Xem mẫu

  1. TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 24 - Thaùng 11/2014 SỰ RA ĐỜI CỦA NGÔI TRƯỜNG SƯ PHẠM TRONG CHIẾN KHU CÁCH MẠNG NGUYỄN ĐỨC HÒA(*) TÓM TẮT Lịch sử hình thành và phát triển của Trường Đại học Sài Gòn trải qua 3 giai đoạn chính: Trường Sư phạm cấp 2 miền Nam (1972 – 1976), Trường Cao đẳng Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh (CĐSP TP.HCM) (1976 – 2006) và Trường Đại học Sài Gòn từ năm 2007 đến nay. Trường Sư phạm cấp II miền Nam được thành lập vào tháng 2/ 1972 tại căn cứ Dương Minh Châu gần Lò Gò, Xa Mát thuộc huyện Tân Biên (Tây Ninh). Đây là ngôi trường sư phạm đầu tiên và duy nhất đã đào tạo 2 khóa gồm 104 giáo viên cốt cán có trình độ sư phạm cấp II trong kháng chiến chống Mỹ. Tháng 4/1975, tiếp quản trường Sư phạm Sài Gòn và Trường CĐSP TP.HCM ra đời trên cơ sở của Trường Sư phạm cấp II miền Nam, và sau này là Trường Đại học Sài Gòn (25-4-2007). Từ khóa: Trường Đại học Sài Gòn, Trường Sư phạm cấp 2 miền Nam, Trường Cao đẳng Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, chiến khu, giáo dục cách mạng. ABSTRACT Formation and development History of Saigon University including three periods: The Southern secondary teacher’s school (1972-1976), The teacher’s training College (1976- 2006) and Saigon University from 2007 to now. The Southern secondary teacher’s school was established on February, 2rd 1972 in the Duong Minh Chau military base near Lò Gò, Samat in Tân Biên District (Tây Ninh province). This is the first and only teacher school trained two courses including 104 major teachers with Secondary level for liberated areas in the war against Americans. In April, 1975 the school took over Saigon teacher school and the teacher’s training College born on the basis of The Southern secondary teacher’s school, and then it has becomes Saigon University (on April 25th, 2007). Keywords: Sai Gon University, The Southern secondary teacher’s school, The Teacher’s Training college of Ho Chi Minh city, Military base, Revolutionary education. 1. TỪ Ý TƯỞNG CỦA NỀN GIÁO DỤC thực hiện. Tiểu ban Giáo dục Miền đề nghị NHÂN VĂN ĐẾN TỔ CHỨC QUỐC TẾ Ban Tuyên huấn cho thành lập một đoàn CỦA CÁC NHÀ GIÁO(*) thể nhà giáo yêu nước. Đề nghị đó được Nền giáo dục cách mạng miền Nam ra chấp nhận vào ngày 20/11/1963 nhân kỉ đời trong khói lửa ác liệt của cuộc kháng niệm lần thứ 6 ngày Quốc tế hiến chương chiến chống Mỹ. Đó là nền giáo dục theo các nhà giáo. Hoạt động Tiểu ban Giáo dục định hướng nhân văn mà hậu phương miền Miền và giáo dục miền Nam mang ảnh Bắc và các nước xã hội chủ nghĩa đang hưởng tiến bộ của giáo dục miền Bắc và của các nước xã hội chủ nghĩa. Thật tự hào (*) PGS.TS, Trường Đại học Sài Gòn nhìn lại lịch sử của Hội Nhà giáo các nước 30
  2. xã hội chủ nghĩa và Việt Nam hoạt động vì góp nhiều cán bộ trong tổng số 31 đoàn một nền giáo dục nhân văn, tiến bộ. giáo viên xung phong vào chiến trường Tháng 7/1946, một tổ chức quốc tế các miền Nam công tác với số lượng là 2.752 nhà giáo tiến bộ được thành lập ở Paris đã người (1) trong đó có 14 đoàn vào chiến lấy tên là Liên hiệp quốc tế các công đoàn trường B2 trọng điểm (chỉ tính từ tháng giáo dục (Fédération Internationale 5/1961 đến tháng 12/1974) (2) Nhiều giảng Syndicale des Enseignants - FISE). Nǎm viên và các giáo viên phổ thông và giảng 1949, tại một hội nghị ở Warszawa (thủ đô viên đại học đã vượt Trường Sơn vào miền Ba Lan), Liên hiệp quốc tế các công đoàn Nam xây dựng nền giáo dục cách mạng ở giáo dục đã ra bản Hiến chương các nhà vùng giải phóng (3). giáo gồm 15 chương với nội dung chủ yếu Đã có một số nhà giáo hi sinh mà hài là đấu tranh chống nền giáo dục tư sản, cốt còn nằm lại khu vực Đông Nam Bộ phong kiến, xây dựng nền giáo dục tiến bộ được các Sở giáo dục địa phương chăm để bảo vệ quyền lợi của các nhà giáo cũng sóc. Ban Liên lạc cán bộ đi B đã phối hợp như đề cao trách nhiệm và vị trí của nghề với Tiểu ban giáo dục Miền cũ xây dựng dạy học và nhà giáo trong xã hội. bia tưởng niệm tại đồi 100 huyện Tân Biên Công đoàn giáo dục Việt Nam là một tỉnh Tây Ninh để ghi nhớ công ơn của trong 57 thành viên của FISE từ năm 1953. những nhà giáo chiến sĩ đã hy sinh vì sự Trong cuộc họp của FISE từ 26 đến 30 nghiệp giải phóng đất nước. tháng 8 năm 1957 tại Warszawa, đại biểu Hoạt động và sự trưởng thành vượt bậc các nước đã quyết định lấy ngày 20 tháng 11 của hệ thống giáo dục cách mạng đi liền năm 1958 là ngày Quốc tế hiến chương các với chuyển biến to lớn của cách mạng miền nhà giáo. Ngày này lần đầu tiên được tổ Nam, đòi hỏi phải có một ngôi trường đào chức trên khắp miền Bắc đang xây dựng chủ tạo cán bộ giáo dục cách mạng đáp ứng nghĩa xã hội. Những nǎm sau đó, ngày lễ những yêu cầu và nhiệm vụ chính trị xã hội này được tổ chức trang trọng để tôn vinh các trong giai đoạn mới mở ra từ năm 1972. nhà giáo tại nhiều vùng giải phóng ở miền Trường Sư phạm cấp 2 miền Nam Việt Nam Việt Nam. Hàng nǎm vào dịp kỷ niệm Nam trực thuộc chỉ đạo hoạt động của Tiểu 20 tháng 11, Tiểu Ban Giáo dục thường xuất ban Giáo dục Miền ra đời trong bối cảnh bản, phát hành một số tập san đặc biệt để cổ lịch sử đó. vũ tinh thần đấu tranh của giáo giới trong 3. NGÔI TRƯỜNG CỦA GIÁO DỤC các vùng tạm chiếm, động viên tinh thần CÁCH MẠNG RA ĐỜI GIỮA RỪNG SÂU chịu đựng gian khổ của những giáo chức CỦA CHIẾN KHU DƯƠNG MINH CHÂU trong kháng chiến chống Mĩ. Theo chỉ thị của Tiểu ban Giáo dục 2. VƯỢT TRƯỜNG SƠN XÂY DỰNG miền Nam Việt Nam (thường gọi tắt là NỀN GIÁO DỤC CÁCH MẠNG Tiểu ban Giáo dục Miền), tháng 2/1972, Trong kháng chiến chống Mỹ cứu một ngôi trường mới được thành lập ở tả nước, nhiều giảng viên, sinh viên ở miền ngạn hạ lưu suối Xa Mát thuộc chiến khu C Bắc gia nhập bộ đội, hoặc xung phong vào huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh, cũng là địa miền Nam để phát triển sự nghiệp giáo dục bàn gần với Trung ương Cục miền Nam cách mạng. Trường Đại học Sư phạm Hà (Cục R). Đây chính là Trường Sư phạm Nội cùng các trường phổ thông đã đóng cấp 2 miền Nam Việt Nam - ngôi trường sư 31
  3. phạm đầu tiên và duy nhất trong cuộc phủ cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền kháng chiến chống Mĩ cứu nước ở miền Nam Việt Nam đào tạo những cán bộ giáo Nam. Trường có nhiệm vụ đào tạo, bồi dục chuẩn bị lực lượng cho miền Nam sau dưỡng đội ngũ giáo viên cốt cán có trình Hội nghị Paris. Trường Sư phạm cấp 2 độ sư phạm cấp 2 cho vùng giải phóng, mà miền Nam đóng quân trên địa bàn gần cụ thể cho toàn chiến trường B2 (bao gồm Trung ương Cục miền Nam - cơ quan đầu miền Đông Nam Bộ, miền Trung Nam Bộ, não cao nhất chỉ đạo cách mạng miền Nam miền Tây Nam Bộ, khu Sài Gòn - Chợ Lớn thuộc chiến khu C huyện Tân Biên, tỉnh - Gia Định và khu 6). Đây là nơi đào tạo Tây Ninh. cán bộ giáo dục có trình độ cao nhất ở 4. HOẠT ĐỘNG VÀ PHÁT TRIỂN CỦA vùng giải phóng lúc bấy giờ. TRƯỜNG SƯ PHẠM CẤP 2 MIỀN NAM Không chỉ thực hiện hai nhiệm vụ trên, VIỆT NAM mà Trường Sư phạm cấp 2 miền Nam Việt Ban Lãnh đạo của Trường Sư phạm Nam còn thực hiện các nhiệm vụ như: cấp 2 miền Nam được thành lập có nhiệm - Thường xuyên tổ chức, móc nối, liên vụ chỉ đạo thực hiện đào tạo giáo viên, cán lạc, trao đổi đường lối quan điểm giáo dục bộ quản lí ngành giáo dục giải phóng, triển cách mạng với các đồng nghiệp đang giảng khai các nhiệm vụ chính trị do Tiểu Ban dạy, công tác trong vùng địch còn tạm Giáo dục miền Nam Việt Nam giao phó. chiếm (các nghiệp đoàn giáo chức công lập Trải qua 5 năm hoạt động, Ban Lãnh đạo và tư thục). của Trường Sư phạm cấp 2 miền Nam Việt - Chuẩn bị sẵn sàng một đội ngũ cán Nam gồm 3 đồng chí: Trần Hồng Nhật, bộ, thầy cô giáo và học viên có đầy đủ Nguyễn Yên Du (Hà Quỳ) và Đặng Khắc phẩm chất, trình độ chuyên môn, quan Minh (Ba Minh). điểm lập trường vững vàng để về tiếp quản Tuy ban lãnh đạo của Trường Sư phạm Sài Gòn và tất cả các tỉnh trên toàn miền cấp 2 miền Nam Việt Nam có số lượng ít Nam khi cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu ỏi như vậy, nhưng thực sự các đồng chí đã nước giành thắng lợi hoàn toàn. thực hiện được rất nhiều việc vượt quá sức Để thực hiện những nhiệm vụ quan mình trong điều kiện cực kỳ gian khổ của trọng đó, Trường Sư phạm cấp 2 miền kháng chiến chống Mĩ. Nam đã sớm kiện toàn tổ chức và hoạt Trường Sư phạm cấp 2 miền Nam Việt động trong hoàn cảnh khó khăn và ác liệt Nam tuy mới thành lập nhưng đã quy tụ của chiến tranh. được một tập thể 16 thầy cô giáo, được Như vậy, Trường Sư phạm cấp 2 miền chia làm hai khoa là Khoa Xã hội và Khoa Nam trực thuộc Bộ Giáo dục và Thanh Tự nhiên. Những giáo viên tham gia giảng niên Chính phủ cách mạng Lâm thời Cộng dạy các môn học của Trường gồm: hòa miền Nam Việt Nam và thuộc sự chỉ Các giáo viên của Trường nhanh chóng đạo của Tiểu ban Giáo dục miền Nam Việt tạo dựng uy tín đối với các học viên, vì các Nam được thành lập vào tháng 2/1972, vào thầy cô vừa có đức, có khả năng sâu về thời điểm diễn ra những thay đổi to lớn của chuyên môn, lại vừa có quan điểm lập cách mạng miền Nam. Trường Sư phạm trường vững vàng và lòng yêu nghề tha thiết. cấp 2 miền Nam được giao thực hiện Bên cạnh Ban Lãnh đạo và tập thể giáo nhiệm vụ chính trị quan trọng của Chính viên, còn có Bộ phận công nhân viên của 32
  4. Trường Sư phạm cấp 2 miền Nam Việt công tác đào tạo và khả năng thật sự của Nam. Sự phục vụ của bộ phận này có đóng từng người. góp không nhỏ vào những hoạt động của Tháng 11/1972, Trường bắt đầu khai Trường trong điều kiện cơ sở vật chất rất giảng khóa 1 với 31 giáo sinh được học khó khăn, thiếu thốn trong chiến khu cách trong vòng 12 tháng dựa theo chương trình mạng. Tuy chỉ có 11 người, nhưng anh chị đào tạo 3 năm của các trường Sư phạm cấp em cán bộ, công nhân viên cáng đáng rất II ở miền Bắc. Trong khóa 1, Trường vừa nhiều công việc khác nhau, phục vụ cho bắt đầu giảng dạy, vừa tiếp tục đón tiếp giáo hàng trăm giáo viên và giáo sinh trong sinh đến sau, vì họ đến vào những thời điểm Trường. Bộ phận công nhân viên rất năng khác nhau, do tình hình chiến sự trên chiến nổ, đầy trách nhiệm và phục vụ nhiệt tình. trường Nam Bộ vẫn còn diễn ra khá ác liệt. Bộ phận hành chính, bảo vệ, sản xuất, y tế Các giáo sinh ở các tỉnh miền Tây Nam Bộ và bộ phận hậu cần (gồm có nhà ăn tập thể, (Khu 9 = T9), miền Trung Nam Bộ (Khu 8 tiếp phẩm và cấp dưỡng) đảm trách nhiều = T8) không thể có mặt đầy đủ theo đúng công việc khác nhau, góp phần không nhỏ thông báo triệu tập, vì đường dây giao liên vào hoạt động hiệu quả chung của Trường. thường xuyên bị đứt khi phải vượt qua hai Sau khi kiện toàn tổ chức, Trường Sư con sông Hậu và sông Tiền. Nhưng ngay phạm cấp 2 miền Nam Việt Nam đã nhanh sau khi đã đến Trường, các giáo sinh nhanh chóng bắt tay tổ chức hoạt động đào tạo chóng bước ngay vào học tập. giáo viên cấp 2 và cán bộ giáo dục cách Khi chương trình đào tạo của Khóa 1 mạng, mà trước hết là tiến hành chiêu sinh. chưa kịp kết thúc, thì Khóa 2 đã được triệu Ngay sau khi có quyết định thành lập, tập và khai giảng vào tháng 8/1973. Khóa 2 Trường bắt tay ngay vào việc tìm căn cứ để có 73 giáo sinh (số lượng đông gấp đôi làm nơi đóng quân và xây dựng những cơ giáo sinh Khóa 1) và chương trình học kéo sở ban đầu phục vụ sinh hoạt, chiến đấu, dài đến 18 tháng. Sau khi Khóa 2 bước vào học tập. Cả thày và trò đều phải tích cực học tập một thời gian thì Khóa 1 mới bế lao động để xây dựng nhà bếp, nhà ăn, đào giảng (khoảng tháng 10/1973). Khóa 2 với gia sản xuất cải thiện đời sống cho giáo tuổi đời còn rất trẻ, nam nữ giáo sinh tuổi viên và các học viên. từ 14 đến 40 chiếm đại bộ phận, nên mọi Vì điều kiện chia cắt địa hình của chiến sinh hoạt học tập của Khóa 2 diễn ra rất sôi trường trong giai đoạn “Việt Nam hóa động và tươi trẻ. chiến tranh”, nên Trường chỉ tuyển sinh từ 5. TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP Khu 6 (T6) Đà Lạt vào đến Mũi Cà Mau CỦA TRƯỜNG SƯ PHẠM CẤP 2 MIỀN (4) Trường bắt đầu thông báo tuyển sinh NAM VIỆT NAM khóa 1, sau khi đã chuẩn bị chương trình, Khu vực đóng quân của Trường Sư giáo trình đào tạo, chọn đội ngũ giáo viên phạm cấp 2 miền Nam Việt Nam trong rừng (lấy từ lực lượng giáo viên chi viện từ miền được bố trí khá hợp lý, phù hợp với hoàn Bắc vào miền Nam trong khoảng thời gian cảnh dã chiến: có các khu sinh hoạt tập thể, 1962 – 1972) và tiếp nhận giáo sinh từ các khu học tập, khu ăn ở. Khu sinh hoạt dành địa phương cử về Trường học tập. Các giáo cho thầy cô và khu ăn ở, học tập của giáo sinh được sắp xếp vào một trong hai lớp sinh được bố trí riêng, khoảng giữa là sân Xã hội hoặc Tự nhiên theo yêu cầu của dành cho hội họp và khu hành chính văn 33
  5. phòng, học tập. Vì Trường nằm sát khu vực Nam là khá mỏng. Tuy vậy, họ còn khá trẻ, căn cứ Trung ương Cục, nên kỉ luật của khỏe, sống sôi nổi hòa đồng với giáo sinh. Trường rất nghiêm, đặc biệt là phòng gian, Trong chiến tranh gian lao, ác liệt, họ gắn bảo mật. Việc kiện toàn tổ chức, quy chế bó với nhau bằng tình đồng đội, có những học tập và sinh hoạt chặt chẽ đã giúp cho mối tình thơ mộng tạo nên những cặp vợ giáo viên và các giáo sinh tập trung thực chồng, sinh con ngay trong chiến khu. Sau hiện tốt nhiệm vụ đào tạo và học tập. những giờ giảng dạy, học tập và phục vụ Trường Sư phạm cấp 2 miền Nam Việt chiến đấu, họ vẫn thấy thi vị, lạc quan yêu Nam được chia làm hai ban đào tạo là Ban đời. Cuộc sống dưới tán rừng già tuy gian Xã hội và Ban Tự nhiên. Tham gia giảng khổ, nhưng thầy và trò thật vui khi cùng dạy là những giáo viên có phẩm chất đạo nhau đi bẫy chim, đánh cá trên con suối đức cách mạng và trình độ chuyên môn. Xamat ven Trường để cải thiện đời sống. Những thầy cô được chi viện từ miền Bắc Trước những diễn biến mau lẹ của vào chiến trường miền Nam lúc bấy giờ cuộc tiến công quân sự vào Mùa hè 1972 như thầy Nguyễn Yên Du và Đặng Khắc cho đến Tổng tấn công nổi dậy Mùa xuân Minh (quản lý), thầy Phạm Ti (dạy Vật lí), 1975 ở miền Nam, tình hình tổ chức hoạt thầy Dương Trí Đức (dạy Hóa học), thầy động của Trường Sư phạm cấp 2 miền Phạm Văn Duệ (dạy Lịch sử), cô Nguyễn Nam Việt Nam cũng có nhiều thay đổi. Thị Minh Hải (dạy Địa lý) v.v…Họ là một Trong khoảng những năm từ 1972 đến trong số rất ít những giáo viên có trình độ 1975, Trường hai lần phải dời căn cứ lúc đại học, có kinh nghiệm đào tạo giáo viên thì ở tả ngạn, khi thì ở hữu ngạn dòng suối dạy cấp 2, được Tiểu Ban giáo dục Miền Xamat cách vùng Lò Gò từ 3km đến 5 km, tín nhiệm phân công công tác lãnh đạo và thuộc xã Tân Lập, huyện Tân Biên, tỉnh giảng dạy tại Trường Sư phạm cấp 2 miền Tây Ninh, miền Đông Nam Bộ. Công việc Nam Việt Nam. Tuy nhiên, thách thức đối đầu tiên khi Trường dời đến địa điểm mới với hoạt động đào tạo của Trường và đối là phải khẩn trương bắt tay ngay vào việc với đội ngũ giáo viên thực sự là không nhỏ. đào hầm, xây công sự giao thông hào nối Khi bước vào Trường học tập, trình độ của liền toàn bộ các khu vực trong Trường để giáo sinh thật sự không đồng đều. Có sẵn sàng ứng phó kịp thời khi địch đánh những giáo sinh đã học qua vài khóa sư phá. Tiếp theo là phải nhanh chóng đào các phạm ngắn hạn, một số giáo sinh đã là tú giếng nước phục vụ cho cuộc sống của vài tài và không ít giáo sinh chỉ mới được bổ trăm người. túc văn hóa. Nhiệm vụ chung của Trường Mặc dù Trường Sư phạm cấp 2 miền và của các giáo viên là phải cung cấp cho Nam Việt Nam nằm sát con suối Xamat, giáo sinh những kiến thức cơ bản đào tạo nhưng mọi người (không phân biệt thầy giáo viên cấp 2 để phục vụ công tác giáo hay trò) vẫn phải đào giếng để có nước dục vùng giải phóng miền Nam. sinh hoạt. Điều đó là cần thiết vì sinh hoạt, Tuy có trách nhiệm cao trong công tác học tập trong hoàn cảnh chiến tranh nên cả đào tạo, nhưng lực lượng chỉ có 16 người, thầy và trò phải cùng nhau phòng chống lại phải đảm trách giảng dạy nhiều môn, địch rải chất độc hóa học hoặc đầu độc nên có thể nói đội ngũ giáo viên của nguồn nước. Đào giếng nước ở căn cứ Trường Sư phạm cấp 2 miền Nam Việt vùng rừng sâu Đông Nam Bộ thật là gian 34
  6. khổ, phải bỏ nhiều công sức. Đây là vùng bàn, bóng chuyền, đánh cầu lông v.v... đất xám cứng, người đào giếng cũng phải Giáo sinh của Trường thường xuyên tổ có chút kinh nghiệm và giếng phải đào rất chức thi đấu với các đơn vị bạn (cách sâu thì mới có nước. Trước hết, thầy và trò Trường khoảng 5 đến 10 cây số) như phải tìm nơi định đào giếng gần tổ mối và trường Điện ảnh, trường Báo chí, trường giếng phải đào qua lớp rễ cây rừng chằng Dân y (thuộc Ban Dân y Miền phụ trách y chịt, có độ sâu tối thiểu từ 15 mét đến 20 tế toàn miền Nam). Vào các ngày lễ lớn, mét mới có nước. Trường còn tổ chức những buổi giao lưu và Do điều kiện thời chiến, nên khi liên hoan văn nghệ với các tiết mục cây chuyển căn cứ, mỗi giáo sinh chỉ mang nhà lá vườn rất vui tươi, sôi động (5). theo mình những vật dụng cá nhân cần 6. TRƯỜNG SƯ PHẠM CẤP 2 thiết nhất như mùng, võng, súng đạn và MIỀN NAM VIỆT NAM THAM GIA xẻng, cuốc, cưa, đục v.v…Khi đến địa TIẾP QUẢN SÀI GÒN – GIA ĐỊNH điểm mới, toàn Trường bắt tay ngay vào Tháng 10 năm 1974, Trường Sư phạm việc đi chặt cây, cưa gỗ, hái lá trung quân cấp 2 miền Nam Việt Nam khai giảng khóa về dựng lên chỗ ăn, ở, nghỉ ngơi, học tập III với 49 giáo sinh, Khóa này mới học một cách có quy củ và theo một sơ đồ nhất được mấy tháng (đến đầu năm 1975), định. Vào năm 1973 đến đầu năm 1974, do Trường có lệnh dời căn cứ ra vùng gần Xa địch liên tục vi phạm Hiệp định Paris, lấn mát – Thiện Ngôn chuẩn bị cho nhiệm vụ chiếm vùng giải phóng, Trường Sư phạm mới. Khi chiến dịch Hồ Chí Minh đã điểm cấp 2 miền Nam Việt Nam cũng phải nhiều (cuối tháng 3 đầu tháng 4/1975), Trường lần chuyển địa điểm. Để bảo mật chỗ đóng Sư phạm cấp hai miền Nam– đơn vị trực quân, cứ 5 - 7 tháng, Trường lại phải dời thuộc Tiểu ban Giáo dục miền Nam Việt căn cứ đến địa điểm mới vào rừng sâu (gần Nam nhận lệnh tạm ngưng công tác giảng Tanốt). dạy và đào tạo để sắp xếp và chuẩn bị lực Ngoài việc khẩn trương tổ chức giảng lượng sẵn sàng nhận nhiệm vụ mới. Giữa dạy và học tập, giáo sinh các khóa phải tháng 4 năm 1975, Trường được lệnh cử tranh thủ đào thêm hầm, giao thông hào, 50% cán bộ, giáo viên, học viên các khóa cất thêm lán trại, lực lượng phải tổ chức đi tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh lịch quân sự hóa chặt chẽ để sẵn sàng chống sử. Lúc này, lực lượng của Trường tạm địch đánh phá, càn quét, lấn chiếm. Trong chia làm hai phần: số đông lực lượng giáo năm 1974, ban ngày thầy và trò lo giảng viên, cán bộ công nhân viên (CBCNV), dạy và học tập, ban đêm (từ 19 giờ đến 23 giáo sinh khóa 2 đi tham gia chiến dịch, bộ giờ), tất cả lại luân phiên nhau đi vận phận còn lại bảo vệ căn cứ, thu dọn sắp xếp chuyển, bốc vác lương thực, xăng dầu đạn tài sản nhà trường để chuẩn bị dời trường dược…tại trạm Lò Gò về nơi cất giữ để về Sài Gòn khi thời cơ đến. chuẩn bị cho chiến dịch Tổng tiến công Trường Sư phạm cấp 2 miền Nam Việt Mùa xuân 1975. Nam đã được lệnh lên đường về tiếp quản Bên cạnh việc học tập và chiến đấu, hệ thống giáo dục Đại học của chế độ cũ ở giáo sinh Trường Sư phạm cấp 2 miền thành phố Sài Gòn và chuẩn bị cho việc Nam Việt Nam còn hăng hái tham gia các phục hồi và phát triển của ngành giáo dục hoạt động thể dục thể thao như chơi bóng và đào tạo miền Nam. Để đáp ứng nhu cầu 35
  7. phát triển của ngành giáo dục miền Nam vào chi viện và xây dựng nền giáo dục nói chung và thành phố Hồ Chí Minh nói cách mạng. Cách đây 40 năm, tại căn cứ riêng, ngày 06/4/1976, Bộ Giáo dục và Tây Ninh, Chính phủ Cách mạng lâm thời Thanh niên đã ra quyết định thành lập Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã thành Trường Cao đẳng Sư phạm Sài Gòn trên cơ lập Trường Sư phạm cấp II miền Nam để sở của Trường Sư phạm cấp II miền Nam đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ giáo viên và và đến ngày 3/9/1976, Trường được đổi tên cán bộ quản lý giáo dục, phục vụ cho công thành Trường Cao đẳng Sư phạm thành tác giáo dục tại các vùng giải phóng và phố Hồ Chí Minh. chuẩn bị cho việc tiếp quản miền Nam. 7. KẾT LUẬN Những truyền thống và kết quả đạt được Nền giáo dục cách mạng được xây sau 35 năm hình thành và phát triển từ dựng với những ý nghĩa nhân văn cao đẹp Trường Sư phạm cấp II miền Nam (1972) gắn liền với ngày ra đời Tổ chức quốc tế đến Trường Cao đẳng Sư phạm thành phố các nhà giáo 20-11 do các nước xã hội chủ Hồ Chí Minh là nền móng vững chắc cho nghĩa khởi xướng. Nhiều lớp nhà giáo sự ra đời và phát triển vượt bậc của Trường chiến sĩ từ miền Bắc đã vượt Trường Sơn Đại học Sài Gòn trong 7 năm qua. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nguyễn Đức Hòa, (2011), “60 năm Trường Đại học Sư phạm Hà Nội – từ góc nhìn bên ngoài”, Đại học Sư phạm Hà Nội 60 năm xây dựng và phát triển, Kỷ yếu Hội thảo khoa học, 9/2011. 2. Nguyễn Quang Tuấn, (1995), “Cán bộ giáo viên và giáo viên từ miền Bắc chi viện cho miền Nam", Sơ thảo Giáo dục miền Nam 1954-1975, Nxb. Giáo dục, tr.177. 3. Phạm Thanh Liêm, (2006), “Công tác giáo dục ở miền Nam thời kháng chiến chống Mỹ”, Ký ức nhà giáo B2, Nxb. Giáo dục, TP.HCM, tr. 30. 4. Trần Thanh Nam chủ biên, (1995), Sơ thảo 30 năm giáo dục miền Nam (1945-1975), NXB Giáo dục, tr.205-208. 5. Theo lời kể của Hồ Trung Hiếu, giáo sinh cũ của Trường Sư phạm cấp II miền Nam, (từng công tác ở Tòa án Nhân dân tối cao Tp.HCM.). * Ngày nhận bài: 20/10/2014. Biên tập xong: 05/11/2014. Duyệt đăng: 07/11/2014 36
nguon tai.lieu . vn