Xem mẫu
- MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là con đường tất yếu của mọi quốc
gia nhằm phát triển kinh tế - xã hội. Để thực hiện công nghiệp hoá, hiện
đại hoá cần phải huy động mọi nguồn lực cần thiết (trong nước và từ
nước ngoài), bao gồm: nguồn nhân lực, nguồn lực tài chính, nguồn lực
công nghệ, nguồn lực tài nguyên, các ưu thế và lợi thế (về điều kiện địa
lý, thể chế chính trị, …). Trong các nguồn này thì nguồn nhân lực là quan
trọng , quyết định các nguồn lực khác. Lịch sử phát triển của thế giới
cũng chứng minh rằng, quốc gia nào có chính sách tạo nguồn nhân lực và
biết sử dụng nguồn nhân lực đó thì quốc gia đó phát triển.
Trên thực tế, trong những năm qua và hiện nay mặc dù GD NNL đã
tăng cả về số lượng, chất lượng và sự thay đổi về cơ cấu…Tuy nhiên với
yêu cầu cao của phát triển kinh tế và quá trình hội nhập đang đặt ra thì
NNL trong GD - ĐT đặc biệt là NNL trong GD còn nhiều bất cập: dân số
đông, có đội ngũ lao động trẻ tuổi khá lớn và luôn được bổ sung, có trình
độ phổ cập về văn hóa vào loại khá trên thế giới, nhưng nguồn nhân lực
đáp ứng cho đòi hỏi của sự phát triển lại không được như mong muốn,
chất lượng GD NNL còn chưa cao so với đòi hỏi của phát triển kinh tế –
xã hội, cơ cấu GD NNL còn thiếu cân đối giữa các bậc học giữa các
vùng/miền; cơ chế, chính sách sử dụng, sắp xếp, bố trí NNL (nhất là sử
dụng nhân tài trong lĩnh vực này) còn chưa phù hợp, chưa thoả đáng, việc
đầu tư cho GD NNL còn thấp, chưa xứng đáng với vai trò và vị thế của
đội ngũ. Chính vì vậy việc GD NNL trong GD – ĐT với sự phát triển
đang đặt ra là hết sức quan trọng, và cần thiết. Nghị quyết đại hội Đảng
lần thứ IX đã định hướng cho GD NNL Việt Nam “Người lao động có trí
tuệ cao, có tay nghề thành thạo, có phẩm chất tốt đẹp, được đào tạo bồi
dưỡng và phát triển bởi một nền giáo dục tiên tiến gắn với một nền khoa
học- công nghệ và hiện đại’’.
Như vậy, việc GD NNL với sự phát triển phải đặt trong chiến lược
phát triển, kinh tế - xã hội, phải đặt ở vị trí trung tâm, chiến lược của mọi
chiến lược phát triển kinh tế – xã hội. Chiến lược phát triển GD NNL của
nước ta phải đặt trên cơ sở phân tích thế mạnh và những yếu điểm của nó,
để từ đó có chính sách khuyến khích, phát huy thế mạnh ấy, đồng thời
cần có những giải pháp tích cực, hạn chế những mặt yếu kém trong việc
GD NNL với sự phát triển. Có như vậy chúng ta mới có được nguồn nhân
lực có chất lượng đáp ứng yêu cầu đòi hỏi ngày càng cao của sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Trên cơ sở đó,chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài:”Vấn đề giáo
dục nguồn nhân lực với sự phát triển”
1
- 2. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
- Mục đích của đề tài: Phân tích thực trạng GD NNL trong lĩnh vực
GD-ĐT với sự phát triển, chỉ ra những thành công, hạn chế rút ra cơ hội
và thách thức chủ yếu trong lĩnh vực này, từ đó đưa ra những quan điểm
và một số giải pháp cơ bản nhằm GD NNL trên thế giới nói chung và ở
Việt Nam nói riêng.
- Để hoàn thành mục đích đặt ra, đề tài tập trung giải quyết một số
nhiệm vụ cơ bản sau:
+ Hệ thống hoá một số vấn đề lý luận và thực tiễn về GD NNL trong
lĩnh vực GD – ĐT với sự phát triển.
+ Phân tích thực trạng của việc GD NNL với sự phát triển hiện nay trên
thế giới và Việt Nam; chỉ ra những thành công, hạn chế chủ yếu và các
nguyên nhân của nó→cơ hội và thách thức.
+ Đưa ra những quan điểm và một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao
vai trò của GD NNL với sự phát triển ở nước ta trong giai đoạn hiện nay .
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu của đề tài : sự phát triển NNL trong lĩnh vực
GD với tư cách là nhân tố quan trọng nhất để phát triển nguồn nhân lực..
Phạm vi nghiên cứu của đề tài: lĩnh vực GD trong GD-ĐT trên thế
giới và ở nước ta. (Bao gồm: đội ngũ những người làm công tác giảng
dạy, cán bộ quản lý GD. Không chỉ về mặt số lượng mà cả về mặt chất
lượng).
NỘI DUNG
1.Lí luận:
1.1.Nguồn nhân lực:
Nguồn nhân lực là một bộ phận của dân số trong độ tuổi nhất định
theo quy định của pháp luật có khả năng tham gia lao động.Nguồn nhân
2
- lực được thể hiện trên hai mặt đó là chất lương( trình độ chuyên môn và
sức khỏe của người lao động) và số lượng (số người và thời gian làm việc
có thể huy đông được).
1.2.Lực lượng lao động.
Lực lượng lao động là một bộ phận dân số trong độ tuổi quy định
thực tế có tham gia lao đông(đang có việc làm) và những người chưa có
việc làm nhưng đang tích cực tìm vệc làm.Cũng như nguồn nhân lưc, lực
lượng lao động được thể hiện ở hai mặt là số lượng và chất lượng.
1.3.Thất nghiệp và tỉ lệ thất nghiệp;
Người thất nghiệp là người trong độ tuổi lao động,có khả năng lao
động nhưng không có việc làm và đang tích cực đi tìm việc làm.
TLTN(%)=(Số người thất nghiệp/nguồn lao đông) x 100
2.VẤN ĐỀ ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC THẾ GIỚI.
2.1. các nước phát triển.
2.1.1.Thực trạng giáo dục nguồn nhân lực ở các nước phát triển:
Trong một thế giới khoa học công nghệ phát triển như vũ bão, con người
ngày càng đứng trước những thách thức và cả những cơ hội to lớn. Tuy
vậy, khoa học công nghệ cũng là sản phẩm, là kết quả sáng tạo của con
người. Vì vậy, bất kỳ sự phát triển nào cũng cần đến con người có trình
độ, có năng lực chuyên môn, nghiệp vụ, có tinh thần trách nhiệm cao và
có trình độ văn hóa ngang tầm với thời đại. Không chỉ các cơ quan công
quyền mà các doanh nghiệp đều coi trọng nguồn nhân lực.
Nguồn nhân lực là một yếu tố quyết định hàng đầu, quan trọng nhất của
đất nước
Thấy rõ vai trò của nguồn nhân lực trong sự phát triển đất nước như
vậy,các nước phát triển trên thế giới luôn luôn quan tâm và đặt vấn đề
đào tạo và phát triển nguồn nhân lực lên hàng đầu.
Nói đến vấn đề giáo dục nguồn nhân lực ở các nước phát triển phải kể
đến đầu tiên là các nước Mĩ, các nước Tây Âu,Nhật Bản…
3
- Các nước phát triển đã và đang dẫn đầu trong việc sáng tạo kĩ thuật và
nghiên cứu khoa học từ thế kỉ 19 và dẫn đầu thế giới trong các tài liệu
nghiên cứu khoa học và yếu tố tác động. Tại sao các nước này lại có thể
đạt được những kết quả như vậy?
Trước hết phải kể đến hệ thống giáo dục đào tạo nguồn nhân lực:
Thứ nhất,nhóm nước phát triển có một hệ thống giáo dục rất phát triển và
thu hút rất nhiều học sinh,sinh viên du học đến từ tất cả các nước trên thế
giới, như tại Mỹ với hơn 3600 trường đại học,cao đẳng và viện đào
tạo,sinh viên có điều kiện học tập và nghiên cứu thuận tiện.Phần Lan với
nề giáo dục mạng lưới nhà trường rộng lớn và các dịch vụ không có bất kì
một sự phân biệt nào,giáo dục cơ bản là hoàn chỉnh và miễn phí từ tiểu
học đến đại học .Phần lớn các nước này coi giáo dục nghề nghiệp theo
phạm trù rộng và nằm trong một hệ thống,liên thông với nhau từ thấp đến
cao,tạo cơ hội việc làm và giáo dục suốt đời cho mọi người kể cả nhận
thức tư duy và hành động thực tế.
Các nước phát triển có tỉ lệ cao về sinh viên đại học trên số dân, giáo dục
đại học phát triển rất mạnh,đa dạng các hình thức đào tạo và ngành nghề
thích ứng với nền kinh tế tri thức.
Với sự phát triển mau lẹ của công nghệ thông tin và kinh tế tri thức,giáo
dục các nước phát triển đang mở ra hình thức đào tạo từ xa hiện đại.
Thứ hai, số người nhận giải thưởng Nobel ở nhóm nước này nhiều
nhất,các phòng thí nghiệm được trang bị hiện đại,số giáo sư,tiến sĩ nhiều
nhất,các cơ hội nghiên cứu,khả năng tiếp cận các thư viện trên thế giới
công nghệ phục vụ học tập hiện đại.
Thứ ba,với môi trường kinh tế phát triển và điều kiện học tập nghiên cứu
thuận tiện và tốt như vây nhóm nước này không chỉ đào tạo được nguồn
nhân lực trong nước tốt mà còn thu hút được hầu hết các nhân tài từ các
nước,do đó các nước phát triển có một nguồn nhân lực với chất lượng tốt
hàng đầu thế giới.
Tuy nhiên bên cạnh đó hiện nay nhóm nước này vẫn phải đối mặt với
thực trạng nguồn lao động nhập cư gia tăng,thêm vào đó với tình kinh tế
khoa học kĩ thuật phát triển vào hàng đầu thế giới đòi hỏi một nguồn nhân
lực với trình độ phát triển cao,do đó thực trạng thất nghiệp với một đội
ngũ lực lượng lao động chưa đáp ứng theo yêu cầu của sự phát triển,thất
nghiệp.Theo thống kê quốc gia về trình độ học vấn ở trưởng thành tại
Mỹ,có khoảng 90 triệu người trưởng thành(chiếm khoảng 40% tổng số
người thuộc nhóm này được liệt vào nhóm thiểu năng học vấn chức
năng.Ngoài ra,bộ giáo dục Mỹ cũng dự báo rằng tình trạng thiểu năng
học vấn trong lực lượng lao động sẽ tăng vì hàng năm có khoảng 1 triệu
thanh niên bỏ học mà không có những kĩ năng cơ bản nhất và khoảng
triệu người nhập cư vào Mỹ mà không biết nói tiếng Anh.
2.1.2.Giải pháp đối với phát triển nguồn nhân lực ở các nước phát
triển
4
- Đối diện với thực trạng trên,các công ty ở nhóm nước phát triển này đã
phải chi những khoản tiền khổng lồ để khắc phục sự thiếu hụt trầm trọng
các kĩ năng cơ bản trong lực lượng lao động.Khoảng hơn một nửa số
công ty trong danh sách Fortune 500 công ty nổi tiếng nhất của Mỹ cho
biết hàng năm họ phải chi khoảng 300 triệu USD cho việc đào tạo bổ túc
văn hóa.
Nhóm nước này cũng đang tích cực nâng trình độ nguồn nhân lực với
việc cải cách giáo dục.
Phần lớn các nước này coi giáo dục nghề nghiệp theo phạm trù rộng và
nằm trong một hệ thống,liên thông với nhau từ thấp đến cao,tạo cơ hội
việc làm và giáo dục suốt đời cho mọi người kể cả nhận thức tư duy và
hành động thực tế.
Mỹ và các nước Tây Âu đang tích cực đẩy mạnh kinh tế tri thức và thích
ứng với đòi hỏi mới của nề kinh tế toàn cầu hóa với việc cải cách cơ cấu
lại nguồn nhân lực.
Nhật chú trọng hơn nữa đến giáo dục chuur nghĩa yêu nước đáp ứng yêu
các nước Nhật sớm trở thành một cường quốc hoàn chỉnh cả kinh tế và
chính trị.
Singapore vì mục đích kinh doanh và vì muốn tiếp tục giữ vị thế quốc tế
của mình chú trọng làm mọi việc trở thành cái lò đào tạo trí thức cho các
nước bao gồm cả việc mời những trường đại học quốc tế có tên tuổi sang
mở trường trực tiếp ở Singapore.
Ở Pháp,Thư của tổng thống Sarkozy gửi các nhà giáo Pháp đặt vấn đề
một cách toàn diện,bắt đầu từ đổi mới quan điểm dạy học –Kể từ việc dạy
các lớp học sinh nhỏ tuổi,sao cho nhân bản hơn,phát huy tốt hơn năng lực
riêng của mỗi cac tình trạng dao động lúc quá nhấn mạnh cái này,khi quá
nhấn mạnh cái kia,cần tuân thủ mỗi thời kì tạo ra một ước vọng riêng.
Các nước không những đào tạo tốt nguồn nhân lực trong nước mà còn
luôn luôn tạo ra môi trường hấp dẫn thu hút nguồn nhân lực có chất lượng
đến từ các nước.
Qua các giải pháp ở các nước trên chúng ta thấy các nước phát triển mỗi
nước đi theo mỗi cách khác nhau nhằm nâng cao và hoàn thiện nguồn
nhân lực,nhưng nhìn chung các nước đều tập trung đi sâu vào việc hoàn
thiện phát triển hệ thống giáo dục đào tạo,đào taọ tri thức.
Các nước này ngày càng tạo ra môi trường hấp dẫn đối với những nguồn
nhân lực, chất xám của thế giới thu hút về.
2.2.Các nước đang phát triển.
2.2.1.Thực trạng.
Đối với các nước đang phát triển một đặc điểm nổi bật nhất ở nguồn nhân
lực đó là nguồn nhân lực ở các nước này dồi dào,tuy nhiên chất lượng
đào tạo nguồn nhân lực ở các nước này lại đang đặt ra nhiều vấn đề bất
cập.
5
- Môi trường giáo dục chưa thực sự là cái nôi để đào tạo ra được nguồn
nhân lực thực sự có chất lượng.
Điều kiện giáo dục đang còn nhiều thiếu thốn,chưa đáp ứng yêu cầu và
thu hút,khuyến khích nghiên cứu,nâng cao kiến thức tay nghề.Môi trường
học tập đang còn nặng nề về lí thuyết,chưa có điều kiện đi sâu vào thực
tế,không tạo ra môi trường thu hút và khuyến khích học sinh sinh viên
nghiên cứu khoa học.
Chất lượng nguồn nhân lực và năng suất lao động so với các nước phát
triển khoảng cách phát triển còn khá xa,nếu lấy chỉ số thu nhập tính theo
đầu người làm thước đo chunghnhất,khoảng cách này có xu hướng đang
rộng thêm.
Lực lượng lao động với giá rẻ,và đang vấp phải 3 trở lực lớn;chất lượng
còn thấp về nguồn nhân lực,sự bất cập lớn của kết cấu hạ tầng,vật chất kĩ
thuật,năng lực quản lí hẫng hụt nhiều mặt.
Hầu hết nguồn nhân lực không những yếu về trình độ tay nghề,kĩ thuật
mà xét về trình độ ngoại ngữ cũng chưa đáp ứng được yêu cầu trong xu
hướng nền kinh tế toàn cầu hóa như hiện nay.
Nguồn lực lao động dồi dào,nhưng lực lượng lao động có tay nghề trình
độ cao lại đang khan hiếm.Số sinh viên được đào tạo ra trường thất
nghiệp nhiều do chưa đáp ứng được yêu cầu của thị trường lao động,
trong khi đó nhiều doanh nghiệp,kể cả những doing nghiệp cóFDI và
nhiều dự án kinh tế quan trọng khác rất thiếu nguồn lực chuyên nghiệp.
Các chủ doanh nghiệp đều cho rằng họ phải đào tạo lại hầu hết mọi người
ở mọi cấp bậc-học nghề,đại học,sau đại học mà họ nhận vào doanh
nghiệp của mình. Họ không tin tưởng vào hệ thống đại học và các viện
nghiên cứu trong nước vì chất lượng giảng dạy thấp, nội dung yếu và lạc
hậu,khả năng nghiên cứu thấp, sách vở và thiết bị đều thiếu,không đồng
bộ,cũ kĩ…
Đối với các nước đang phát triển một hiện trạng thực tế đang xảy ra đó là
hiện tượng chảy máu chất xám ,với sự dịch chuyển ồ ạt số lượng lớn nhân
công được đào tạo có kĩ năng sang các nước phát triển.Tình trạng này dẫn
đến hậu quả các nước đang phát triển này đang thiếu nguồn nhân lực có
tay nghề thì lại càng thiếu các nhân tài hơn.
6
- Sự dịch chuyển ồ ạt với số lượng lớn nhân công được đào luyện có kỹ
năng từ nước này sang nước khác, từ Châu lục này sang Châu lục khác
được gọi là chảy máu chất xám
2.2.2.Giải pháp:
Trước hết về chương trình giáo dục: phải cải tiến mạnh mẽ chương trình
giản dạy của các loại trường ở tất cả các cấp vì yêu cầu hội nhập kinh tế
toàn cầu. Chúng ta cần cải tổ từng nội dung học để đáp ứng đào tạo
những con người toàn diện nắm bắt chuyên sâu về kỹ thuật của từng lĩnh
vực.
Đã đến lúc phải đưachương trình dạy ngoại ngữ trở thành một phần bắt
buộc trong chương trình giảng dạy từ cấp phổ thông.
Nên tập trung vào yêu cầu nâng cao quyền năng con người, con người
được nâng cao quyền năng về trí tuệ, về ý chí sẽ tìm được cho mình con
đường đi lên, trong đời sốn và lập nghiệp.
Nên tập trung cơ cấu nguồn nhân lực, tập trung đào tạo nguồn nhân lực
chuyên sâu,kĩ thuật có tay nghề cao.
Cần phải có cuộc vận động toàn xã hội để làm cho ai cũng thấy được học
nghề có vị trí, được đánh giá cao trong xã hội.
Giải pháp cấp thiết đối với các nước đang phát triển hiện nay là phải làm
thế nào để hạn chế việc chảy máu chất xám,dẫn dến ngày càng khan hiếm
lực lượng lao động có tay nghề, kĩ thuật cao.Muốn làm được vậy cần phải
nâng cao thu nhập của các nhân viên chuyên môn,thu ngắn khoảng cách
biệt giữa thu nhập trong nước và ngoài nước,gia tăng mức đào tạo chuyên
viên các ngành cho các nước đang phát triển này để giảm thiểu tình trạng
khan hiếm chất xám.
7
- Làm thế nào để đào tạo và gìn giữ những thế hệ nhân tài cho đất nước
vẫn là câu hỏi lớn đối với các nhà hoạch định chính sách.
Việc đào tạo, thu hút và gìn giữ nhân tài chính là một trong những “chìa
khóa thành công” quan trọng nhất đưa Singapore sớm trở thành một
“con rồng châu Á”.
Để hạn chế hiện tượng chảy máu chất xám theo chúng tôi thì nên cần có
những giải pháp sau:
Giữ chân người giỏi là chiến lược, không phải là biện pháp đối phó nhất
thời.Vì vậy phải tiến hành song song 4 yếu tố: Thu hút,tuyển dụng,hội
nhập,và cộng tác.
Cần có hững tiêu chí định tính và định lượng giúp doanh nghiệp nhận
diện ra nhân viên giỏi cần giữ. Đó là những nhân viên luôn hoàn thành
xuất sắc công việc, đảm trách những công việc đòi hỏi kỹ năng, kiến thức
8
- hiếm trên thị trường lao động, tâm huyết với sự phát triển của doanh
nghiệp …
Doanh nghiệp phải tìm ra được những yếu tố quyết định để giữ nhân
viên giỏi. Nếu muốn nhân viên giỏi hài lòng và ở lại lâu dài với doanh
nghiệp cần giảm yếu tố bất mãn bao gồm lương bổng và chế độ làm việc,
yếu tố tạo nguồn, bao gồm thu hút và tuyển dụng…
2.3.Các nước kém phát triển.
2.3.1.Thực trạng.
So với các nhóm nước khác nhóm nước này kém nhất cả về kinh tế lẫn
trình độ phát triển.Khoa học kĩ thuật,cơ sở hạ tầng còn lạc hậu,con ngưới
không có điều kiện để phát triển về mọi mặt,trình độ dân trí còn thấp,do
đó trình độ tay nghề, kĩ thuật của lực lượng lao động vô cùng thấp.
Đối với các nước này nguồn lao động có trình độ vô cùng thấp, hầu hết
lao động dựa vào sức lực cơ bắp là chính.
Sự đầu tư cho giáo dục đào tạo nguồn nhân lực hầu như còn rất hạn chế.
2.3.2.Giải pháp:
Đối với các nước này nền kinh tế đang còn vô cùng lạc hậu,cho nên muốn
phát triển và nâng cao nguồn nhân lực cần phải có sự đầu tư,trợ giúp các
nước khác đặc biệt là sự trợ giúp của các nước phát triển
3.Thực trạng giáo dục nguồn nhân lực ở VIỆT NAM
Hiện nay cả nước đang quan tâm đến vấn đề giáo dục, với mong
muốn nước ta sớm có được một nền giáo dục tiên tiến, đáp ứng yêu cầu
phát triển ngày càng cao của đất nước. Hơn nữa, phát triển nguồn nhân
lực đang trở thành đòi hỏi bức thiết hàng đầu trên chặng đường công
nghiệp hóa hiện đại hóa hiện nay của đất nước, chặng đường nước rút –
vì thời gian từ nay đến năm 2010 không phải là dài.
Sự thật là chưa lúc nào vấn đề phát triển con người và nguồn nhân
lực trở thành vấn đề thời sự nóng bỏng ở nước ta như giai đoạn hiện nay,
bởi hai lẽ:
- Đất nước giành được nhiều thành tựu to lớn sau 20 năm đổi mới, nay
bước vào một thời kỳ phát triển mới sau khi đã hội nhập toàn diện vào
nền kinh tế toàn cầu hóa, cơ hội và thách thức chưa từng có, đòi hỏi phải
có nguồn nhân lực thích ứng.
- Thực trạng nguồn nhân lực hiện nay khó cho phép tận dụng tốt nhất
cơ hội đang đến với đất nước. Không mau chóng khắc phục được yếu
kém này, có nguy cơ khó vượt qua những thách thức mới, sẽ kéo dài sự
tụt hậu của đất
nước với nhiều hệ lụy nan giải.
Trong Luật Giáo dục cũng như trong thực tiễn quản lý nhà nước về giáo
dục cần phân biệt rõ và xây dựng vững mạnh cả 3 phân hệ (3 trụ cột)
9
- trong một hệ thống giáo dục quốc dân thống nhất gồm: giáo dục phổ
thông (GDPT), giáo dục đại học và chuyên nghiệp (GD ĐH&CN - bao
gồm từ dạy nghề, trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học, sau đại
học), giáo dục cộng đồng (GDCĐ - bao gồm tất cả các loại hình giáo dục
ngoài nhà trường: giáo dục thường xuyên, trung tâm giáo dục cộng đồng
v.v...). Ba phân hệ này có mục tiêu, tính chất, nội dung, phương thức giáo
dục, đào tạo, cách quản lý... khác nhau một cách cơ bản, vận hành theo
những nguyên tắc riêng của nó. Do vậy cần tổ chức lại sao cho mỗi phân
hệ này thống nhất lại thành một tiểu hệ thống, có tính độc lập tương đối,
có sự liên thông trong nội bộ; mỗi phân hệ tập trung vào thực hiện đúng
mục tiêu, tính chất, chức năng của mình, tránh lẫn lộn, chồng chéo, cản
trở nhau.
3.1.Thực trạng trong giáo dục phổ thông
Phương pháp giáo dục của Việt Nam nói chung còn chịu ảnh hưởng
nặng nề của một mô thức giáo dục mà người ta gọi là mô thức áp đặt.
Công bằng mà nói, mô thức áp đặt vẫn có một vị trí quan trọng của nó
trong giáo dục, nhất là giáo dục ở bậc tiểu học, và phần nào ở trung học,
với điều kiện nó chỉ là một phần của phương pháp giáo dục mà mô thức
chính chú trọng vào việc gợi ý để học sinh phát triển óc sáng tạo và khả
năng tư duy độc lập. Dùng phương pháp áp đặt như một mô thức chính
cho giáo dục như trong trường hợp Việt Nam hiện nay hoàn toàn không
hợp lý cho sự phát triển một nền giáo dục tiên tiến trong điều kiện toàn
cầu hóa và thời đại của bùng nổ thông tin. Ngược lại, nó đang biến nền
giáo dục này trở thành lạc hậu, dù nhìn trên mặt nổi, lượng thông tin
trong các chương trình học ở Việt Nam nhiều hơn chương trình giáo dục
của nhiều quốc gia tiên tiến.
Một sai lầm căn bản khác của giáo dục Việt Nam là tính đồng phục
trong giảng dạy. Ở Việt Nam, chỉ có một loại sách giáo khoa, của nhà
nước. Ðiều này không thấy có ở nước Pháp, nước Mỹ, và cả ở miền Nam
Việt Nam trước đây.
Trong những năm qua Đảng và nhà nước Việt Nam đã quan tâm rất
nhiều đến vấn đề giáo dục từ bậc mầm non,phát triển các trường công
lập,dân lập với những nơi có điều kiện,từng bước mở các trường tư thục
ở một số bậc học như mầm non,trung học,phổ thông,trung học chuyên
nghiệp,dạy học,mở rộng các hình thức đào tạo không tập trung,đào tạo từ
xa,từng bước hiện đại hóa giáo dục.
Dưới dây là bảng số liệu số học sinh phổ thông và trung học chuyên
nghiệp qua các giai đoạn;
10
- Năm học Tiểu học học Trung học Trung học
Trung
cơ s ở phổ thông chuyên
nghiệp
1995-1996 10.218.169 4.312.674 1.019.480 172.149
1996-1997 10.348.964 4.872.813 1.171.267 182.648
1997-1998 10.437.770 5.254.420 1.393.199 207.921
1998-1999 10.250.214 5.564.888 1.657.708 216.912
1999-2000 10.063.025 5.767.298 1.975.853 227.992
2000-2001 9.751.431 5.918.153 2.199.814 255.323
2001-2002 9.336.913 6.254.254 2.328.965 271.175
2002-2003 8.841.004 6.497.548 2.452.891 309.807
2004-2005 8.350.191 6.612.099 2.616.207 360.392
2004-2005 7.773.484 6.670.714 2.802.101 466.504
2005-2006 7.317.813 6.444.739 3.029.221 500.416.
Nguồn số liệu : Bộ giáo dục và Đào tạo, thống kê giáo dục và đào tạo các
năm học
12000000
10000000
8000000
TH
6000000
THCS
THPT
4000000 THCN
2000000
0
1995- 1996- 1997- 1998- 1999- 2000- 2001- 2002- 2004- 2005- 2006-
1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2005 2006 2007
11
- 3.2 Thực trạng trong giáo dục đại học
Sự thiếu hụt nguồn lao động chất lượng cao hiện nay ở Việt Nam do
nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân đầu tiên và cơ bản nhất phải kể
đến từ sau thời kỳ đổi mới kinh tế - xã hội Việt Nam phát triển khá mạnh
mẽ, nhất là trong những năm gần đây kinh tế tăng trưởng từ 7-8%/ 1 năm,
trong khi đó hệ thống giáo dục đào tạo lại quá chậm đổi mới. Chúng ta
đang xây dựng một nền kinh tế thị trường theo hướng xã hội trong bối
cảnh hội nhập nền kinh tế thế giới đòi hỏi nền kinh tế nước ta phải tuân
thủ theo quy luật cung cầu, cạnh tranh trong sân chơi của luật chơi chung,
thế nhưng giáo dục và đào tạo của ta thì vẫn chưa thể đổi mới để đáp ứng
nhu cầu của xã hội trong bối cảnh mới. Ngành giáo dục đã qua nhiều lần
cải cách nhưng nội dung lẫn phương pháp vẫn còn tồn tại nhiều bất cập,
chưa phát huy được tính sáng tạo và độc lập trong suy nghĩ của học sinh,
sinh viên, bệnh thành tích vẫn tồn tại trong xã hội, điều này dẫn tới việc
đào tạo ra một đội ngũ có bằng cấp nhưng kiến thức và khả năng không
tương xứng. Hàng năm có nhiều sinh viên ra trường nhưng không tìm
được việc làm, do không đáp ứng được yêu cầu của nhà tuyển dụng, họ
đành làm việc trái với chuyên môn, ngành nghề đã được đào tạo, vì vậy
không thể đạt hiệu quả cao trong công việc. Nhà tuyển dụng khi nhận lao
động thường đào tạo lại mới sử dụng được. Tình trạng lao động trái
ngành, chắp vá này là một trong những nguyên nhân cơ bản làm chậm sự
phát triển chung của xã hội. Hàng năm nước ta có thêm rất nhiều sinh
viên, học viên được nhận bằng cử nhân, thạc sỹ, tiến sỹ nhưng trên thực
tế thì vẫn còn một phần không nhỏ những người có học hàm, học vị
nhưng lại không được nhà tuyển dụng và xã hội thừa nhận vì trình độ,
năng lực không tương xứng.
12
- Lao động chất lượng cao thiếu hụt trầm trọng trách nhiệm phần lớn
thuộc về hệ thống giáo dục. Mặt khác chính sách đãi ngộ của Nhà nước
chưa thực sự hợp lý. Một sinh viên tốt nghiệp đại học ra trường, vào làm
việc ở các cơ quan Nhà nước với mức lương khởi điểm chỉ trên 1 triệu
đồng một tháng thì không thể đảm bảo được cuộc sống. Do vậy hiện
tượng chảy máu chất xám đang ngày càng trầm trọng. Những lao động
được đào tạo bài bản trong nước thường tìm việc ở các công ty nước
ngoài; nhiều du học sinh Việt Nam sau khi học xong cũng thường tìm
cách ở lại nước ngoài làm việc. Trong cuộc cạnh tranh thu hút nguồn
nhân lực chất lượng cao như hiện nay, lợi thế thường nghiêng vào các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, do chính sách lương bổng và đãi
ngộ thường cao hơn khu vực trong nước. Mặt khác, lao động chất xám ở
các công ty nước ngoài thường được giao công việc, trách nhiệm và
quyền lợi rõ ràng, được quyền quyết định trong phạm vi tương đối rộng,
qua đó có thể phát huy được tính năng động, sáng tạo trong công việc và
về mặt tâm lý họ cảm thấy được tôn trọng nhiều hơn. Trong khi đó làm
việc ở các doanh nghiệp Việt Nam, người lao động thường được lãnh đạo
theo kiểu gia đình trị. Có thứ bậc trên dưới theo mối quan hệ tình cảm
hoặc theo tuổi tác chứ ít căn cứ vào năng lực thực sự của mỗi người, vì
vậy khó phát huy khả năng và tâm lý cũng không thoải mái.
Đó là những nguyên nhân cơ bản dẫn tới việc thiếu hụt lao động chất
lượng cao ở các doanh nghiệp, cơ quan đoàn thể của Việt Nam trong bối
cảnh hội nhập hiện nay. Đây là một cản trở lớn trong tiến trình phát triển
kinh tế xã hội đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của
chúng ta, nhất là trong bối cảnh Việt Nam đã là thành viên chính thức của
WTO để tháo gỡ khó khăn này không phải là việc dễ và một sớm một
13
- chiều có thể giải quyết được mà cần sự phôi hợp liên thông của rất nhiều
các ban ngành.
Tuy nhiên trong những năm qua với nhiều chương trình quan tâm và
phát triển giáo dục,đặc biệt với xu thế xã hội và nhận thức của người dân
số lượng sinh viên các trường cao đẳn đại học cũng tăng lên qua các năm,
điều này đã bổ sung một lực lượng lớn lao động có trình độ cho xã hội
trong những năm qua, nhưng nhìn chung lực lượng lao động này khi mới
ra trường đều chưa đáp ứng được theo yêu cầu của các doanh nghiệp.
Bảng số liệu số sinh viên đại học,cao đẳng qua các năm;
Năm học Cao đẳng Đại học
1995-1996 58.292 326.103
1996-1997 96.129 448.627
1997-1998 127.027 552.360
1998-1999 157.710 601.925
1999-2000 173.912 670.680
2000-2001 186.254 689.338
2001-2003 210.556 712.620
2003-2004 213.933 746.759
2004-2005 231.107 801.333
2005-2006 273.463 1.046.291
2006-2007 299.294 1.087.813
Nguồn số liệu: Bộ Giáo dục và đào tạo, Thống kê Giáo dục và Đào tạo
các năm học
14
- cao đẳng
1200000
đại học
1000000
800000
600000
400000
200000
0
1995- 1996- 1997- 1998- 1999- 2000- 2001- 2003- 2004- 2005- 2006-
1996 1997 1998 1999 2000 2001 2003 2004 2005 2006 2007
3.3 Thực trạng giáo dục cộng đồng
Trung tâm học tập cộng đồng (TTHTCĐ) là loại thiết chế giáo dục
thường xuyên được tổ chức trên địa bàn xã, phường và thị trấn, đặc biệt
hữu ích với những lao động không có điều kiện tới trường chính quy;
những người nghèo rất ít có cơ hội học tập. Tuy nhiên, hoạt động của
TTHTCĐ hiện nay tại TPHCM, nơi sớm có mô hình độc đáo này cũng
mới phát triển về mặt số lượng….
Thiếu sự quan tâm
15
- Theo thống kê, hiện tại TPHCM có tổng cộng 250 TTHTCĐ trên tổng
số 322 phường, xã. Ông Nguyễn Tiến Đạt, Phó Giám đốc Sở GD-ĐT
TPHCM, cho biết: “Tỷ trọng phủ sóng TTHTCĐ chỉ đạt 79%, trong k hi
đó mục tiêu năm 2010 phải phủ kín 322 phường xã của TP”.
Một lớp học về kỹ năng làm cha mẹ của phụ
huynh.
Ông Nguyễn Văn Hanh, Chủ tịch Hội Khuyến học TP, nhận định:
“Thực tế toàn thành phố mới chỉ xây dựng được 250 TTHTCĐ trên tổng
số 322 phường xã, thị trấn. Số trung tâm có cơ sở vật chất riêng chỉ chiếm
1/10, nội dung hoạt động còn nghèo nàn, hiệu quả chưa cao. Một số trung
tâm chỉ thành lập cho có rồi bỏ đó vì không có người đến sinh hoạt”.
TS Hồ Thiệu Hùng, Viện Nghiên cứu giáo dục TP, phân tích: Hoạt
động của TTHTCĐ nằm trong hoạt động giáo dục thường xuyên
(GDTX), nhưng hiện nay chưa có mục chi ngân sách riêng cho GDTX
(sau khi chi ngân sách cho THPT, phần dư ra mới chi cho GDTX). Kinh
phí ban đầu được chi cho TTHTCĐ (từ năm 2003) là 30 triệu đồng/năm,
hỗ trợ 2 triệu đồng/năm kinh phí hoạt động thường xuyên của trung tâm.
Với mức “đầu tư” như thế, TTHTCĐ khó hoạt động hiệu quả và đem đến
cho người dân các cơ hội học tập phong phú.
Thiếu cơ hội học tập
Hiện nay, TPHCM có hàng ngàn trường học và trung tâm văn hóa ngoài
giờ với nhiều phương tiện hiện đại, nội dung học tập phong phú, nhưng
trên thực tế cơ hội học tập cho người dân rất ít, đặc biệt là 3/4 dân số
trưởng thành. Theo khảo sát của Hội Khuyến học TPHCM trong đề tài
“Xây dựng xã hội học tập tại TPHCM”, cứ 100 người có 35 người không
được học; 100 người trong tuổi lao động có đến 40 người mù chữ. Đặc
16
- biệt, nhiều người 35 tuổi, vẫn còn trong diện lao động lại nằm ngoài diện
xóa mù chữ. TS Hồ Thiệu Hùng nêu lên một thực trạng gây trở ngại trong
việc xây dựng xã hội học tập tại TPHCM là trường phổ thông lại “đóng
cổng” với người lớn tuổi.
TS Hùng nói: “Trường phổ thông có khả năng chứa hàng chục lớp học,
hàng trăm ngàn chỗ học nhưng chỉ mở cửa ban ngày, làm việc ban ngày,
còn đêm đến dành cho các trung tâm văn hóa ngoài giờ để có thêm khoản
thu bù thu chi. Người học phải bỏ chi phí mới được đi học. Những lao
động không có điều kiện tới trường chính quy; những người nghèo,
những người trong các nhóm yếu thế rất ít có cơ hội học tập. Tìm đến
TTHTCĐ thì cơ sở vật chất thiếu thốn, chương trình học tập không có.
Trước đây, năm 2004, TPHCM triển khai dự án thí điểm chuyển đổi
trường học thành TTHTCĐ và huyện Cần Giờ đã chọn 2 trường THPT
Bình Khánh và Cần Thạnh làm thí điểm. Trường Bình Khánh nằm ngay
bến phà, tức đầu huyện; còn Trường Cần Thạnh nằm phía cuối huyện.
Hai đầu mối này sẽ dễ dàng lan tỏa đi những trường và xã khác thuộc
huyện. Mô hình “2 trong 1” này không những không làm thay đổi hệ
thống trường lớp hiện có, mà còn tận dụng mọi điều kiện hiện có để phục
vụ các đối tượng đông hơn với những nhu cầu học tập đa dạng hơn. Việc
kết hợp này mang rất nhiều ý nghĩa, làm cho học sinh chính quy thấy
được đối tượng học tập còn là những người xung quanh mình, là cha mẹ,
anh em..., từ đó các em có động lực học tập nhiều hơn. Đáng tiếc mô hình
này chưa được nhân rộng ở nhiều địa phương.
Hướng đến xã hội học tập: không dễ
Hiện TPHCM đã hoàn thành phổ cập giáo dục. Tuy nhiên, theo đánh
giá của Hội Khuyến học TP trong đề tài “Xây dựng xã hội học tập tại
TPHCM, thực trạng-mô hình-giải pháp”; xây dựng xã hội học tập
(XHHT) khó gấp nhiều lần phổ cập giáo dục. Theo TS Hồ Thiệu Hùng:
“Xây dựng một XHHT giống như chúng ta vươn tới đỉnh Everest, còn
việc hoàn thành phổ cập giáo dục chỉ mới ở chân đỉnh mà thôi”.
Từ thực trạng của việc xây dựng XHHT hiện nay tại TPHCM, nhóm tác
giả nghiên cứu đề tài khoa học “Xây dựng xã hội học tập tại TPHCM”
của Hội Khuyến học TP đã đưa ra giải pháp: TPHCM cần tổ chức bộ máy
điều hành xây dựng XHHT từ cấp ủy đến cấp ngành, mà trong đó vai trò
của ban chỉ đạo xây dựng XHHT đóng vai trò “nhạc trưởng”. Đặc biệt,
kiến nghị đến Thành ủy, UBND TPHCM về việc tăng cường đầu tư ngân
sách cho sự phát triển của TTGDTX, dạy nghề, TTHTCĐ ở các phường,
xã, thị trấn và hỗ trợ kinh phí cho Hội khuyến học cấp phường xã.
Trước nhu cầu phát triển hướng đến xã hội hóa học tập, trong năm học
2010 - 2011, Bộ GD-ĐT sẽ tổ chức thí điểm “Lễ hội học tập suốt đờ i” và
“Thành phố học tập” nhằm tiếp tục phát huy kết hợp giữa văn hóa - học
nghề, thu hút và tạo điều kiện cho mọi người đều có thể tham gia mô hình
xã hội hóa giáo dục. Từ đó rút ngắn khoảng cách phân hóa kiến thức
17
- trong xã hội. Đây là một trong những giải pháp cấp thiết thực hiện Chỉ thị
11 (ngày 30-4-2007) của Chính phủ và đề án “Xây dựng xã hội học tập
giai đoạn 2011-2015” do Bộ GD-ĐT triển khai. Mục đích, mô hình sẽ
được phát triển nhân rộng tới các tỉnh thành trên toàn quốc, hướng tới
một XHHT toàn diện, góp phần thúc đẩy công cuộc xóa đói giảm
nghèo, phát triển kinh tế chung của đất nước.
3.4.Cơ hội và thách thức của vấn đề giáo dục nguồn nhân lực Việt
Nam đối với sự phát triển
3.4.1.Cơ hội
Sau khi gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới, với những thành tựu
ban đầu đạt được, Việt Nam đã chứng tỏ được khả năng của mình trong
việc tận dụng các thời cơ để phát triển một cách năng động. Tuy nhiên,
bên cạnh những kết quả đó, Việt Nam đang phải tiếp tục vượt qua nhiều
thách thức ngày càng trở nên gay gắt mà một trong số đó là phải xây
dựng nguồn nhân lực đáp ứng các yêu cầu phát triển của đất nước đang
trong quá trình đổi mới và hội nhập quốc tế sâu rộng hơn.
Sau hơn 20 năm tiến hành đổi mới và từng bước hội nhập quốc tế, cùng
với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế - xã hội, nguồn nhân lực Việt
Nam đã có sự phát triển nhanh cả về số lượng và chất lượng.
Về số lượng, Việt Nam hiện có một đội ngũ nhân lực khá dồi dào so với
nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. Đến hết năm 2007, cả nước có
trên 44 triệu lao động trên tổng số 85 triệu dân, đứng thứ 2 trong khu vực
và đứng thứ 13 trên thế giới về quy mô dân số. Sức trẻ là đặc điểm nổi
trội của tiềm năng nguồn nhân lực Việt Nam. Nước ta là một trong số ít
quốc gia trong khu vực có tỷ lệ về cơ cấu độ tuổi của dân số và lao động
khá lý tưởng (trên 50% số dân trong độ tuổi từ 15 - 60 (độ tuổi lao động)
và 45% trong tổng số lao động có độ tuổi dưới 54). Đây là yếu tố rất
thuận lợi để phát triển kinh tế - xã hội.
Về chất lượng, Việt Nam là một trong số ít các quốc gia ở khu vực có tỷ
lệ người lớn biết chữ và trẻ em trong độ tuổi đến trường khá cao. Sau hơn
20 năm đổi mới, lực lượng lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật ở
nước ta đã tăng từ 7,6% (năm 1986) lên gần 30% (năm 2007). So với
nhiều nước trong khu vực và trên thế giới, người lao động Việt Nam nhìn
chung có những phẩm chất vượt trội như: thông minh, cần cù, chịu khó,
khả năng nắm bắt các kỹ năng lao động, đặc biệt là kỹ năng sử dụng các
công nghệ hiện đại tương đối nhanh. Đây là lợi thế cạnh tranh quan trọng
của nguồn nhân lực nước nhà trong quá trình hội nhập và tham gia thị
trường lao động quốc tế.
18
- 3.4.2.Thách thức
Tuy nhiên, với yêu cầu của quá trình phát triển nền kinh tế đất nước
trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng thì chất lượng nguồn
nhân lực nước ta hiện nay còn nhiều bất cập và hạn chế. Mặc dù các chỉ
số thống kê hằng năm về giáo dục ở nước ta khá cao (hơn 90% dân số
biết chữ, nhiều địa phương đã thực hiện xong chương trình phổ cập giáo
dục cấp tiểu học cơ sở, trung học cơ sở v.v..), tuy nhiên, trên thực tế, chất
lượng nền giáo dục ở nước ta còn đạt ở mức thấp. Báo cáo phát triển thế
giới năm 2006 của Ngân hàng thế giới (WB) đưa ra nhận định: Việt Nam
chỉ có 2% dân số được học từ 13 năm trở lên, tụt hậu khá xa so với các
nước trong khu vực. Và, Việt Nam xếp hạng chót trong khu vực với tỷ lệ
10% số người trong độ tuổi 20 - 24 học đại học. Tỷ lệ này ở Trung Quốc
là 15%, Thái Lan là 41% và Hàn Quốc là 89%
Sau hơn 30 năm tiến hành công nghiệp hóa, vẫn còn khoảng 70% lao
động cả nước hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp. Tỷ lệ số học sinh, số
trường các loại, số trường đại học, tỷ lệ tốt nghiệp đại học, tỷ lệ học vị
tiến sĩ trên triệu dân của nước ta đều cao hơn so với tất cả các nước có
mức thu nhập bình quân theo đầu người tương đương với Thái Lan.
Nhưng chất lượng lại là vấn đề đáng quan tâm. Điều tra của Bộ Giáo dục
và Đào tạo năm 2006 cho thấy cả nước có tới 63% số sinh viên ra trường
không có việc làm, 37% số còn lại có việc làm thì hầu hết phải đào tạo lại
và có nhiều người không làm đúng nghề mình đã học, trong khi đó nhiều
doanh nghiệp, kể cả những doanh nghiệp có FDI và nhiều dự án kinh tế
quan trọng khác rất thiếu nguồn lực chuyên nghiệp. Khoảng 2/3 số người
có học vị tiến sĩ trong cả nước không làm khoa học mà đang làm công tác
quản lý; số bài báo khoa học được công bố hằng năm chỉ bằng khoảng
1/4 của Thái Lan và bằng 0,00043% của thế giới, mặc dù số người nhận
bằng tiến sỹ hằng năm của ta thường nhiều hơn của Thái Lan, có năm cao
gần gấp đôi. Theo điều tra của Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF) năm
2005: nguồn nhân lực Việt Nam về chất lượng được xếp hạng 53/59 quốc
gia được khảo sát, song mất cân đối nghiêm trọng. Ở Việt Nam cứ 1 cán
bộ tốt nghiệp đại học có 1,16 cán bộ tốt nghiệp trung cấp và 0,92 công
nhân kỹ thuật, trong khi đó tỷ lệ này của thế giới là 1, 4 và 10. Nước ta
hiện nay cứ 1 vạn dân có 181 sinh viên đại học, trong khi đó của thế giới
là 100, của Trung Quốc là 140 mặc dù mức thu nhập quốc dân tính theo
đầu người của Trung Quốc khoảng gấp đôi của nước ta. ở một hướng
điều tra khác cũng cho thấy, mức độ sẵn sàng tham gia “sân chơi” thế
19
- giới của người lao động nước ta cũng còn hạn chế. Kết quả cuộc thăm dò
ý kiến trên Báo điện tử VnExpress mới đây cho thấy, chỉ 8,6% độc giả trả
lời rằng họ hiểu rất rõ về Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) và tiến
trình gia nhập của Việt Nam, 28,5% nói hiểu tương đối, 41,2% hiểu lơ
mơ, số còn lại không hiểu và thậm chí không quan tâm tới vấn đề này.
Những hạn chế trên đây xuất phát từ nhiều nguyên nhân, song cơ bản là
cho đến nay nền kinh tế nước ta vẫn là nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu,
thu nhập bình quân đầu người chưa vượt quá 925 USD (chuẩn mới về thu
nhập của quốc tế được coi là quốc gia vẫn còn ở mức thu nhập thấp).
Tính đến hết năm 2007, tỷ trọng giá trị sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp
vẫn còn cao (29,6%), số lao động trong các ngành nghề nông, lâm, ngư
nghiệp vẫn còn lớn (56,8%), tỷ lệ lao động xã hội chưa qua đào tạo chiếm
một tỷ lệ đa số. Những chỉ số này cho thấy đây là một trong những
nguyên nhân cơ bản đang tạo ra sự hạn chế trong sự phát triển nguồn
nhân lực ở nước ta hiện nay. Một nguyên nhân khác là thực trạng quy
hoạch và phát triển nguồn nhân lực nước ta những năm qua còn quá nhiều
bất cập. Cho đến nay chúng ta chưa có chiến lược tổng thể trong việc xây
dựng, phát triển và sử dụng nguồn nhân lực cho quá trình phát triển đất
nước giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa ít nhất là đến năm 2020.
Việc quy hoạch, phát triển và sử dụng nguồn nhân lực giữa các ngành,
vùng và địa phương trong cả nước cũng còn nhiều chồng chéo và thiếu
các mục tiêu cụ thể. Điều đó dẫn đến tình trạng khá phổ biến hiện nay là
vừa “thừa” vừa “thiếu” nhân lực trong các ngành, vùng, địa phương. Một
nguyên nhân nữa thường được nhắc đến là sự lạc hậu về nội dung và
phương pháp trong việc đào tạo nguồn nhân lực ở Việt Nam hiện nay.
Trong một thời gian dài, với nhiều lý do khác nhau, nền giáo dục đào tạo
của chúng ta chưa xác định được mục tiêu rõ ràng, chưa được coi là điểm
đột phá để đưa đất nước phát triển như nhiều quốc gia trong khu vực và
trên thế giới có hoàn cảnh như nước ta đã từng làm. Phần lớn nội dung và
chương trình giáo dục các cấp hiện nay ở nước ta đều được biên soạn
hoặc còn chịu ảnh hưởng bởi nội dung, chương trình giáo dục của các
nước xã hội chủ nghĩa, nhất là của Liên Xô trước đây. Một thời gian dài,
những nội dung và chương trình giáo dục này khá phù hợp với nền giáo
dục của nước ta và đã mang lại những thành tựu hết sức quan trọng.
Song, tự nó cũng hàm chứa rất nhiều hạn chế, bất cập. Đặc biệt, trong quá
trình đổi mới và hội nhập quốc tế hiện nay thì những hạn chế, bất cập đó
đã và đang là một trở ngại lớn đòi hỏi cần có sự cải cách và đổi mới cho
phù hợp. Phương pháp giáo dục cũng còn nhiều bất cập. Các phương
pháp dạy và học của chúng ta hiện nay thường tạo ra sự thụ động đối với
người học, như nặng về lý thuyết, nhẹ về kỹ năng thực hành. Do đó, chất
lượng nguồn nhân lực sau đào tạo thường bất cập. Người học thường ít
vận dụng được những gì sau khi học, hoặc muốn làm việc được thì người
20
nguon tai.lieu . vn