Xem mẫu

  1. SỰ THÍCH ỨNG CỦA LÀNG NGHỀ MÂY TRE ĐAN BAO LA TRONG BỐI CẢNH HIỆN NAY LÊ VĂN VIỆN Khoa Lịch sử Tóm tắt: Khi nhắc đến nghề đan lát ở Huế thì người ta thường nghĩ ngay đến làng Bao La thuộc xã Quảng Phú, huyện Quảng Điền, một làng nghề thủ công truyền thống ra đời cách đây khoảng 600 năm. Để tồn tại và phát triển cho đến ngày nay, những người thợ ở đây phải luôn tìm tòi và sáng tạo ra những sản phẩm thủ công mới đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thị trường. Bài viết này tập trung phân tích sự thích ứng của làng nghề trong bối cảnh hiện nay thông qua việc nhận diện những yếu tố tác động đến quá trình phát triển và những thay đổi về quy trình quản lý và sản xuất. Trên cơ sở phân tích những thuận lợi và khó khăn, tác giả đề xuất một số biện pháp để bảo tồn và phát triển của làng nghề mây tre đan Bao La trong tương lai. Từ khóa: thích ứng làng nghề, mây tre đan, Bao La 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Làng Bao La là một làng quê nổi tiếng với làng nghề truyền thống đan lát sản phẩm bằng mây, tre, chế tác đồ dân dụng và mỹ nghệ, thuộc xã Quảng Phú, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế. Cơ chế thị trường và cuộc sống hiện đại đã tác động vào nghề đan lát truyền thống của làng Bao La. Vì thế, hiện nay ở làng xuất hiện nhiều sản phẩm mây tre đan mỹ nghệ mang dáng dấp hiện đại bên cạnh những sản phẩm mây tre đan gia dụng truyền thống. Bên cạnh sản xuất theo các gia đình và hộ gia đình, người dân làng Bao La còn tham gia vào sản xuất các sản phẩm do Hợp tác xã mây tre đan Bao La đứng ra tổ chức và bao tiêu sản phẩm. Cách thức tổ chức sản xuất cũng khác đi để theo kịp với xu hướng sản xuất theo dây chuyền công nghệ thiết bị hiện đại. Điều đó nói lên sự thích ứng của làng nghề mây tre đan Bao La trong bối cảnh hiện nay. 2. NỘI DUNG VẤN ĐỀ Làng Bao La nằm ở bờ Bắc sông Bồ, cách Huế khoảng 30km, bao gồm phần đồng bằng các xóm: Đình, Hóp, Đông, Cầu, Chùa, Chợ và một phần là vùng cát nội đồng (Bao La Phường) ven phá Tam Giang. Sáu xóm của làng Bao La liền nhau tạo thành một hình vòng cung ôm lấy cánh đồng làng. Người đầu tiên khai phá lập làng là Nguyễn Bá Linh (Nguyễn Quý Công húy Bá Linh), Thái Thư Thiên và Nguyễn Mặc Nghị, đều người gốc Nghệ An, 9 họ tiếp theo có công lập làng gồm: Võ, Phạm, Ngô, Dương, Hồ, Hà, Hoàng, Trần, Lê [2; tr. 47]. Kỷ yếu Hội nghị Khoa học Sinh viên năm học 2016-2017 Trường Đại học Sư phạm, Đại học Huế, tháng 12/2016: tr. 102-107
  2. SỰ THÍCH ỨNG CỦA LÀNG NGHỆ MÂY TRE ĐAN BAO LA… 103 Trong lịch sử mở đất về phương Nam, đại bộ phận những lưu dân tiến về bờ cõi phía Nam sinh sống được coi là yếu tố quyết định cho công cuộc mở đất và giữ đất được toàn vẹn như ngày nay. Trong công cuộc Nam tiến của những lưu dân có thể nói hành trang lúc ấy ngoài sức lao động, kinh nghiệm sản xuất, còn có những nét văn hóa. Và trong quá trình khai canh lập ấp những nhóm lưu dân hình thành nên những làng nghề đòi hỏi phù hợp với điều kiện cũng như nhu cầu cho cuộc sống ở vùng đất mới. Làng nghề mây tre đan Bao La thuộc huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế ra đời trong hoàn cảnh như thế. [3] Nói về nghề mây tre đan của làng, tên của làng nghề gắn liền với đặc trưng sản phẩm đến mức tên của sản phẩm luôn kèm theo tên gọi của làng, làng nghề mây tre đan Bao La. Nhiều cụ cao tuổi cho biết, ngày xưa cả làng Bao La đều làm nghề đan. Hễ cứ xong mùa vụ, khi gieo cấy hoặc gặt hái xong là nhà nhà mang tre ra để đan. Nghề đan lát ở Bao La rất phổ biến, mọi người trong làng từ già đến trẻ đều có thể tham gia các khâu trong nghề như chẻ tre, vót (chuốt), đan, lát, nạp, lận, nứt… Các loại sản phẩm đan bằng tre ở làng Bao La gồm: thúng, mủng, nang, trẹt, thuộc loại đan theo kiểu lòng thúng (bắt 2 múi, đè 3 múi, kế đến bắt 4 múi, đè 3 múi), rổ rá đan theo kiểu lòng mốt; dần, sàn, lồng bàn đan theo kiểu lòng hai. Đan lòng xong người ta để 4 góc khoảng từ 5cm đến 10cm để đát dày theo công thức bết 3 múi đè 3 múi. Sau đó là khâu lận, lận là động tác dùng hai vành để kẹp phên theo độ sâu đã định. Các loại nia, nong, dần, sàn, trẹt thì lận cạn; rổ, rá, thúng, mủng, lồng bàn thì lận sâu. Nứt là động tác buộc cố định vành vào phên theo kĩ thuật. Người thợ nứt lợt khi làm trẹt, nứt khuốc khi làm nia, nong, thúng, mủng, dần, sàn và nứt đôi khi làm những sản phẩm cần chắc bền do yêu cầu của người dùng. [2; tr. 47] Ở Bao La người ta sản xuất nhiều chiếc nong lớn có đường kính từ 1-2m. Thúng, mủng gồm các loại có đường kính từ 0,5-0,8m. Trong đó có những món đứng theo bộ như rổ bộ 3, rá bộ 8… [2; tr. 48] Trước đây hoạt động thủ công tuy nằm trong phạm vi gia đình, những vẫn có sự chi phối của làng xã, hoặc có những ràng buộc bằng khẩu ước trong hoạt động tổ chức sản xuất được phân định theo ranh giới của các xóm. Bởi vậy làng nghề Bao La có sự tổ chức sản xuất đặc trưng theo địa phận các xóm chuyên sản xuất một vài loại sản phẩm như sự phân bố theo cung cầu hợp lý của người tiêu dùng lúc bấy giờ, mà không còn sự tồn đọng, cụ thể như sự sắp xếp của làng nghề: Xóm Nguyên Tự (Xóm Chùa): chuyên sản xuất các sản phẩm rá, mủng các loại. Xóm Vĩnh Thạnh (Xóm Đình): chuyên sản xuất lồng bàn, rổ lồng hai, mẹt ray. Xóm Đại Phu Tiên (Xóm Hóp): chuyên sản xuất các sản phẩm rổ lồng mốt, rổ lồng phân, quạt gắp, kiềng (rế). Xóm Đại Phu Hậu (Xóm Đông): chuyên sản xuất nong, nia, thúng, xề. Xóm Lý Nhơn (Xóm Chợ): Chuyên sản xuất dần sàn các loại. Trong quá trình tồn tại và phát triển, làng nghề luôn chịu tác động của nhiều yếu tố khách quan. Điều đó đòi hỏi làng nghề luôn thay đổi để thích ứng với hoàn cảnh mới
  3. 104 LÊ VĂN VIỆN nếu không muốn bị mai một và đi đến thất truyền. Trong bối cảnh hiện nay, có thể đề cập đến một số yếu tố chủ yếu sau: Thứ nhất: Sự xuất hiện, cạnh tranh của các mặt hàng gia dụng bằng nhựa. Cách đây hơn nữa thế kỉ khi mặt hàng gia dụng bằng nhựa chưa xuất hiện thì đây là giai đoạn có thể nói là hoàng kim của các làng nghề mây tre đan như làng Bao La. Hàng mây tre đan Bao La từ chợ Đông Ba tỏa đi khắp các tỉnh thành trên đất nước Việt Nam. Có một thời gian được cho là trầm lặng nhất của làng nghề là khi đồ gia dụng bằng nhựa xuất hiện ngày càng nhiều ồ ạt chiếm lĩnh thị trường, được sản xuất trên dây chuyền công nghệ hiện đại, mẫu mã đa dạng, phong phú, giá cả lại hợp lí khiến cho các sản phẩm mây tre đan của làng nghề bị cạnh tranh, trong khi đó nghề sản xuất mây tre đan làng Bao La chậm cải tiến kĩ thuật, mẫu mã, không đáp ứng được yêu cầu của một bộ phận thị trường mới như các sản phẩm thủ công mỹ nghệ, sản phẩm trang trí, trưng bày... và được xem như là những thứ bỏ đi. Tuy không thể xóa bỏ một làng nghề nhưng không còn đảm bảo cho sự phát triển của làng nghề cũng như cuộc sống của người làm nghề. Điều đó đòi hỏi một sự cải tiến trong kĩ thuật cũng như sự đa dạng của sản phẩm, sự tập trung có quy mô và hướng ra thị trường rộng hơn. Năm 2007, Hợp tác xã mây tre đan Bao La được thành lập như một hướng đi mới cho làng nghề. Tính đến năm 2015, Hợp tác xã có khoảng gần 100 lao động vừa sản xuất hàng gia dụng vừa sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ phục vụ cho khách du lịch cũng như xuất khẩu. Thứ hai: Do nhu cầu của thị trường, thị hiếu của khách hàng thay đổi. Chất lượng đời sống của người dân tăng cao, nhu cầu cũng theo đó mà vượt hơn trước rất nhiều, thị hiếu của khách hàng không chỉ là những sản phẩm mây tre đan gia dụng mà còn đòi hỏi về tính thẩm mĩ, hay là kết hợp cả hai. Vì vậy để có thể giới thiệu, quảng bá sản phẩm của làng mình, những người dân làng nghề mây tre đan Bao La buộc phải phát triển thêm nhiều sản phẩm thiên hướng về thủ công mĩ nghệ và thay đổi luôn cách thức tổ chức sản xuất để đáp ứng được nhu cầu của khách hàng về số lượng lẫn chất lượng trong bối cảnh mới. Cơ chế và nhu cầu của thị trường trong cuộc sống hiện đại đã tác động mạnh mẽ đến cách thức tổ chức sản xuất của làng nghề, đã dần dần xóa bỏ những ranh giới phân chia sản xuất theo địa phận thôn xóm. Nên việc sản xuất theo địa phận thôn xóm như trước đây không còn nữa mà thay vào đó hiện nay duy trì hai cách thức tổ chức sản xuất là sản xuất theo gia đình, các hộ gia đình và sản xuất do Hợp tác xã mây tre đan Bao La đứng ra tổ chức. Sản xuất theo hộ gia đình thì nghề trong làng đã bước đầu chuyên môn hóa từng công đoạn cho các nhóm gia đình, thành viên trong quá trình sản xuất. Ví như để sản xuất một cái quạt theo thầy Võ Văn Hoàng cho biết: “Để làm một cái quạt hoàn chỉnh, nhóm gia đình phân chia từng công đoạn với nhau, trong một gia đình tùy vào mức độ công việc và kinh nghiệm lại có sự phân công phù hợp giữa các thành viên, có người chẻ tre, bó nan,
  4. SỰ THÍCH ỨNG CỦA LÀNG NGHỆ MÂY TRE ĐAN BAO LA… 105 khoan lỗ, người mài nhẵn quạt...sản xuất theo dây chuyền, nhưng dây chuyền ấy không phải là tập trung sản xuất mà tranh thủ thời gian rảnh để làm và khoáng cho nhau” 1. Sản xuất theo Hợp tác xã, Ông Võ Văn Dinh, chủ nhiệm Hợp tác xã mây tre đan Bao La cho hay: “Tổ chức sản xuất của hợp tác xã theo dạng dây chuyền, phân chia theo tổ để kèm cặp nhau làm, trong đó có hai tổ dành cho phụ nữ và hai tổ dành cho đàn ông, có tổ chuyên làm đèn trang trí, có tổ làm rổ, có tổ làm mành… trong tổ lại bố trí phân chia công việc cho các thành viên, mỗi người một công đoạn như có người nứt, người lận, người đan lát…”. 2 Trước đây, các sản phẩm của làng nghề chủ yếu mây tre đan gia dụng, phục vụ nhu cầu sinh hoạt trong mỗi gia đình, những sản phẩm này được xem là các sản phẩm truyền thống như: các loại dần, sàn, các loại rổ, rá, trẹt, nong, nia, thúng, xề… Ngày nay, theo định hướng khôi phục nghành nghề truyền thống, các cấp chính quyền địa phương đã tổ chức cho người dân các lớp tập huấn chuyển giao kỹ thuật đan lát sản phẩm mới, đáp ứng thị hiếu xã hội như lẵng đơm hoa, lẵng trang trí, các loại giá treo đèn... [1; tr. 208], đặc biệt từ sau khi Hợp tác xã mây tre đan Bao La được thành lập năm 2007 thì ngày càng có nhiều sản phẩm mây tre đan thủ công mỹ nghệ mang dáng dấp hiện đại, các loại đèn trang trí với hình dáng và kích cỡ khác nhau: đèn lục bình, đèn lục giác, đèn ống tre, đèn bát, đèn trái lựu… các sản phẩm ngư nghệ như: ghe đua, ghe buồm, chơm cá… phục vụ cho các nhà hàng, khách sạn, quán cafe và phục vụ khách du lịch. Mẫu mã các loại đèn mây tre đáp ứng nhu cầu của thị trường, thị hiếu của người sử dụng trong xã hội hiện nay chính là minh chứng cho những sản phẩm “cứu vãn” cho nghề truyền thống của làng không bị mai một và tàn lùi dần theo thời gian trước sự cạnh tranh của các sản phẩm bằng nhựa, giá rẻ và phần nào đó giúp danh tiếng của làng nghề được quảng bá, biết đến không chỉ trong nước mà còn ngoài nước. Trong quá trình thích ứng ấy, song song với những mặt thuận lợi, nhất là những sản phẩm thủ công mĩ nghệ của làng nghề đã được thị trường đón nhận rộng rãi không chỉ trong và ngoài nước, lẽ tất nhiên luôn đi kèm với những khó khăn đang đặt ra trước mắt. Việc xã hội ngày càng phát triển, du nhập nhiều hình thức giải trí mới mẻ đã làm cho giới trẻ hiện nay không còn mặn mà với những giá trị văn hóa truyền thống. Trong khi đó làng nghề mây tre đan Bao La muốn bảo tồn và phát huy hết giá trị của nó rất cần những người có tâm với nghề, theo Ông Võ Văn Dinh “Những người làm nghề hiện tại ở làng Bao La chủ yếu là người già và phụ nữ, thu nhập chưa cao cộng với gắn bó với nghề phải cần sự chịu khó nên giới trẻ vẫn chưa mặn mà với nghề truyền thống” 3. Bên cạnh đó, cơ sở vật chất còn thiếu thốn dẫn đến công tác bảo quản nguyên liệu, sản phẩm gặp nhiều khó khăn nhất là mùa mưa. Hiện tại sản phẩm phơi, sấy nhờ vào năng lượng mặt trời hoặc nong trên than, quá trình phơi sấy phụ thuộc vào thời tiết, không kiểm soát được, do đó sản phẩm sản xuất ra dễ bị ẩm mốc, mối mọt. Quá trình sản xuất vẫn 1 Tư liệu phỏng vấn ngày 30 tháng 7 năm 2016 2 Tư liệu phỏng vấn ngày 04 tháng 09 năm 2016 3 Tư liệu phỏng vấn ngày 04 tháng 09 năm 2016
  5. 106 LÊ VĂN VIỆN còn làm thủ công, người dân chưa quan tâm đầu tư máy móc để tăng năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm, bảo đảm tính cạnh tranh. Ngoài ra, nguồn nguyên liệu cũng gặp không ít khó khăn, hằng năm phải mua nguyên liệu từ các huyện trong tỉnh và chưa có vùng trồng nguyên liệu. [4; tr. 68] Thông qua quá trình nhìn nhận, tiếp xúc thực tiễn với làng nghề, tôi thử mạnh dạn đề xuất một số phương hướng để đóng góp một phần nào đó cho công cuộc phát triển của làng nghề: Thứ nhất: Phải khai thác triệt để kinh nghiệm, tri thức của các nghệ nhân, có tay nghề cao đặc biệt hai nghệ nhân Võ Chức, Thái Phi Hùng, Bác Nguyễn Trí là những người đã lớn tuổi, thời gian gắn bó với nghề không còn bao lâu để ứng dụng và lưu truyền cho các thế hệ sau. Thứ hai: Cần hơn nữa những chính sách, biện pháp để thu hút lao động trẻ tuổi giúp cho họ hiểu hơn về những giá trị của nghề truyền thống bởi vì họ chính là những người giữ vai trò quyết định đối với việc bảo tồn và phát triển nghề mây tre đan trong tương lai. Thứ ba: Thiết kế mẫu, mã cho sản phẩm vừa mang phong cách truyền thống, vừa mang phong cách hiện đại, nhằm tạo ra các sản phẩm có giá trị nghệ thuật cao, đáp ứng nhu cầu thị trường trong và ngoài nước. Tập trung phát triển các sản phẩm thủ công mỹ nghệ, sản phẩm phục vụ các tiện ích sinh hoạt hằng ngày của cá nhân và gia đình, các mặt hàng trang trí nội thất, hàng cao cấp làm bằng song mây, tre nứa (như bàn, ghế các loại), sản phẩm lưu niệm phục vụ du lịch...Phát triển thêm các sản phẩm mà xã hội đang có nhu cầu như: khung tre, sọt tre cắm hoa, giỏ đựng trong siêu thị, sản phẩm phục vụ du lịch như: quạt tre, mủ nón, gối tre. Thứ tư: Quảng bá được thương hiệu của làng nghề thông qua việc tích cực tham gia các hội chợ làng nghề, nghề thủ công, các kỳ Festival làng nghề truyền thống, triển lãm, hội chợ thương mại, các phương tiện thông tin đại chúng qua đó vừa bán hàng vừa quảng bá sản phẩm, xúc tiến thương mại, ký kết các hợp đồng tiêu thụ với các doanh nghiệp, đặc biệt xây dựng khu công nghiệp làng nghề thành địa điểm du lịch hấp dẫn. 3. KẾT LUẬN Trong công cuộc khôi phục các làng nghề truyền thống ở Huế thì làng nghề mây tre đan Bao La là một điển hình tiêu biểu cho sự thích ứng và phát triển phù hợp với bối cảnh mới. Đứng trước những khó khăn chung bối cảnh xã hội, những người thợ thủ công của làng Bao La đã không từ bỏ mà ngược lại luôn trăn trở để tìm những cách đi phù hợp. Thành công của làng nghề đến từ sự kết hợp của hai yếu tố đó là sự thích ứng với xu thế phát triển của thời đại nhưng vẫn coi trọng những giá trị truyền thống. Đây có thể là kinh nghiệm quý giá mà các làng nghề truyền thống khác tham khảo và vận dụng trên hành trình khôi phục và làm sống lại những làng nghề đặc trưng của Huế nói riêng và Việt Nam nói chung.
  6. SỰ THÍCH ỨNG CỦA LÀNG NGHỆ MÂY TRE ĐAN BAO LA… 107 TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Nguyễn Thị Ngọc Cẩm, Lê Thanh Minh, Trương Thị Diệu (2015). Du lịch làng nghề truyền thống Huế: hướng phát triển bền vững, Kỷ yếu Hội thảo khoa học “Dấu ấn Huế, bản sắc Việt trong sản phẩm thủ công truyền thống”, Uỷ ban Nhân dân thành phố Huế. [2] Nguyễn Hữu Thông (1994). Huế - Nghề và làng nghề thủ công truyền thống, NXB Thuận Hóa, Huế. [3] Bảo Trân (2012). Nhân Festival Huế: Một làng nghề truyền thống có hơn 600 năm, 15-9-2016, http://kyluc.vn/tin-tuc/tin-ky-luc/nhan-festival-hue-mot-lang-nghe- truyenthong-co-hon-600-nam. [4] Lê Văn Viện (2016). Nghề mây tre đan làng Bao La quá khứ và hiện tại, Tạp chí Huế Xưa & Nay, số 137, tr. 66-69. LÊ VĂN VIỆN SV lớp Sử 4C, khoa Lịch sử, trường Đại học Sư phạm – Đại học Huế ĐT: 0164 861 2194, Email: levanvien1011@gmail.com
nguon tai.lieu . vn