: The conceptual approach to return migrants revisited. International Journal on Multicultural Societies (IJMS), 6(2), 253-279. 5. ---. (2008). Conditions of modern return migrants - Editorial introduction. International Journal on Multicultural Societies, 10(2), 95-105. 6. Chimni, Bupinder S. (2004). From resettlement to involuntary repatriation: towards a critical history of durable solutions to refugee problems. Refugee Survey Quarterly, 23(3), 55-73. 7. De Bree, June, Davids, Tine, & De Haas, Hein. (2010). Post‐return experiences and transnational belonging of return migrants: A Dutch-Moroccan case study. Global Networks, 10(4), 489-509. 8. Duval, David Timothy. (2004). Linking return visits and return migration among Commonwealth Eastern Caribbean migrants in Toronto. Global Networks, 4(1), 51-67. 9. Eastmond, Marita. (2006). Transnational returns and reconstruction in post‐war Bosnia and Herzegovina. International Migration, 44(3), 141-166. 10. Ghanem, Tania. (2003). When forced migrants return" home": The psychosocial difficulties returnees encounter in the reintegration process: Refugee Studies Centre Oxford. 11. Hammond, Laura. (1999). Examining the discourse of repatriation: Towards a more proactive theory of return migration. The end of the refugee cycle, 227-244. 12. Heo, Jinyeong. (2012). Reflection on Multicultural Education and Multicultural Policy in Korea. Asia-Pacific Collaborative education Journal, 8(1), 71-78. 13. Kim, Hyun Mee. (2015). Returning "home" as failed migration? - The confliscted experiencess of women marriage migrants. Paper presented at the International Conference & Workshop. Marriage migration in East Asia revisited: Development, culture, and policy, Seoul National University, South Korea on 14-15th May 2015 14. Kim, Hyun Mee, Park, Shinhye, & Shukhertei, Ariun. (2017). Returning home: marriage migrants‟ legal precarity and the experience of divorce. Critical Asian Studies, 49(1), 38-53. doi:10.1080/14672715.2016.1266679 15. Kim, Minjeong. (2013). Citizenship projects for marriage migrants in South Korea: Intersecting motherhood with ethnicity and class. Social Politics: International Studies in Gender, State & Society, 20(4), 455-481. 16. Kim, Yongok. (2007). New „Citizens‟ and Multiculturalism in Korea. Women in Action, 3, 40-45. 17. Koo, Han-Kyung. (2007). The archeology of the ethnically homogeneous nation-state and multi-culturalism in Korea. Korea Journal, 47, 8–31. 18. Lee, Hye-Kyung. (2008). International marriage and the state in South Korea: Focusing on governmental policy. Citizenship Studies, 12(1), 107-123. doi:10.1080/13621020701794240 229
  13. HỘI THẢO KHOA HỌC “PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HỌC CÔNG Ở VIỆT NAM” 19. Lee, Sohoon. (2015). Suspicious mother, precarious worker and non-permanent migrant: Transnational childcare, social reproduction and marriage migration in South Korea. Paper presented at the International Conference & Workshop. Marriage migration in East Asia revisited: Development, culture, and policy, Seoul National University, South Korea on 14-15th May 2015 20. Nguyen, Nu Nguyet Anh. (2010). Life of Vietnamese brides in Korea. In I. Trebu (Ed.), The update on ASEAN and Korean Studies: 2010 (pp. 242-284). Bangkok: ASEAN University Network. 21. ---. (2017a). Cultural connection vs. disconnection: Korean multicultural family policies and rearing mixed-race children of Korean men and Vietnamese women. Paper presented at the 3rd Annual International Conference of International Association for Silk Road Studies, Ho Chi Minh City, Vietnam on November 9-11, 2017. 22. ---. (2017b). Social networks along the migration cycle between Vietnam And Korea: Opportunities or obstacles for temporary labour migrants? (Doctor of Philosophy), The University of Sydney, Sydney. 23. Park, Gilbert C., & Watson, Sunnie Lee. (2011). Multicultural education in Korea. Multicultural Education, 1-6. 24. Ruben, Ruerd, Van Houte, Marieke, & Davids, Tine. (2009). What determines the embeddedness of forced‐return migrants? Rethinking the role of pre‐and post‐return assistance. International Migration Review, 43(4), 908-937. 25. Yuval-Davis, Nira, Kannabiran, Kalpana, & Vieten, Ulrike. (2006). The situated politics of belonging: Sage. Tài liệu tiếng Việt 26. Chae, Suhong. (2010). Sự trở về của những ngƣời lao động Việt Nam tại Hàn Quốc: Trải nghiệm xuyên quốc gia, nhận thức chính trị của ngƣời lao động và sự hợp tác khu vực Đông Á. Lƣơng Văn Hy biên tập, trong sách Hiện đại và động thái của truyền thống ở Việt Nam: Những cách tiếp cận nhân học, trang 439-460. Nhà xuất bản Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, Vietnam. 27. Nguyễn, Văn Tiệp. (2008). Nghiên cứu hiện tượng phụ nữ Việt Nam lấy chồng Hàn Quốc: Thực trạng, xu hướng và giải pháp. Thành phố Hồ Chí Minh: Trung tâm Nhân học ứng dụng, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn. 230
nguon tai.lieu . vn