- Trang Chủ
- Giáo dục học
- Sự thích ứng với hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên lớp tâm lý – giáo dục 3, Khoa Tâm lý – Giáo dục, Trường Đại học Sư phạm – Đại học Huế
Xem mẫu
- SỰ THÍCH ỨNG VỚI HOẠT ĐỘNG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA
SINH VIÊN LỚP TÂM LÝ – GIÁO DỤC 3, KHOA TÂM LÝ – GIÁO DỤC,
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM – ĐẠI HỌC HUẾ
NGUYỄN THỊ MỸ DUYÊN – PHAN THỊ CẨM VÂN
Khoa Tâm lý – Giáo dục
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Thế giới hiện đại tranh đua về kinh tế gay gắt, mà thực chất là tranh đua về khoa học kỹ
thuật. Việt Nam đang trong quá trình hội nhập quốc tế, điều đó đặt ra cho chúng ta
nhiều thời cơ và thách thức lớn. Quá trình công nghiệp hóa càng diễn ra mạnh mẽ bao
nhiêu thì yêu cầu về khoa học công nghệ càng phát triển bấy nhiêu. Việt Nam phải thực
sự phải nắm được những thời cơ lớn đó và khắc phục được những thách thức đang đặt
ra trong quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước. Muốn làm được điều đó thì
phải hướng dẫn, rèn luyện cho sinh viên nghiên cứu khoa học ngay từ trong trường đại
học.
Với sự phát triển của khoa học kỹ thuật và thông tin, nhu cầu nghiên cứu (hoạt động
nghiên cứu khoa học) là rất cần thiết đối với mỗi sinh viên, nó không chỉ trang bị cho
sinh viên những kỹ năng về hoạt động nghiên cứu khoa học mà còn hình thành ở họ
những nhu cầu tìm hiểu, nghiên cứu về các lĩnh vực của đời sồng xã hội. Trên thực tế ở
các nhà trường đại học hiện nay đã có những môn học những hình thức nghiên cứu khoa
học khác cho sinh viên tiếp cận như: Bài tập lớn, tiểu luận hay các đề tài nghiên cứu
khoa học cấp khoa, cấp trường, nhưng đa phần sinh viên chưa thích ứng được với
những hoạt động nghiên cứu khoa học đó, còn thiếu nhiều về kỹ năng nghiên cứu khoa
học.
Để đáp ứng với nhu cầu ngày càng cao của xã hội và giúp sinh viên có được những kỹ
năng trong hoạt động nghiên cứu khoa học, cần thiết phải nghiên cứu thực trạng sự
thích ứng với hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên.
Để tìm hiểu sự thích ứng đối với hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên, chúng
tôi đã sử dụng phương pháp điếu tra bằng anket. Khách thể nghiên cứu là 40 sinh viên
lớp TLGD 3, Khoa Tâm lý – Giáo dục, Trường Đại học Sư phạm – Đại học Huế. Kết
quả điều tra được phân tích, xử lý bằng phần mềm SPSS 11.5.
2. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
2.1. Nhận thức của sinh viên về mức độ cần thiết của hoạt động nghiên cứu khoa
học
Nhận thức ảnh hưởng lớn đến thái độ, hành vi và hoạt động của con người. Tính tích
cực trong quá trình hình thành và rèn luyện kỹ năng nghiên cứu khoa học của sinh viên
thường xuất phát từ sự nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của nghiên cứu khoa học,
Kỷ yếu Hội nghị Khoa học Sinh viên năm học 2013-2014
Trường Đại học Sư phạm – Đại học Huế, tháng 12/2013, tr: 273-278
- 274 NGUYỄN THỊ MỸ DUYÊN – PHAN THỊ CẨM VÂN
vì lẽ đó, nghiên cứu đã tìm hiểu vấn đề này. Kết quả điều tra ở bảng 1 cho thấy, hầu hết
sinh viên (92,5%) đều cho rằng kỹ năng nghiên cứu khoa học đóng vai trò “cần thiết” và
“rất cần thiết” đối với sinh viên.
Bảng 1. Nhận thức của sinh viên về mức độ cần thiết của hoạt động nghiên cứu khoa học
TT Mức độ cần thiết SL %
1 Không cần thiết 0 0,0
2 Bình thường 3 7,5
3 Cần thiết 25 62,5
4 Rất cần thiết 12 30,0
Tổng 40 100,0
Ghi chú: TT: Thứ tự; SL: Số lượng; %: Phần trăm
Có thể nói rằng, phần lớn sinh viên lớp TLGD 3, Khoa Tâm lý – Giáo dục, Trường Đại
học Sư phạm - Đại học Huế đã nhận thức đúng đắn về vai trò của kỹ năng nghiên cứu
khoa học đối với sinh viên. Điều này có ý nghĩa rất lớn trong quá trình rèn luyện và
hình thành kỹ năng nghiên cứu khoa học của mỗi sinh viên.
Tuy nhiên, bên cạnh đó, vẫn còn một số sinh viên vẫn chưa nhận thích được tầm quan
trọng của kỹ năng này. 7,5% sinh viên cho rằng kỹ năng nghiên cứu khoa học chỉ đóng
vai trò “bình thường”, đó là một tỷ lệ không hề nhỏ. Do đó, việc nâng cao nhận thức về
mức độ quan trọng của kỹ năng nghiên cứu khoa học cho sinh viên là hết sức cần thiết.
2.2. Thái độ của sinh viên đối với hoạt động nghiên cứu khoa
Đối với sinh viên, nghiên cứu khoa học là hình thức tổ chức dạy học bắt buộc. Trong
đó, sinh viên bắt đầu vận dụng một cách tổng hợp các tri thức đã học về nghề nghiệp
tương lai của mình để tiến hành hoạt động nhận thức có tính chất nghiên cứu và bước
đầu giải quyết những vấn đề khoa học do thực tiễn đặt ra. Và những biểu hiện như tích
cực thu thập tài liệu khoa học, say mê nghiên cứu, tìm hiểu các vấn đề học thuật… có
thể coi là sự thể hiện thái độ của sinh viên đối với hoạt động nghiên cứu khoa học.
Bảng 2. Thái độ của sinh viên đối với hoạt động nghiên cứu khoa học
TT Biểu hiện SD
1 Tích cực thu thập tài liệu khoa học 4,18 0,68
2 Say mê nghiên cứu, tìm hiểu các vấn đề học thuật 4,05 0,64
3 Tích cực đăng ký làm bài tập lớn, tiểu luận 3,95 0, 68
4 Tích cực đăng ký làm đề tài khoa học độc lập 3,78 0,80
5 Tích cực tham gia hội nghị nghiên cứu khoa học 3,78 0,73
Ghi chú: X : Điểm trung bình; SD: Độ lệch chuẩn; 1 ≤ X ≤ 5
Từ bảng thống kê ta có thể thấy thái độ tích cực đối với hoạt động nghiên cứu khoa học
của sinh viên được thể hiện rõ nhất ở việc “tích cực thu thập tài liệu khoa học” với X =
4,18, lớn nhất trong tất cả các biểu hiện. Đó là một bước quan trọng trong nghiên cứu
- SỰ THÍCH ỨNG VỚI HOẠT ĐỘNG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC... 275
khoa học đối với bản thân mỗi sinh viên, nó giúp sinh viên có thể có những ý tưởng
mới, một nguồn kiến thức dồi dào để có thể tự tin trong quá trình nghiên cứu khoa học
của mình.
“Say mê nghiên cứu, tìm hiểu các vấn đề học thuật”, “Tích cực đăng ký làm bài tập lớn,
tiểu luận”, “Tích cực đăng ký làm đề tài khoa học độc lập”, “Tích cực tham gia hội nghị
nghiên cứu khoa học” cũng là những hành vi biểu hiện thể hiện khá tốt, với các giá trị
điểm trung bình lần lượt là 4,05, 3,95, 3,78, 3,78. Chính việc say mê nghiên cứu, tìm
hiểu các vấn đề học thuật… đã giúp sinh viên hình thành và hoàn thiện tốt kỹ năng
nghiên cứu khoa học của bản thân.
2.3. Sự thích ứng với kỹ năng nghiên cứu khoa học của sinh viên
Trong quá trình nghiên cứu về sự thích ứng của sinh viên đối với hoạt động nghiên cứu
khoa học chúng tôi đánh giá kỹ năng là yếu tố quan trọng nhất quyết định kết quả của
hoạt động nghiên cứu khoa học.
Bảng 3. Mức độ thành thạo các kỹ năng nghiên cứu khoa học của sinh viên
TT Các kỹ năng nghiên cứu khoa học SD
1 Giai đoạn 1: Giai đoạn chuẩn bị
1.1 Lựa chọn vấn đề nghiên cứu 3,10 0,59
1.2 Xác định tên đề tài 3,13 0,56
1.3 Xác định mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu 3,17 0, 64
1.4 Xác định khách thể và đối tượng nghiên cứu 3.28 0,64
1.5 Xây dựng giả thuyết khoa học 3,18 0,64
1.6 Xác định các phương pháp nghiên cứu 3,23 0,66
1.7 Xây dựng nội dung nghiên cứu 3,12 0,65
2 Giai đoạn 2: Thu thập và xử lý
2.1 Thu thập các kiến thức, tài liệu liên quan đến vấn đề nghiên cứu 3,18 0,55
2.2 Thực hiện các phương pháp nghiên cứu 3,08 0,57
2.3 Khảo sát thực tiễn 3,08 0,57
2.4 Xử lí số liệu thu thập được từ các phương pháp nghiên cứu 3,05 0,64
3 Giai đoạn 3: Viết báo cáo và trình bày báo cáo
3.1 Viết báo cáo cơ sở lí luận của đề tài nghiên cứu 3,10 0,55
3.2 Phân tích, bình luận, đánh giá phần thực trạng của vấn đề nghiên cứu 3,05 0,68
3.3 Viết phần kết luận và kiến nghị 3,00 0,72
3.4 Viết tóm tắt công trình nghiên cứu 3,00 0,60
3.5 Trình bày và bảo vệ đề tài nghiên cứu 2,97 0,62
Ghi chú: X : Điểm trung bình; SD: Độ lệch chuẩn; 1 ≤ X ≤ 3
Kết quả ở bảng 3 cho thấy, ở giai đoạn 1, mức độ thành thạo trong việc sử dụng các kỹ
năng nghiên cứu khoa học của sinh viên chưa cao. Kỹ năng mà sinh viên đánh giá thành
thạo nhất là “xác định khách thể và đối tượng nghiên cứu” ( X = 3,28); tiếp theo đó là
kỹ năng “xác định các phương pháp nghiên cứu” ( X = 3,23). Sở dĩ, 2 kỹ năng trên được
- 276 NGUYỄN THỊ MỸ DUYÊN – PHAN THỊ CẨM VÂN
sinh viên lựa chọn là thành thạo nhất bởi vì, xác định khách thể - đối tượng và phương
pháp nghiên cứu là những kỹ năng cơ bản mà sinh viên đã được học ở môn phương
pháp nghiên cứu khoa học từ những năm đầu đại học. Tuy nhiên, kỹ năng mà sinh viên
chưa thực sự thành thạo là “lựa chọn vấn đề nghiên cứu” ( X = 3,1). Lựa chọn vấn đề
nghiên cứu là một kỹ năng khó, đòi hỏi ở sinh viên sự hiểu biết về thực tế giáo dục phổ
thông, đòi hỏi khả năng khái quát vấn đề và phải có một vốn kiến thức nhất định. Vì
vậy, phần lớn sinh viên gặp phải khó khăn ở kỹ năng lựa chọn vấn đề nghiên cứu là điều
dễ hiểu.
Giai đoạn 2, hầu hết các kỹ năng của sinh viên chưa được thành thạo. Kỹ năng sinh viên
thành thạo nhất là “thu thập các kiến thức, tài liệu liên quan đến vấn đề nghiên cứu” với
X = 3,18. Sinh viên thành thạo ở những kỹ năng này một phần là do sinh viên có hứng
thú nghiên cứu khoa học, luôn tìm tòi, khám phá tri thức mới, tích cực tìm đọc và trau
dồi cho bản thân nguồn kiến thức phong phú. Vì vậy, khi bắt tay và nghiên cứu khoa
học, sinh viên sẽ dễ dàng thu thập các kiến thức, tài liệu liên quan tới vấn đề nghiên
cứu. Kỹ năng sinh viên ít thành thạo nhất là “xử lí số liệu thu thập được từ các phương
pháp nghiên cứu” ( X = 3,05). Sở dĩ mức độ thành thạo kỹ năng xử lí số liệu thu thập
được từ các phương pháp nghiên cứu của sinh viên không cao là do sinh viên còn thiếu
hiểu biết và tìm tòi về các phần mềm xử lí số liệu hay các phương pháp xử lí số liệu thủ
công nhanh. Điều đó ảnh hưởng rất nhiều đến hiệu quả cũng như sự thích ứng với hoạt
động nghiên cứu khoa học của sinh viên.
Giai đoạn 3, đa số kỹ năng ở mức độ khá thành thạo. Có 4/5 các kỹ năng có X ≥ 3,
trong đó, kỹ năng mà sinh viên tự đánh giá thành thạo nhất đó là kỹ năng “viết báo cáo
cơ sở lí luận của đề tài nghiên cứu” ( X = 3,10). Viết báo cáo cơ sở lí luận của đề tài
nghiên cứu là một kỹ năng vô cùng quan trọng, nếu sinh viên thành thạo ở kỹ năng này
sẽ giúp cho sinh viên hình thành các kỹ năng khác trong nghiên cứu khoa học như, kỹ
năng hệ thống hóa, khái quát hóa vấn đề nghiên cứu, hình thành ở sinh viên đầu óc khoa
học. Kỹ năng mà sinh viên gặp nhiều khó khăn nhất là “trình bày và bảo vệ đề tài
nghiên cứu” ( X = 2,97). Sinh viên gặp khó khăn ở kỹ năng này cũng chịu ảnh hưởng
rất nhiều về vấn đề tâm lý. Khi đứng trước một hội đồng bảo vệ đề tài phần lớn sinh
viên đều có áp lực lớn làm sinh viên mất tự tin.
Trong việc thực hiện 16 kỹ năng được nhắc đến thì sinh viên đạt mức trung bình ở 15
kỹ năng, mức yếu ở 1 kỹ năng. Như vậy, kỹ năng nghiên cứu khoa học của sinh viên
chưa cao. Thực trạng này do những yếu tố khách quan và chủ quan gây nên. Trong 10
nguyên nhân, 2 nguyên nhân được cho là có ảnh hưởng lớn đến hoạt động nghiên cứu
khoa học của sinh viên là “Khâu tổ chức nghiên cứu khoa học còn nhiều hạn chế” ( X =
1,75), “Giáo viên cố vấn thiếu nhiệt tình, thiếu kinh nghiệm” ( X = 1,72). Trong hoạt
động nghiên cứu khoa học, để có thể thực hiện tốt các hoạt động thì khâu tổ chức
nghiên cứu khoa học là vô cùng quan trọng. Khâu tổ chức tốt sẽ giúp sinh viên dễ dàng
thực hiện hoạt động nghiên cứu khoa học một cách thuận lợi nhất. Ngoài ra, những
- SỰ THÍCH ỨNG VỚI HOẠT ĐỘNG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC... 277
nguyên nhân chủ quan như: Bản thân thiếu hiểu biết về hoạt động nghiên cứu khoa học,
sự hiểu biết về thực tế giáo dục phổ thông còn hạn chế, cũng ảnh hưởng rất nhiều đến
hiệu quả nghiên cứu khoa học của sinh viên.
Từ những nguyên nhân trên, ta có thể thấy rằng, để thực hiện hoạt động nghiên cứu
khoa học tốt, trước hết sinh viên cần khắc phục những nguyên nhân chủ quan, bản thân
mỗi sinh viên phải ý thức được vai trò quan trọng của nghiên cứu khoa học từ đó hình
thành cho bản thân hứng thú và lòng say mê khoa học. Bên cạnh đó, nhà trường, giáo
viên cố vấn cần tạo điều kiện tốt để sinh viên có thể thực hiện tốt hoạt động nghiên cứu
khoa học của bản thân.
3. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
Kết quả điều tra đã cho thấy phần lớn sinh viên lớp Tâm lý – Giáo dục 3, Khoa Tâm lý
– Giáo dục, Trường Đại học Sư phạm - Đại học Huế đã nhận thức đúng vai trò, tầm
quan trọng của hoạt động nghiên cứu khoa học đối với bản thân, tuy nhiên chưa thật sự
thích ứng tốt với hoạt động nghiên cứu khoa học. Các kỹ năng nghiên cứu khoa học chỉ
đạt mức độ trung bình. Nguyên nhân cơ bản khiến sinh viên gặp khó khăn trong nghiên
cứu khoa học đó là: Do khâu tổ chức khoa học còn nhiều hạn chế; kinh phí còn hạn hẹp;
bản thân thiếu hiểu biết về hoạt động nghiên cứu khoa học…
Từ kết quả nghiên cứu trên, chúng tôi đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao sự thích
ứng của sinh viên với hoạt động nghiên cứu khoa học như sau:
3.1. Về phía nhà trường
Lồng ghép việc dạy kỹ năng nghiên cứu khoa học vào các môn học. Cần chú trọng và
tạo điều kiện nhiều hơn nữa trong công tác nghiên cứu khoa học của sinh viên. Tổ chức
các buổi hội thảo, hội nghị nghiên cứu khoa học, trao đổi kinh nghiệm về hoạt động
nghiên cứu khoa học và thông tin rộng rãi để sinh viên biết và tham gia qua đó, giúp
sinh viên có được những hiểu biết, cách thức đúng về quá trình nghiên cứu khoa học
3.2. Về phía sinh viên
Cần nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của hoạt động nghiên cứu khoa học đối với
công tác học tập của bản thân để có ý thức rèn luyện kỹ năng này. Sinh viên phải phát
huy tính tự lập, tích cực, phải có ý chí phấn đấu, vượt qua những khó khăn trở ngại, phát
huy tính sáng tạo trong lĩnh hội những tri thức mới, rèn luyện kỹ năng nghiên cứu khoa
học của bản thân, mạnh dạn đăng ký các đề tài độc lập để tăng thêm kỹ năng của bản
thân.
3.3. Về phía giảng viên
Cần chủ động định hướng về đề tài nghiên cứu khoa học, hướng dẫn tận tình cũng như
phải nghiêm khắc đặt ra những yêu cầu cao hợp lý cho sinh viên. Bồi dưỡng, rèn luyện
cho sinh viên có thái độ, lòng say mê tìm tòi cái mới, năng lực độc lập trong nghiên cứu
khoa học.
- 278 NGUYỄN THỊ MỸ DUYÊN – PHAN THỊ CẨM VÂN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] [1] Bộ Giáo dục – Đào tạo (2000). Quy chế về nghiên cứu khoa học của sinh viên
trong các trường Đại học – Cao đẳng, Hà Nội.
[2] [2] Phạm Minh Hạc (1974). Bước đầu tìm hiểu phương pháp nghiên cứu khoa học
giáo dục, Tạp chí NCGD.
[3] [3] Hồ Thị Trúc Quỳnh (chủ nhiệm đề tài) (2010). Sự thích ứng với hoạt động nghiên
cứu khoa học của sinh viên khoa Tâm lý Giáo dục - Trường Đại học Sư phạm – Đại
học Huế, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp sơ sở Trường ĐHSP – Đại học Huế.
NGUYỄN THỊ MỸ DUYÊN
PHAN THỊ CẨM VÂN
SV lớp TLGD 3, Khoa Tâm lý - Giáo dục, Trường Đại học sư phạm – Đại học Huế
ĐT: 0167.202.0090, Email: duyen.ntm92@gmail.com
nguon tai.lieu . vn