Xem mẫu

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN SAIGON UNIVERSITY TẠP CHÍ KHOA HỌC SCIENTIFIC JOURNAL ĐẠI HỌC SÀI GÒN OF SAIGON UNIVERSITY Số 79 (01/2022) No. 79 (01/2022) Email: tcdhsg@sgu.edu.vn ; Website: http://sj.sgu.edu.vn/ SỰ PHÁT TRIỂN CỦA TẦNG LỚP ĐỊA CHỦ Ở NAM KỲ TRONG 30 NĂM ĐẦU THẾ KỶ XX The development of landlord class in Cochinchina in the first 30 years of the 20th century PGS.TS. Trần Nam Tiến(1), TS. Nguyễn Thị Ánh Nguyệt(2) Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – ĐHQG TP.HCM TÓM TẮT Giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX, bối cảnh lịch sử của Việt Nam nói chung và Nam Kỳ nói riêng có nhiều biến động mạnh mẽ. Đối với vùng đất Nam Kỳ, đây là giai đoạn thực dân Pháp đẩy mạnh thiết lập chế độ cai trị thuộc địa. Dưới tác động của chế độ cai trị của thực dân Pháp, lực lượng địa chủ Nam Kỳ cũng bị phân hóa rõ rệt. Dưới thời Pháp thuộc, tầng lớp địa chủ ở Nam Kỳ ngày càng lớn mạnh và giữ địa vị chính trị cao trong chính quyền của thực dân Pháp. Bài viết góp phần nhận diện sự phát triển của tầng lớp địa chủ ở Nam Kỳ thời Pháp thuộc, cụ thể trong 30 năm đầu thế kỷ XX. Từ khóa: địa chủ, Nam Kỳ, thực dân Pháp ABSTRACT During the second half of the 19th century and the beginning of the 20th century, the historical context of Vietnam and Cochinchina had many drastic changes. It was the period when the French Colonial Empire stepped up to establish colonial rule in this region. Under the French colonial rule, Cochinchina landlords had many significant changes in nature. Besides that, the class of landlords in Cochinchina grew stronger and held the highest political position in the French colonial government. The paper aims to identify the development of the landlord class in Cochinchina during the French colonial period, specifically in the first 30 years of the twentieth century. Keywords: landlord, Cochinchina, French colonialists 1. Đặt vấn đề Địa chủ Nam Kỳ vốn đã có sở hữu ruộng Sau khi chiếm được Nam Kỳ (1867), đất lớn, dưới chính sách của chính quyền thực dân Pháp bắt tay vào xây dựng chế độ Pháp, số lượng địa chủ càng tăng nhanh và cai trị ở vùng đất này. Những chính sách quyền sở hữu cũng theo đó tăng lên gấp của Pháp đã có tác động lớn đến sự phát nhiều lần. Vị thế và ảnh hưởng của tầng triển của tầng lớp địa chủ ở Nam Kỳ, cả về lớp địa chủ ở Nam Kỳ đối với chính trị, số lượng lẫn chất lượng. Bước vào đầu thế kinh tế và xã hội cũng tăng lên. Trên cơ sở kỷ XX, tầng lớp địa chủ Nam Kỳ trở thành đó, bài viết hướng đến phục dựng lại sự một lực lượng chính trị với diện mạo và phát triển của tầng lớp địa chủ ở Nam Kỳ đặc trưng riêng so với các giai đoạn trước. trong ba thập niên đầu thế kỷ XX. Email: trannamtienfir@hcmussh.edu.vn 3
  2. SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 79 (01/2022) 2. Những chính sách của chính khác, đồng thời tạo cơ hội để mua chuộc quyền thực dân Pháp tác động đến lực tay sai bản xứ. Cụ thể, chính quyền Pháp ở lượng địa chủ ở Nam Kỳ từ nửa sau thế Nam Kỳ đã “ban tặng” ruộng đất cho kỷ XIX - đầu thế kỷ XX những người cộng tác đắc lực cho quá trình Sau khi chiếm được toàn bộ Nam Kỳ xâm lược và bình định của Pháp. Có hàng (1867), thực dân Pháp đẩy mạnh quá trình chục sĩ quan, công chức Pháp được cấp bóc lột thuộc địa vừa chiếm được nhằm bù phát ruộng đất với diện tích lên đến hàng đắp cho chi phí chiến tranh và kế hoạch mở ngàn hecta. Số lượng địa chủ người Việt rộng đánh chiếm ra Bắc Kỳ. Từ năm 1897, thân Pháp và địa chủ gốc người Hoa có sở thực dân Pháp tiến hành công cuộc khai hữu lớn về ruộng đất [ở Nam Kỳ] cũng thác thuộc địa trên phạm vi toàn Đông tăng lên đáng kể (Lê Hữu Phước, 2013, p. Dương, trong đó chú trọng ở vùng đất Nam 141). Kỳ lúc này là thuộc địa của Pháp. Nam Kỳ Sau khi thiết lập được hệ thống cai trị là vùng đất phát triển nông nghiệp trù phú ở Nam Kỳ, các Thống đốc Nam Kỳ đã ban vào loại bậc nhất của Việt Nam lúc bấy hành nhiều văn bản, mở cửa cho giới tư giờ. Khi thực dân Pháp liên minh với Tây bản chính quốc và tay sai bản xứ, chủ yếu Ban Nha nổ súng xâm lược Nam Kỳ là địa chủ ồ ạt xin cấp quyền trưng khẩn (1859), phần lớn số đất công điền đã bị đất ruộng miền Nam. Thống đốc Nam Kỳ tầng lớp cường hào làng xã chiếm đoạt làm Charles Le Myre de Vilers đã ban hành các tư điền một cách bất hợp pháp. Bên cạnh Nghị định 29/10/1881 và 22/8/1882 quy đó, tình hình chiến tranh đã khiến đại đa số định phần đất nào không ghi vào địa bộ có nhân dân Nam Kỳ đều tham gia kháng sở hữu chủ rõ rệt thì phải bị sung vào công chiến, hoặc sơ tán... vì thế đất đai của họ thổ và Thống đốc có quyền cấp phát giấy canh tác trước đây trở thành đất “vô chủ”. phép trưng khẩn. Thống đốc Nam Kỳ Thực tế này tạo điều kiện cho tầng lớp địa Gustave Guillaume Sandret ban hành Nghị chủ mở rộng thêm đất đai, phát triển ảnh định 18/8/1896, bãi bỏ giới hạn tối đa 100 hưởng của mình gắn với cuộc chiến tranh mẫu cho sở hữu tư nhân, qua đó phá vỡ thế xâm lược của thực dân Pháp. quân bình tài sản của xã hội cổ truyền Việt Tháng 3/1863, thực dân Pháp tiến Nam, đưa nền kinh tế Nam Kỳ phát triển hành tịch thu ruộng đất của những người theo hướng tư bản hóa. Phần lớn số ruộng tham gia phong trào kháng Pháp ở Nam đất do thực dân Pháp chiếm đoạt được của Kỳ. Tiếp theo đó, thực dân Pháp tiếp tục ra nông dân và ruộng khẩn hoang trong giai các nghị định ngày 16/5/1863 và đoạn đầu Pháp cai trị Nam Kỳ tập trung 22/6/1863, điều chỉnh tình trạng sở hữu vào tay các viên chức thực dân, tư bản quyền ruộng đất, nhằm mục đích tịch thu Pháp và địa chủ thân Pháp (Trần Thị Thu cho chính quyền quân sự tất cả những diện Lương, 2004, pp. 129-137). tích không phải tài sản của dân bản xứ hay Từ năm 1913, chính quyền thực dân không bị dân bản xứ chiếm hữu. Mục đích Pháp ở Đông Dương chủ trương bán đất chính trị của các nghị định này là để vừa hoang dưới hình thức đấu giá. Theo đó, tư trừng phạt những phần tử chống đối bỏ nhân có thể mua không giới hạn số diện làng đi theo kháng chiến hoặc những người tích còn hoang hóa, miễn là có khả năng bất hợp tác với Pháp bỏ xứ đi về vùng khai thác sau đó nộp thuế cho chính quyền. 4
  3. TRẦN NAM TIẾN - NGUYỄN THỊ ÁNH NGUYỆT TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN Bên cạnh đó, chính quyền thực dân còn đất do chính quyền thuộc địa đặt ra. Nó thể cho quốc hữu hóa đất hoang và thực hiện hiện tùy theo từng vùng bằng việc phân chính sách cho người dân được tự do khai chia bất bình đẳng các sở hữu” và tại Nam khẩn đất “vô chủ” nhằm khuyến khích Kỳ, “phần lớn các cơ sở khai thác nông khẩn hoang. Trên thực tế, người nông dân nghiệp ra đời sau khi người Pháp chinh Nam Kỳ gặp nhiều khó khăn do thiếu vốn phục… tại đây có những điền trang lớn và công cụ sản xuất, lại bị chèn ép bởi lực thực sự” (J. P. Aumiphin, 1994, pp. 183- lượng địa chủ kết hợp với chính quyền 185). thực dân, do đó phần lớn diện tích đất khẩn Ngày 27/8/1904, Toàn quyền Đông hoang của nông dân bị bán, sang nhượng Dương Paul Beau ban hành Nghị định can hoặc gán nợ cho địa chủ và tư bản người thiệp trực tiếp vào việc cai trị làng xã ở Pháp. Thời kỳ này, một số điền chủ người Việt Nam nói chung và Nam Kỳ nói riêng Việt cũng nổi lên trong việc mua bán, làm (Dương Kinh Quốc, 1999, pp. 287-289). giàu nhanh chóng từ việc mua bán, “sang Nghị định năm 1904 của Toàn quyền Beau nhượng” đất. Bởi vậy, tỷ lệ ruộng công ở về “cải lương hành chính” của thực dân Nam Kỳ còn lại rất ít. Đến năm 1930, tính Pháp nhằm củng cố hệ thống thiết chế quản chung toàn Nam Kỳ tỉ lệ ruộng đất công lý nông thôn Nam Kỳ, phục vụ cho công chỉ còn 3,7%, so với 19% ở Bắc Kỳ và cuộc bình định của Pháp ở Nam Kỳ nói 25% ở Trung Kỳ (Nguyễn Văn Khánh, riêng và Việt Nam nói chung. Trong đó, 1999, p. 84). Theo Pierre Gourou thì số sở đội ngũ đại địa chủ Nam Kỳ được thực dân hữu nhỏ chiếm 12,5% diện tích trong khi Pháp sử dụng như một lực lượng tay sai số sở hữu lớn chiếm đến 45% diện tích đất đắc lực. Để tạo sự gắn bó chặt chẽ về mặt khai phá (Pierre Gourou, 1940, p. 139). quyền lợi của lực lượng địa chủ Nam Kỳ Nhằm hợp thức hóa ruộng đất của tầng với Pháp, chính quyền thực dân Pháp đã lớp địa chủ, chính quyền thực dân Pháp ở ban hành Sắc luật 21/7/1925 với vấn đề sở Nam Kỳ đã tiến hành tổ chức hệ thống cơ hữu ruộng đất của giai cấp địa chủ ở Nam quan địa chính. Năm 1869, Pháp bắt đầu Kỳ, qua đó củng cố quyền sở hữu và thế thành lập cơ quan địa chính và tiến hành đo lực của tầng lớp địa chủ ở nông thôn Nam đạc, phân định đất đai ở Nam Kỳ. Việc đo Kỳ (Phạm Quang Trung, 1988, pp. 61-67). đạc, phân định ranh giới, thống nhất đơn vị Đến ngày 30/10/1927, chính quyền thực đo đạc mới (hecta), có bản đồ rải thửa kèm dân Pháp đã ban hành một nghị định mới theo, đã giúp việc quản lý ruộng đất chặt về “cải lương hương chính” ở Nam Kỳ chẽ hơn, hạn chế được tình trạng ẩn lậu nhằm tăng cường những thành phần xã hội ruộng đất ngoài sổ sách, làm cho tình hình có quan hệ gắn bó với chế độ thuộc địa để và cơ cấu sở hữu ruộng đất ở Nam Kỳ có giữ những chức vụ quan trọng trong hệ những chuyển biến quan trọng. Từ đó, một thống chính quyền ở các địa phương (Bùi bộ phận sở hữu lớn về ruộng đất của một Xuân Đức, 2009, pp. 24-31). nhóm địa chủ tay sai bản xứ và các thực Có thể nói, thông qua các cuộc cải dân người Pháp hình thành và ngày càng cách “cải lương hương chính” kể trên, chiếm ưu thế (Viện Sử học, 2003, p. 310). chính quyền thực dân Pháp thực hiện một ý Học giả J.P. Aumiphin khẳng định: “Sự tập đồ có tính chất chiến lược: công khai trung đất đai là kết quả của chế độ ruộng hóa việc đưa giai cấp địa chủ phong kiến 5
  4. SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 79 (01/2022) đã được tân học hóa lên cương vị thống trị chủ của thực dân Pháp; và 4) Một bộ phận độc tôn ở khắp miền nông thôn Việt Nam, là các nhà tư bản Pháp kinh doanh trong đặc biệt là ở Nam Kỳ nhằm thay thế cho lĩnh vực nông nghiệp, tập trung ruộng đất tầng lớp nho sĩ địa chủ hóa trước kia. Bên để lập đồn điền trồng cây công nghiệp, chủ cạnh số thành viên có thành phần bản thân yếu ở khu vực Đông Nam Kỳ. là địa chủ còn có những thành viên có 3. Sự phát triển của tầng lớp địa chủ thành phần xuất thân từng là địa chủ hoặc Nam Kỳ trong ba thập niên đầu thế kỷ thuộc các gia đình giàu có, có thế lực ở XX thành thị (Dương Kinh Quốc, 1988, pp. Mục đích của thực dân Pháp là biến 205-209). Như vậy, chính quyền thực dân Việt Nam trở thành thuộc địa khai thác của đã lợi dụng và kết hợp với các hình thức tổ Pháp, cung cấp nguyên liệu cho chính quốc chức phi chính thống, đặc biệt là vai trò mà chủ yếu là sản xuất lúa gạo và khai thác của hương ước vào việc sắp xếp, tổ chức, mỏ. Để thực hiện mục đích đó, chính quản lý nông thôn Nam Kỳ. Thông qua đó, quyền thực dân Pháp đã tiến hành một loạt sức mạnh của chính quyền các cấp được các chính sách nhằm tập trung ruộng đất xác lập và củng cố ở các làng xã tại Nam diện tích lớn để tăng năng suất sản xuất. Kỳ. Chính quyền thực dân cố tình tạo ra Đồng thời, âm thầm khuyến khích, giúp đỡ một môi trường và phạm vi hoạt động có tầng lớp đại địa chủ nhanh chóng phát triển vẻ tự do dân chủ ở làng xã, đồng thời vừa để phục vụ cả mục đích chính trị lẫn mục có những quy chế ràng buộc và chỉ đạo đích kinh tế cho chính quốc Pháp. Ngay chặt chẽ bộ máy chính quyền cấp xã khi vừa chiếm Nam Kỳ, thực dân Pháp đã (Nguyễn Văn Khánh, 1999, pp. 130-131). tiến hành chia đất công của nhà Nguyễn để Đến đây, lực lượng địa chủ Nam Kỳ đã bán cho tư nhân với giá rẻ. Đỉnh điểm là khẳng định được vị thế của mình, là lực năm 1900, chính quyền thực dân đã công lượng cộng tác đắc lực với thực dân Pháp bố phủ nhận quyền sở hữu ruộng đất trong trong việc cai trị vùng đất Nam Kỳ. luật Việt Nam ở Nam Kỳ để tiện bề lũng Dưới chế độ cai trị của thực dân Pháp, đoạn. tầng lớp địa chủ Nam Kỳ đã có sự thay đổi Hơn 20 năm sau, sắc lệnh về sở hữu về chất và phân hóa sâu sắc. Ngoài lực đồn điền mới được ban hành, theo đó lượng địa chủ truyền thống đã hình thành “Toàn quyền Đông Dương có quyền cấp từ thời kỳ khai phá qua thời kỳ nhà không cho một cá nhân nào đó từ 1000 ha - Nguyễn, giai cấp địa chủ ở Nam Kỳ nửa 4000 ha, các thống sứ có quyền cấp dưới đầu thế kỷ XX đã phát triển đa dạng từ các 1000 ha. Bằng cách đó, chúng đã tiến hành nguồn sau: 1) Những thành phần làm việc cướp đoạt ruộng đất của người dân và diện cho chính quyền thực dân Pháp lập nhiều tích ngày càng tăng dần” (Phạm Cao công trạng, được tạo điều kiện để chiếm Dương, 1967). Chính sách phân phối ruộng hữu ruộng đất trở thành địa chủ mới; 2) đất cho lực lượng địa chủ tay sai của Pháp Một bộ phận các tư sản dân tộc bị chèn ép dẫn đến sự phân hóa mạnh mẽ trong xã hội phải quay trở lại quê nhà, đầu tư vào việc Nam Kỳ thành hai tầng lớp rất khác biệt về kinh doanh ruộng đất, bóc lột tá điền bằng quyền lợi: thiểu số đại điền chủ nắm trong địa tô, và sau trở thành địa chủ; 3) Một tay diện tích đất đai rộng lớn, và đại đa số nhóm địa chủ ra đời từ chính sách đại điền tá điền không có đất cày. Chính những 6
  5. TRẦN NAM TIẾN - NGUYỄN THỊ ÁNH NGUYỆT TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN chính sách này và chế độ sở hữu tư sản về Bước vào đầu thế kỷ XX, trên bình ruộng đất được du nhập vào, tầng lớp địa diện cả nước, lực lượng địa chủ chiếm chủ Nam kỳ tăng lên đáng kể về cả số khoảng 7% dân số nông thôn nhưng nắm lượng. trong tay 50% diện tích canh tác. Theo Lực lượng đại địa chủ ở Nam Kỳ - là Nguyễn Văn Khánh thì đến những năm những địa chủ đã tận dụng thành công trước Chiến tranh thế giới thứ hai, trên toàn những chính sách, nghị định của chính lãnh thổ Việt Nam có khoảng 6.650 đại địa quyền thực dân Pháp để thu gom ruộng đất chủ có sở hữu trên 50 ha ruộng đất, trong còn hoang, vô chủ hoặc của các tá điền, địa đó Nam Kỳ có 6.300, Bắc Kỳ có 250 và chủ yếu thế hơn, nhanh chóng trở thành Trung Kỳ có 100 người (Nguyễn Văn những đại điền chủ có ruộng đất “cò bay Khánh, 2019). So với địa chủ ở Bắc Kỳ và thẳng cánh”. Với sở hữu lớn về ruộng đất, Trung Kỳ, đại địa chủ ở Nam Kỳ sở hữu nhiều địa chủ ở Nam Kỳ theo dòng chảy ruộng đất với diện tích rất lớn theo kiểu “cò của chủ nghĩa tư bản do người Pháp đưa bay thẳng cánh”. Theo thống kê của người vào Việt Nam đã mở rộng hoạt động sang Pháp, đến trước năm 1930, tỉnh Châu Ðốc các ngành công nghiệp, thủ công nghiệp, sở hữu ruộng đất lớn từ 50 ha đến 100 ha một số địa chủ đã đầu tư vào lĩnh vực tài có 102 điền chủ; từ 100 ha đến 500 ha có chính - ngân hàng và có sự thành công nhất 51 điền chủ và trên 500 ha có 5 điền chủ định. Số lượng đại địa chủ ở Nam Kỳ ngày (Yves Henry, 1932, p. 267). Ngoài Châu càng tăng. Như vậy, dưới thời Pháp thuộc, Đốc, các đại địa chủ sở hữu ruộng đất lớn giai cấp địa chủ bắt đầu phân hóa sâu sắc còn có ở các tỉnh Rạch Giá, Bạc Liêu, Sóc thành nhiều tầng lớp khác nhau, trong đó Trăng, Cần Thơ... Ví dụ như tỉnh Bạc Liêu, đại địa chủ có vị thế và ảnh hưởng lớn hơn tính đến năm 1930 có rất nhiều đại địa chủ ở Nam Kỳ. Trong khi đó, các tiểu địa chủ có ruộng đất lớn (Xem bảng 1). Theo đó, sở hữu từ 5 ha trở xuống, chiếm khoảng thực trạng sở hữu số lượng lớn ruộng đất trên 70% tổng số hộ có ruộng đất (Đoàn trong tay các đại địa chủ có từ 10 ha trở lên Minh Huấn & Nguyễn Ngọc Hà, 2017, p. chiếm đến 33.5% và số lô ruộng đất rộng 264), tuy nhiên vị thế và tiếng nói hạn chế lớn từ 10 ha trở lên chiếm đến 89,9% tổng hơn rất nhiều so với đại địa chủ. số ruộng đất tại Bạc Liêu. Bảng 1: Tình hình sở hữu ruộng đất ở tỉnh Bạc Liêu năm 1930 Tiểu điền sản Trung điền sản Đại điền sản Tỉnh Bạc Liêu Từ 0 đến 5 ha Từ 5 đến 10 ha Từ 10 đến 50 ha Trên 50 ha Tính theo 3,3% 6,8% 24,4% 65,5% diện tích Tính theo địa 38,3% 24,4% 23,9% 9,6% chủ Nguồn: Phạm Cao Dương, 1967, p. 110. 7
  6. SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 79 (01/2022) Từ đầu thế kỷ XX, tình hình thâu tóm đại địa chủ Nam Kỳ là 150.920 cái, rộng ruộng đất ở Nam Kỳ diễn ra trên hầu hết tới 1.253.773 héc ta, chiếm hơn nửa diện các địa phương. Đến đầu thập niên 1930, tích trồng cấy ở Nam Kỳ” (Trần Ngọc Nam Kỳ có số đại địa chủ chiếm phần lớn: Định, 1970, pp. 81-90). Theo bảng 2, số các địa sản trên 50 ha chiếm 45% diện tích liệu thống kê phản ánh tình hình mức độ canh tác và ở trong tay 63.000 điền chủ, tập trung ruộng đất rất cao ở Nam Kỳ. Cụ những địa sản dưới 5 ha chỉ chiếm có 15% thể, vào năm 1930, số chủ đất có từ 5 hecta diện tích canh tác, nhưng các số tiểu địa trở lên đến 100 hecta là 69.600 người, chủ là 183.000 người (Nguyễn Thế Anh, chiếm 27,1% số chủ ruộng, nắm trong tay 1970, p. 249). Vào năm 1931, “diện tích 45% diện tích canh tác. Ngoài ra còn có nhượng là 900.000 héc ta và nhất là đến 2.400 đại địa chủ sở hữu từ 100 hecta - 500 năm 1943 tổng số đồn điền đã nhượng cho hecta và 200 đại địa chủ có trên 500 hecta. Bảng 2. Phân loại điền chủ Nam Kỳ theo diện tích canh tác trong những năm 1930 - 1931 Các hạng điền chủ Số lượng điền chủ (Người) Tỷ lệ phần trăm Dưới 1 ha 86.000 33.7 Từ 1 – 5 ha 97.000 38.1 Từ 5 – 10 ha 38.000 14.7 Từ 10 – 15 ha 28.000 11 Từ 50 – 100 ha 3.600 1.4 Từ 100 – 500 ha 2.400 1 Trên 500 ha 200 0.1 Cộng 255.200 100 Nguồn: Đoàn Minh Huấn & Nguyễn Ngọc Hà, 2017, p. 134. Xét thực tế, Nam Kỳ là vùng đất có Nam Kỳ, trong đó tỉnh Rạch Giá có 176 điều kiện tự nhiên thuận lợi, đất đai trù đại địa chủ, có 20 người sở hữu trên 1.000 phú, màu mỡ, cộng thêm chính sách ha; Bạc Liêu có 102 đại địa chủ, trong đó khuyến khích tập trung ruộng đất của có 19 người sở hữu trên 1.000 ha; Sóc chính quyền thực dân đã tạo điều kiện cho Trăng có 67 đại địa chủ, trong đó có 9 tầng lớp địa chủ Nam Kỳ phát triển. Trong người sở hữu trên 1.000 ha (xem bảng 3). đó, đại địa chủ chiếm số lượng đáng kể và Điển hình có những địa sản rộng mênh phân bố khác nhau giữa các địa phương, mông như của Trương Văn Bền, làm chủ nhưng vẫn có sự tương đồng giữa các 18.000 ha đất, hay Trương Đại Danh, làm vùng kế cận. Theo thống kê, đến năm chủ 8.000 ha đất (Jean Chesneaux, 1955, 1936, số lượng đại địa chủ lên đến 586 ở p. 280). 8
  7. TRẦN NAM TIẾN - NGUYỄN THỊ ÁNH NGUYỆT TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN Bảng 3. Phân bố các đại điền chủ cỡ lớn theo các tỉnh ở Nam Kỳ năm 1936 Tỉnh Số điền chủ Có từ Có từ Có từ Có từ Có từ Có từ Có từ Có trên 301 - 401 - 501 - 750 750 - 1001 - 1501 đến 2001- 4000 ha 400 ha 500 ha ha 1000 ha 1500 ha 2000 ha 4000 ha Bạc Liêu 27 17 25 14 5 10 1 3 Bà Rịa 2 2 0 0 0 0 2 0 Bến Tre 5 0 3 0 0 0 1 0 Biên Hòa 5 2 1 1 0 0 0 0 Cần Thơ 16 10 9 2 2 0 1 0 Vũng Tàu - - - - - - - - Châu Đốc 3 2 2 0 0 0 0 0 Chợ Lớn 4 3 1 0 0 0 0 0 Gia Định 2 1 0 0 0 1 0 0 Gò Công 2 2 6 0 2 1 0 0 Hà Tiên 1 0 0 0 0 0 0 0 Long Xuyên 15 6 13 5 1 1 0 0 Mỹ Tho 5 1 3 1 0 0 1 0 Rạch Giá 70 35 37 14 10 6 3 1 Sa Đéc 4 3 5 4 0 1 0 0 Sóc Trăng 22 14 17 5 2 4 3 0 Tân An 12 0 2 1 0 0 1 0 Tây Ninh 0 2 0 0 0 0 0 0 Thủ Dầu Một 0 0 1 0 0 0 0 0 Trà Vinh 10 6 4 3 3 3 2 0 Vĩnh Long 8 6 9 1 1 0 0 0 Cộng 213 112 138 51 26 27 15 4 Nguồn: Nguyễn Phan Quang, 2000, p. 266. Như vậy, chúng ta có thể dễ dàng nhận phá, mở rộng ruộng đất, trong đó đông nhất thấy, phần lớn đại địa chủ ở Nam Kỳ tập là ở các tỉnh Rạch Giá, Bạc Liêu và Sóc trung ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long Trăng. Sau khi Pháp tiến hành đào kinh, với điều kiện địa lý thuận lợi cho việc khai mở mamg thêm các vùng đất canh tác mới, 9
  8. SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 79 (01/2022) nhiều diện tích ruộng đất lớn chưa khai phá ruộng đất cho tá điền canh tác và thu tô. được các địa chủ nhanh chóng trưng dụng Những đại địa chủ chủ yếu dựa vào hệ và sở hữu, diện tích sở hữu của địa chủ nhờ thống ruộng đất đang có thì nguồn sống vậy tăng lên, từ đó thúc đẩy sản lượng lúa chính của họ là dựa vào số tô thuế thu gạo cũng tăng lên đáng kể. Nếu tính luôn được, kèm theo việc bán sản phẩm lúa gạo cả diện tích sản xuất lúa gạo của các chủ cho Hoa kiều và tư bản Pháp. Thông qua đồn điền người Pháp thì sản lượng sản xuất ảnh hưởng của người Pháp, một số địa chủ lúa gạo ở Nam Kỳ đầu thế kỷ XX là rất đã bỏ tiền ra tập hợp thành lập hội buôn, lớn. Cụ thể, năm 1900 đạt 1.408.000 tấn, mở xưởng thợ kinh doanh theo hướng tư đến năm 1930 là 2.164.000 tấn (Trần Thị bản. Dưới tác động của công cuộc cai trị Bích Ngọc, 1985, p. 60). Sản lượng lúa của thực dân Pháp, một bộ phận địa chủ không ngừng tăng qua các năm cho thấy sự mới xuất hiện, bao gồm nhiều thành phần giàu có và trù phú từ các vùng đất mà đại như: chủ đất vốn là công chức, quan lại cai địa chủ sở hữu mang lại. trị được chính quyền thực dân cấp đất hoặc Nhìn chung, phần lớn đại địa chủ ở bán rẻ đất công, những người kinh doanh Nam Kỳ không trực tiếp canh tác mà 80% tại thành thị tham gia vào kinh doanh đất đất ở Nam Kỳ được phân chia thành những đai vốn là lĩnh vực thu lại nguồn lợi cao. tô địa rộng từ 5 ha đến 10 ha để giao cho tá Dưới thời Pháp thuộc, thành phần địa điền canh tác (Nguyễn Thế Anh, 1970, p. chủ, đặc biệt là đại địa chủ, tăng lên và có 249). Phần lớn các địa chủ sống nhờ vào quyền lợi gắn bó chặt chẽ với chính quyền việc phát canh thu tô, có thể là sản vật, có thực dân Pháp. Chính quyền thực dân Pháp thể là tiền nhưng đa phần là sản vật như lúa đã tiếp tay, dung dưỡng cho tầng lớp địa gạo hay các loại cây trồng khác mà nông chủ ở Nam Kỳ cướp đoạt ruộng đất của dân sản xuất trên đất của địa chủ. Vì mức người nông dân và duy trì phương thức độ sở hữu ruộng đất của địa chủ ở Nam Kỳ kinh doanh phát canh thu tô như thời phong cao nên tại Nam Kỳ có tới “345.000 gia kiến. Do đó, một bộ phận địa chủ đã làm đình nông dân chuyên sống bằng lĩnh canh tay sai, cấu kết với thực dân Pháp để áp ruộng đất của địa chủ, chiếm 57% số hộ bức, bóc lột nhân dân, số lượng này ngày nông dân, 63% ruộng đất được đem phát càng tăng thêm ở Nam Kỳ. Địa vị kinh tế canh và số chủ ruộng có phát canh lên đến của tầng lớp địa chủ Nam Kỳ cũng được 90.285 người.” (Nguyễn Văn Khánh, 1999, tăng cường, nắm trong tay nhiều ruộng đất, p. 157). Nhiều đại địa chủ không sống ở và nắm chính quyền ở các địa phương. Sự nông thôn mà sinh sống tại các đô thị lớn ở câu kết giữa giai cấp địa chủ và thực dân Nam Kỳ. Đến mỗi vụ mùa, dựa trên số đất Pháp rất chặt chẽ. Do vậy, giai cấp địa chủ đã cấp cho các tá điền, địa chủ sẽ trở về để đã chiếm đa số trong cơ cấu chính quyền thu tô thuế. Sự tập trung ruộng đất vào tay hương thôn và thậm chí cả ở cấp chính địa chủ trong điều kiện nền kinh tế hàng quyền cao hơn ở nông thôn. Ở thành thị, hóa - tiền tệ theo mô hình tư bản chủ nghĩa tầng lớp địa chủ Nam Kỳ, do quyền lợi gắn du nhập từ phương Tây là một hình thức để nhiều với thực dân Pháp nên có xu hướng địa chủ giàu lên nhanh chóng. Một bộ phận thỏa hiệp, giai đoạn đầu chủ yếu đấu tranh đại địa chủ sẽ kết hợp thêm một hình thức đòi tự do dân chủ, sau tán thành cải lương kinh doanh tư bản song song với việc giao để rồi dần đi đến “Pháp - Việt đề huề”, sát 10
  9. TRẦN NAM TIẾN - NGUYỄN THỊ ÁNH NGUYỆT TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN cánh với nhóm đại biểu của tư sản Pháp chúa Nguyễn từ thế kỷ XVII và phát triển trong các nghị trường và cuối cùng là mạnh dưới thời các vua nhà Nguyễn. Sau chống lại phong trào đấu tranh của nhân khi thực dân Pháp thiết lập chế độ cai trị ở dân. Về mặt văn hóa và đời sống, với Nam Kỳ, tầng lớp địa chủ đã có sự phân nguồn lợi lớn thu được, địa chủ có đời sống hóa và biến đổi sâu sắc về cả số lượng lẫn hưởng thụ cao, đặc biệt là các đại địa chủ. đặc điểm hoạt động. Dưới thời Pháp thuộc, Đáng chú ý, lực lượng địa chủ Nam Kỳ còn tầng lớp địa chủ Nam Kỳ cũ chuyển mình là một trong những lực lượng đầu tiên tiếp mạnh mẽ và xác lập vị thế của mình trong nhận các giá trị văn hóa của phương Tây du một xã hội mới. Về địa vị, thế lực của tầng nhập vào thông qua các thế hệ con cái được lớp địa chủ ở Nam Kỳ được củng cố và đại địa chủ cho đi du học ở các nước phát triển lớn mạnh hơn trước, thông qua phương Tây. Trong số con, em địa chủ có sự tập trung ngày càng cao ruộng đất vào điều kiện du học ở các nước phương Tây, tay giai cấp địa chủ dưới sự bảo hộ của sau khi về nước đã dùng những tri thức tiến thực dân Pháp. Trên cơ sở địa vị chính trị bộ học được để làm thay đổi tư duy, nhận và kinh tế ngày càng tăng trong xã hội mới, thức về con đường cứu nước Việt Nam, góp tầng lớp địa chủ Nam Kỳ cũng dần dần sức cùng với các lực lượng yêu nước tiến phân hóa. Một bộ phận địa chủ, chủ yếu là bộ khác tham gia và đóng góp đáng kể vào đại địa chủ, có quyền lợi gắn bó chặt chẽ phong trào giải phóng dân tộc ở Việt Nam với chính quyền thực dân đã làm tay sai, nửa đầu thế kỷ XX. cấu kết với thực dân Pháp để áp bức, bóc 4. Kết luận lột nhân dân ta. Ngược lại, một số địa chủ Địa chủ ở Việt Nam là tầng lớp truyền vừa và nhỏ có tinh thần yêu nước, đã tích thống đã có từ thời phong kiến. Đến khi cực tham gia và có những đóng góp nhất thực dân Pháp xâm lược và tiến hành cai trị định vào phong trào đấu tranh giành độc Việt Nam thì địa chủ mới chính thức trở lập ở Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX. thành một lực lượng chính trị trong xã hội Nghiên cứu được tài trợ bởi Đại học Việt Nam. Ở Nam Kỳ, tầng lớp địa chủ Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh (thời gian đầu gọi là đại điền chủ) xuất (ĐHQG-HCM) trong khuôn khổ Đề tài hiện gắn với công cuộc mở đất của các C2019-18b-06. TÀI LIỆU THAM KHẢO Aumiphin, J. P. (1994). Sự hiện diện tài chính và kinh tế của Pháp ở Đông Dương (1859- 1939). Hà Nội: Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam. Bùi Xuân Đức. (2009). Mô hình tổ chức chính quyền địa phương ở Nam bộ thời Pháp thuộc và những giá trị cần nhìn nhận. Tạp chí Khoa học Pháp lý Việt Nam, 6(55), 24-31. Chesneaux, Jean. (1955). Contribution à l’histoire de la nation Vietnamienne. Paris: Editions Sociales. Đoàn Minh Huấn & Nguyễn Ngọc Hà (đồng chủ biên). (2017). Vùng đất Nam Bộ, tập V: từ năm 1859 đến năm 1945. Hà Nội: NXB Chính trị Quốc gia Sự thật. 11
  10. SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 79 (01/2022) Dương Kinh Quốc. (1988). Chính quyền thuộc địa ở Việt Nam trước cách mạng tháng tám 1945: Góp phần tìm hiểu cơ sở lịch sử - xã hội Việt Nam thời kỳ thực dân Pháp thống trị. Hà Nội: NXB Khoa học xã hội. Dương Kinh Quốc. (1999). Việt Nam những sự kiện lịch sử (1858-1918), Hà Nội: NXB Giáo dục. Gourou, Pierre. (1940). L’utilisation du sol en Indochine française. Paris: Centre d’études de politique étrangère. Henry, Yves. (1932). Économie agricole de l'Indochine. Hanoi: Imprimerie d'Extrème- orient. Lê Hữu Phước. (2013). Nhận diện di sản kinh tế thời thuộc địa ở Nam Kỳ. Tạp chí Phát triển Khoa học & Công nghệ, Tập 16, Số X3, 140-151. Nguyễn Phan Quang. (2000). Việt Nam Cận đại, những sử liệu mới, tập 3: Sóc Trăng (1887 - 1945). Thành phố Hồ Chí Minh: NXB Văn nghệ. Nguyễn Thế Anh. (1970). Việt Nam thời Pháp đô hộ. Sài Gòn: Lửa Thiêng. Nguyễn Văn Khánh. (1999). Cơ cấu kinh tế xã hội Việt Nam thời thuộc địa (1858-1945). Hà Nội: NXB Đại học Quốc gia Hà Nội. Nguyễn Văn Khánh. (2019). Việt Nam 1919-1930 - Thời kỳ tìm tòi và định hướng. Hà Nội: NXB Tri thức. Phạm Cao Dương. (1967). Thực trạng của giới nông dân Việt Nam duới thời Pháp thuộc. Sài Gòn: Khai Trí. Phạm Quang Trung. (1988). Sắc luật 21-7-1925 của thực dân Pháp với vấn đề sở hữu ruộng đất của giai cấp địa chủ ở Nam kỳ trong thời kỳ Pháp thuộc. Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, 3-4(240-241), 61-67, 86. Trần Ngọc Định. (1970). Chế độ sở hữu ruộng đất lớn ở Nam Bộ trong thời đế quốc Pháp thống trị. Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, 3(132), 81-90. Trần Thị Bích Ngọc. (1985). Tình hình sản xuất lúa gạo ở Nam Bộ dưới thời Pháp thuộc (1862-1945). Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 5(224), 55-63. Trần Thị Thu Lương. (2004). Bước đầu tìm hiểu tình hình sở hữu ruộng đất ở nông thôn Nam Kỳ thời Pháp thuộc qua địa bạ. Thành phố Hồ Chí Minh: NXB Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. Viện Sử học. (2003). Lịch sử Việt Nam 1858 - 1896. Hà Nội: NXB Khoa học xã hội. Ngày nhận bài: 11/10/2021 Biên tập xong: 15/01/2022 Duyệt đăng: 20/01/2022 12
nguon tai.lieu . vn