Xem mẫu
- Sự Tích Thần Tam Ranh Sừng Sỏ Sắt đất Thiên Bản
1. Thần Tam Ranh?
Nước Việt Nam từ xưa dựng cơ nghiệp ở phương Nam có
quốc hiện là Văn Lang từ thời các Vua Hùng. Đến đời Hùng
Thuận Vương, nhà vua hiếm hoi muốn có người nối dõi, đi về
miền biển, đến trang Đồng Mông huyện Bình Chương (nay
thuộc xã Quang Trung huyện Vụ Bản tỉnh Nam Định) thấy
người con gái họ Bằng xinh đẹp hiền thục, bèn đưa về cung,
lập làm vương phi. Vương phi họ Bằng chung sống với nhà
Vua 13 năm mà vẫn không có con. Nhà vua và vương phi bèn
lập đàn cầu xin thượng đế, cảm động đến thiên đình. Thượng
đế cho tiên đồng xuống đầu thai, nhưng không ai muốn đi cả,
các tiên đồng đứng túm tụm lại, Thượng đế bàn bắt xuống tất
cả, quả nhiên bà Bằng mang thai, nhà vua rất mừng, chờ ngày
sinh nở. Ngày 21 tháng 6 bà Bằng trở dạ, sinh ra một cái bọc to.
Nhà vua sai người mở ra thì thấy hơn sáu chục đầu người chen
chúc nhau trông thật là kỳ quái. Nhà vua sợ hãi vội cho quân đào
hố thật sâu, đem chôn ở ngã ba đường làng. Thượng đế sai Quỷ
vương xuống trông coi phần mộ không cho quấy nhiễu. Không
yên tâm Thượng đế còn sai ba vị Đô Thiên Thần Tướng là Đô
Hiến Đô Ty Đô Tuỳ xuống cùng quỷ vương cai quản.
Ba vị Đô thiên Thần Tướng hàng ngày thấy Thuận vương
và Bằng Phi rầu rĩ động lòng thương bèn về trời tâu lại với
Thượng đế. Ngọc Hoàng thấy lấy người ở thiên đình không
được, thì chọn người ở trần gian hết hạn được đầu thai trở lại
để hiện nhập vào Bằng phi. Nam Tào Bắc Đẩu chọn một
người họ Đỗ tên là Kiều hiện nhập vào để sau kế vị làm vua,
- trị vì thiên hạ. Lại chọn người họ Vị tên là Cư trong xã hiện
nhập vào sau làm quan văn để tham mưu giúp vua trị nước. Lại
chọn thêm một người họ Trương tên là Chất cùng xã hiện
nhập vào sau làm quan võ để lắm giữ binh quyền đánh giặc,
giữ nước. Ba vị đó gọi là Tam Bành, sau này dọc ngang trời
đất, có nhiều quyền lực để trị dân trị nước.
Quả nhiên ít lâu sau, Bằng phi lại có mang, năm sau vào
ngày 10 tháng ba, bà trở dạ, sinh ngay trong bếp (nơi ở của Táo
quân) một cái bọc, mở ra thấy ba đứa bé thật kỳ dị. đứa thứ
nhất không có mặt, đứa thứ hai không có tay, đứa thứ ba không
có chỏm đầu. Thuận Vương thấy ba đứa con đều đã chết, biết
rằng vận nhà Hùng sắp hết, vừa sợ vừa thương, vội đem
người đem chôn ba vị ở ba cáí giếng sâu để không còn vết tích.
Vị thứ nhất chôn ở giếng giữa Đồng Mông. Vị thứ hai chôn ở
giếng gần trang Đắc Thắng (nay là Đắc Lực, xã Liên Bảo).
Còn vị thứ ba thì chôn ở giếng trên cánh đồng Cao làng Vân Cát
(nay là xã Kim Thái). Được 100 ngày, ba vị biến hóa kỳ dị, đêm
đêm trời mưa phùn thường biến thành những quả cầu lửa bay
lượn trên không trung, gặp nhau chụm lại rồi biến mất, dân sợ
quá cho là linh dị, thường gọi đó là Tam Ranh (Ba vị thần trẻ).
Dân lập đền thờ cạnh ba cái giếng.
2. Tam Bành?
Vị thứ nhất tuy không có mặt nhưng có đôi chân nhanh
nhẹn, trên hai bắp chân có viết chữ “tứ tung” và “ngũ hoành”
nên ngài cùng hai em dọc ngang trời đất không nơi đâu là không
có dấu chân. Ba vị biến hoá khôn lường, thường làm những
chuyện kỳ lạ.
- Thuận Vương thấy không thể kìm chế nổi, bèn ngự giá
xuống làng Đồng Mông để thuyết phục các con, nói rõ là các
con được thượng đế sai xuống trần gian để giúp đỡ chúng sinh,
không nên làm điều gì ngỗ ngược. Thuận Vương cũng nói rõ
với các con là Thượng đế đặt tên các con là Sừng Sỏ Sắt nên
phong tước cho các con là:
Nguyên Sừng Quận công Đỗ Phan tướng quân
Nguyên Sỏ Quận công Vị Thể tướng quân
Nguyên Sắt Quận công Trương Thỉ tướng quân
Nhà vua lại phong các vị là Tam Thế Độ, cho làm tướng
chỉ huy các cô hồn trong cõi âm, giúp đỡ dân lành, làm điều
thiện, chống lại ma tà quỷ dữ. Nhà Vua cho người sửa lại đền
Đồng Mông, thờ chính ba vị ở đó để dân làng hàng năm vào kỳ
tuần tiết, rằm tháng giêng, rằm tháng bẩy và ngày mùng 10
tháng ba phải làm lễ cúng thần như cúng cô hồn, phải soạn lễ
vật cúng thần, không được quên mâm cháo, mâm bỏng rang và
hoa quả. Vua lại phong ba vị Tam Ranh đại tướng âm binh, cho
làm đương cảnh Thành Hoàng làng Đồng Mông. Ba vị quận
công Sừng Sỏ Sắt tượng chưng cho sự cương nghị, cứng rắn
không hề sợ hãi thế lực nào cả. Từ đó ba vị tung hoành, làm
nhiều điều kinh dị, ai cũng cho là linh thiêng. Thành hoàng các
làng đều nể sợ. Thành hoàng làng nào không lo phù hộ cho dân
yên ổn làm ăn, trái lại còn sách nhiễu dân chúng, bắt cúng
nhiều lễ vật, thường bị ba vị đánh đuổi. nhiều làng thấy bát
hương trong đình làng bị úp sấp hoặc đổ lăn lóc thì biết đó là
thành hoàng bị đánh đuổi.
Thành hoàng các làng lo sợ vội kéo nhau lên thiên đình kêu
- kiện. Ngọc Hoang phải triệu Tam Ranh thần tướng về trời
phán xử. Ngọc Hoàng truyền từ nay các vị Thành Hoàng không
được sách nhiễu dân chúng, đồng thời nói roc Tam Ranh thần
tướng là Tam Bành giúp Ngọc Hoàng trừ khử bọn thần quỷ dữ
quấy nhiễu dân chúng. Nhưng Ngọc Hoàng cũng khuyên Tam
Bành không được nổi giận làm điều ngỗ ngược, phải chịu sự
kiềm chế của Đức Phật Như Lai và Quan Thế Âm Bồ Tát,
đồng thời phải chịu sự dậy dỗ của Quỷ Cốc tiên sinh, Đô Đàn
giáo chủ. Tam Bành vâng lệnh về hạ giới
Khi về tới Đồng Mông, Tam Bành nhập đồng vào một
người gặt lúa đang cùng nhân dân ngồi nghỉ trên đó, gọi tiên chỉ
ra bắt lập chùa. Làng yêu cầu nếu đúng như vậy phải có thánh
tử thể hiện sự linh ứng. Người thợ gặt bỗng cắm đúng đòn sóc
xuống đất, lấy mâm đồng trong đền đặt lên trên mũi đòn sóc
rồi nhẩy lên ngồi ngay ngắn xếp tròn trên mâm đồng, gọi tiên
chỉ lấy giấy viết tên thần hiện sai đem đốt, tàn tự nhỉên bay
vào bát hương. Lúc đó dân làng mới tin là thật, nên tập chung
làm thêm cung trong ở đền Đồng Mông để thờ Phật. Bên cạnh
đền có cây Bòng Bong ngày càng lớn lên và cũng từ đó dân làng
gọi là Chùa Bòng Bong, tiền Thần hậu Phật. Và cũng từ đó ở
đền Đồng Mông tức chùa Bòng Bong, hàng năm tế thần Tam
Ranh, văn tế đều khấn tế thần Tam Ranh cũng là Đương Cảnh
Thành Hoàng, lại tế cả đức Phật Tổ Như Lai và Quan Thế Âm
Bồ Tát cùng với Quỷ Cóc tiên sinh Đô đàn giáo chủ.
3. Tam Ranh Thần tướng hiển linh giúp nước giúp dân
Đền Đồng Mông thờ thần Tam Ranh đại tướng âm binh,
nên các tướng lĩnh thường cầu xin ngài đem âm binh trợ giúp
- mỗi khi các tướng xuất binh chống giặp ngoại dã. Thần đã huy
đông vô số âm binh âm phủ đánh giặc. Khi trở về các tướng
đều tâu xin nhà vua ban sắc phong. Nhiều triều đại ban sắc
phong “Đương Cảnh Thành Hoàng, bảo hộ quảng thi, bác huệ
đông ngưng dực bảo trung hưng bản thổ tôn thần Tam Ranh
đại tướng cô hồn hộ quốc tỵ dân nẫm trữ linh ứng tinh hậu
trung đẳng thần”.
Tương truyền ở đình làng Giáp Nhất, Bảo Ngũ (Quang
Trung) thờ nữ tướng của Bà Trưng là Giám Sát nguyên soái
Đào thị Quý làm thành hoàng, có một cây quế rất quý, người
phương Bắc muốn mua về nước nhưng dân làng không chịu
bán họ trả thù bằng cách yểm phép, làm cho thành hoàng phải
xuất ngoại. Thành hoàng Giáp Nhất Bảo Ngũ phải cầu cứu
đến thần Tam Ranh phá yểm mới trở về được đình. Từ đó sắc
phong của đền Đồng Mông thờ Tam Ranh thần tướng đều để
lại đền Giáp nhất, Thành hoàng phải giữ. Đên ngày 10 tháng
ba, khi tế thần Tam Ranh, mới rước sắc ra đền Đồng Mông.
Việc thờ cúng, tế lễ ở đây không có cung văn và đàn sáo hát
văn nhưng có đảo đồng, có bài sớ cúng. Lễ vật rất đơn giản,
chỉ có trầu cau, muối gạo, hương hoa và cháo hoa, bỏng rang.
Trong làng Đồng Mông có một số thầy cúng, thường cha
truyền con nối. Khi có việc phải cầu cúng ở đền, như cầu xin
trị ma tà, cầu cin được thần chữa bệnh…người dân tự chọn
thầy cúng làm sớ ngồi đồng để cầu khấn chịu lễ. Thầy cúng
phải ngồi ba giá đồng liên tiếp.
Giá thứ nhất là thần thứ nhất là Nguyên Sừng quận công
Đỗ Phan tướng quân nhập đồng, phán hỏi ngưòi đến kêu xin
- việc gì, tình huống sảy ra hay bệnh tật như thế nào. Ngài xác
định phương hướng tìm kiếm hoặc chữa bệnh rồi ra lệnh cho
mời vị thần thứ hai tìm cách thức trị liệu.
Giá đông thứ hai thì vị thần thứ hai là Nguyên Sở quận
công Vị Thế tướng quân nhập đồng, phán báo đích danh ma tà
hoặc tên bệnh mà người mắc bệnh mắc phải rồi chỉ bảo
phương cách trị ma tà hoặc cho thần đơn kể tên các vị thuốc
cầm tìm để trị bệnh, nhất là những bệnh về trẻ em.
Giá đồng thứ ba là vị thần thứ ba là Nguyên Sắt Quận
công Trương Thỉ tướng quân nhập đồng, phán chỉ nơi có cây
thuốc và cách chữa trị bệnh cụ thể hoặc cách trị ma tà. Những
cây thuốc phần nhiều có ở cánh đồng làng hoặc nhiều nhà
trồng sẵn, thườn được thầy nói rõ, tìm đến nơi là có.
Qua việc đảo đồng, người nhà cứ theo lời phán mà làm,
kết hợp nước cúng làm thang. Lễ vật cúng thần xin trừ ma tà
cũng đơn giản, phần lớn chỉ hoa quả, hương nước, được thầy
làm phép, ban cho lá bùa về dán ở nhà, thườn dùng cho trẻ con
hay quấy khóc.
Dân Bảo ngũ và các làng xung quanh còn lưu truyền câu
chuyện thần Tam Ranh hiển linh. Thường vào những đêm tối
trời, nhất là những đêm trời mưa phùn lâm thâm, tù ba giếng
phần mộ ba vị xuất hiện ba qủa bóng sáng lừ lừ bay lên, vật
vờ đi lại toả ra về chỗ cũ, biến mất. Ba quả bóng đó phát sáng
như đèn, nhưng có bóng mầu hồng, mầu vàng rực và bóng mầu
tím nhạt. Có người còn nói các vị thần rút kiếm giơ lên toả
sáng thành những bó đuốc rực rỡ, chân các vị như chân cò có
lúc cong queo lướt theo làn gió như sợi chỉ, lúc hợp lúc tan, các
- vị bay là là trên cánh đồng tối âm u, khi gặp người lỡ độ đường
hay cần kíp buộc phải đi đêm trên quãng đườn Đồng Mông,
thường gặp ba vị sáng rực như ba bó đuốc dẫn đường, không
làm hại ai bào giờ.
4. Vì sao các chùa có Hàn Lâm Sở
Tam Ranh đại tướng âm binh chỉ huy các cô hồn, nên bên
cạnh đền thờ Tam Ranh tức chùa Bòng Bong có lập một miếu
cô hồn, thường gọi là Hàn Lâm Sở. Hàn Lâm Sở là nơi rừng
lạnh, nơi lạnh lẽo của những cô hồn sống bơ vơ cô độc tập
chung về đây, thường được dân làng thờ cúng cùng với thần
Tam Ranh.
Từ đó các chùa đều có miếu cô hồn bên cạnh thường gọi
là Hàn Lâm miếu hay Hàn Lâm Sở thể hiện một tâm thức cộng
đồng của quần chúng, có tính thiện lương. họ quan tâm đến
những cô hồn lạc lõng, những linh hồn chết bơ vơ không ai thờ
cúng để nhắc nhở nhau quan tâm đến những người nghèo khổ,
tàn phế bệnh hoạn, đơn chiếc cô quạnh đang sống trong xã hội
thực tại.
nguon tai.lieu . vn