Xem mẫu

  1. n trÞ - Kinh nghiÖm quèc tÕ vµ thùc tr¹ng ë ViÖt Nam SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CHUẨN MỰC BÁO CÁO TÀI CHÍNH QUỐC TẾ (IFRS) TRÊN THẾ GIỚI VÀ TÍNH CẤP THIẾT ÁP DỤNG TẠI VIỆT NAM #Ths. Lê Phương Hảo Khoa Kinh tế, Đại học Tây Bắc Chuẩn mực lập báo cáo tài chính (BCTC) quốc tế (IFRS) là điều kiện để đảm bảo các doanh nghiệp (DN) và tổ chức trên toàn thế giới áp dụng các nguyên tắc kế toán một cách thống nhất trong công tác lập BCTC. Việc áp dụng IFRS, nhằm cải thiện chất lượng thông tin kế toán và do Hội đồng Chuẩn mực kế toán (CMKT) quốc tế (IASB) biên soạn, nhằm thuận tiện cho các nghiệp vụ tài chính trên thế giới. Trong bài viết này, tác giả khái quát sự phát triển của IFRS trên thế giới từ khi bắt đầu chuẩn mực quốc tế phát hành, cho đến khi IFRS chính thức có hiệu lực từ ngày 1/1/2005. Trải qua hơn 10 năm, thực hiện IFRS trên hơn 130 nước trên toàn thế giới và những lợi ích mà IFRS đem lại. Bên cạnh đó, còn có những khó khăn, cơ hội và thách thức của việc áp dụng IFRS ở Việt Nam. Từ đó cho thấy, tính cấp thiết áp dụng IFRS tại Việt Nam. Sự phát triển của Chuẩn mực BCTC quốc tế (IFRS) trên thế giới IFRS do Hội đồng CMKT quốc tế (IASB) và Hội đồng giải thích lập BCTC quốc tế (IFRIC) biên soạn theo định hướng thị trường vốn và hệ thống lập BCTC. Phương thức lập BCTC được mô tả là tập trung vào mối quan hệ giữa DN với nhà đầu tư và tập trung vào luồng thông tin đến thị trường vốn. Cơ quan Nhà nước vẫn sử dụng BCTC như là hoạt động kinh tế, tuy nhiên BCTC này được lập cho mục đích của nhà đầu tư. Giữa những năm 1973 và năm 2000, chuẩn mực quốc tế phát hành. Trong thời kỳ này, các nguyên tắc kế toán được biểu hiện là CMKT quốc tế (IAS). Từ năm 2001, IASB mô tả các nguyên tắc kế toán với tên gọi mới là Chuẩn mực lập BCTC quốc tế (IFRS), mặc dù các CMKT quốc tế vẫn tiếp tục được thừa nhận. IFRS chính thức có hiệu lực từ ngày 1/1/2005. Năm 2005, đánh dấu sự bắt đầu của kỷ nguyên mới về cách quản lý kinh doanh toàn cầu và hoàn thành sự nỗ lực trong khoảng 32 năm (từ năm 1973 đến 2005) bằng việc ban hành các nguyên tắc lập BCTC cho thị trường vốn trên thế giới. Trong khoảng 12 năm gần đây, việc áp dụng IFRS đã phát triển nhanh chóng và được áp dụng phổ biến trên toàn thế giới. Hiện nay, hơn 130 quốc gia trên thế giới đã lựa chọn IFRS cho BCTC của các công ty hoạt động trong nội địa. Tại châu Á, Singapore, Malaysia, Hong Kong, Campuchia và Trung Quốc đã và đang áp dụng gần như toàn bộ IFRS vào các khuôn khổ BCTC. Các quốc gia khác như Indonesia, Ấn Độ và Nhật Bản đã cam kết sẽ chuyển sang áp dụng IFRS trong một tương lai gần. Tất cả các tổ chức có tác động quan trọng đến nền kinh tế thế giới như G20, Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Hội đồng ổn định tài chính quốc tế (FSB), Tổ chức quốc tế các Ủy ban chứng khoán (IOSCO)… đều ủng hộ và hỗ trợ việc áp dụng IFRS trên toàn cầu. 69
  2. n trÞ - Kinh nghiÖm quèc tÕ vµ thùc tr¹ng ë ViÖt Nam Theo kế hoạch của IASB, trong thời gian tới IASB sẽ tập trung vào những vấn đề liên quan đến IFRS.Vấn đề lập báo cáo (hiện được đổi tên là trình bày BCTC) là công việc ưu tiên phải làm. Đầu tiên là giải quyết những gì được trình bày trên BCTC, dẫn đến việc sửa đổi dự án ghi nhận doanh thu thông qua việc phân tích tài sản, nợ phải trả thay vì phương pháp hiện nay tập trung vào các nghiệp vụ đã hoàn thành và doanh thu đã thu được tiền. Phương pháp này có ảnh hưởng lớn về thời gian ghi nhận lợi nhuận, do đó dẫn đến việc ghi nhận doanh thu theo các giai đoạn thông qua chu trình nghiệp vụ. IASB cũng tiếp tục xem xét lại chuẩn mực hợp nhất kinh doanh, cũng như nỗ lực hợp nhất giữa IFRS và GAAP của Mỹ,… Có thể nói rằng, việc áp dụng IFRS đã mở ra một thời kỳ mới làm thay đổi cách thức ghi nhận, đo lường và trình bày các chỉ tiêu và khoản mục trên BCTC. IFRS được chấp nhận như chuẩn mực lập BCTC cho các công ty tìm kiếm sự thừa nhận trên thị trường chứng khoán thế giới. Việc áp dụng IFRS sẽ tăng khả năng so sánh của các thông tin tài chính và tăng chất lượng thông tin cung cấp cho các nhà đầu tư, giảm sự bất định trong đầu tư, giảm rủi ro đầu tư, tăng hiệu quả của thị trường và giảm thiểu chi phí vốn. Hơn nữa, thông qua việc áp dụng IFRS sẽ giảm ngăn cách buôn bán chứng khoán bằng việc đảm bảo BCTC minh bạch hơn. BCTC được lập theo IFRS dễ hiểu và có thể so sánh, sẽ cải thiện và tạo lập mối quan hệ với người sử dụng BCTC. Tính cấp thiết áp dụngIFRS tại Việt Nam IFRS đang được áp dụng toàn bộ hoặc gần như toàn bộ tại hơn 130 quốc gia trên toàn thế giới, trong đó có một số quốc gia ở khu vực Đông Nam Á. Tại Việt Nam, khi nền kinh tế bước vào giai đoạn hội nhập mạnh mẽ trong cả phạm vi khu vực và quốc tế, IFRS càng trở thành đề tài nóng và thu hút nhiều hơn sự quan tâm của đông đảo các nhà hoạch định chính sách, các chuyên gia trong nước cũng như cộng đồng DN, đặc biệt là các DN niêm yết trên sàn chứng khoán - những DN đầu tiên được yêu cầu tiên phong áp dụng IFRS theo khung lộ trình áp dụng IFRS của Bộ Tài chính đến năm 2020. Để nhận thấy, được sự cấp thiết áp dụng IFRS vào Việt Nam, chúng ta sẽ đi tìm hiểu những lợi ích, khó khăn, thời cơ và thách thức khi áp dụng IFRS: Lợi ích của IFRS: Theo các chuyên gia kinh tế, IFRS giúp cho việc lập BCTC rõ ràng hơn, qua đó đảm bảo rằng, các đơn vị trên toàn thế giới có thể lập BCTC theo một chuẩn thống nhất và tương đồng. IFRS đang được áp dụng trên nhiều quốc gia trên thế giới, thực tế việc đánh giá xem xét những tác động của chuẩn mực BCTC quốc tế đối với DN Việt Nam là rất cần thiết, để cho các tập đoàn lớn và DN nước ngoài tin tưởng đầu tư. IFRS đóng góp giá trị lớn đối với tính bền vững của nền kinh tế toàn cầu, vì IFRS gia tăng sự minh bạch, đồng thời giúp nâng cao trách nhiệm giải trình của DN, từ đó giảm bớt độ chênh lệch thông tin giữa nội bộ và bên ngoài công ty. Ngoài ra, IFRS giúp các DN và thị trường hoạt động hiệu quả hơn nhờ có một chuẩn mực thống nhất trên phạm vi toàn cầu và đáng tin cậy, áp dụng cho cả các nền kinh tế phát triển và mới nổi. 70
  3. n trÞ - Kinh nghiÖm quèc tÕ vµ thùc tr¹ng ë ViÖt Nam Trên thực tế, sau khi áp dụng IFRSở nhiều quốc gia cho thấy, mức độ tin cậy về thông tin của các công ty niêm yết, cũng như thị trường tài chính nói chung, thị trường chứng khoán nói riêng ở các nước đó được giới đầu tư nước ngoài đánh giá cao. Khó khăn khi áp dụng IFRS: Hiện nay ở Việt Nam, đa phần các DN đang áp dụng các VAS trong việc lập BCTC theo luật định, chỉ có một số DN có vốn đầu tư nước ngoài hoặc niêm yết trên thị trường quốc tế lập BCTC theo IFRS. Vì việc áp dụng IFRS cũng không hoàn toàn dễ dàng đối với các DN. Đặc biệt đối với các DN ở Việt Nam, với trình độ ngoại ngữ, trình độ kế toán phần lớn vẫn còn ở mức thấp so với các nước trên thế giới. Một trong những thách thức đó là phải có đội ngũ nhân viên kế toán và tài chính có năng lực. Điều này không phải là vấn đề đơn giản vì IFRS được coi là rất phức tạp ngay cả đối với các nước phát triển. Theo đó, phương pháp hạch toán các giao dịch theo IFRS dựa trên bản chất các giao dịch và dựa trên nhiều xét đoán và đánh giá phân tích của các nhà quản lý, những người sẽ tư vấn cho kế toán viên lập BCTC. Hơn nữa, để áp dụng IFRS đơn vị phải bỏ ra chi phí ban đầu lớn, xây dựng lại hệ thống thu thập, xử lý và trình bày các thông tin tài chính. Cơ hội và thách thức: Trong điều kiện hiện nay khi mà nền kinh tế thị trường đang dần được hoàn thiện, thị trường tài chính đang trong giai đoạn phát triển nhanh, đầu tư nước ngoài mở rộng mạnh mẽ thì yêu cầu áp dụng IFRS là sự cần thiết cấp bách, khách quan. Tuy nhiên, triển khai IFRS là vấn đề không đơn giản và rất quan trọng, nên Việt Nam cần có sự tư vấn, hỗ trợ của IASB và chuyên gia của các tổ chức nghề nghiệp quốc tế. Tín hiệu đáng mừng cho Việt Nam là, Chủ tịch IASB Hans Hoogervorst cam kết IASB sẽ hỗ trợ Việt Nam trong quá trình áp dụng IFRS thông qua nhiều hình thức như: Đào tạo, cung cấp tài liệu giảng dạy, hỗ trợ kỹ thuật,… Liên quan đến lộ trình triển khai IFRS, Việt Nam nên nghiên cứu, xem xét triển khai IFRS ngay sau thời điểm Luật Kế toán 2015, có hiệu lực từ ngày 1/1/2017. Để việc triển khai IFRS đảm bảo tính khả thi, cơ quan quản lý nên đưa ra hệ thống chính sách theo hướng ban đầu áp dụng đối với các DN quy mô lớn thường xuyên có quan hệ sản xuất, kinh doanh với các đối tác quốc tế, các DN có vốn đầu tư nước ngoài. Khi những lợi ích của việc triển khai IFRS được kiểm chứng, đồng thời các yếu tố thuận lợi cho triển khai rộng rãi IFRS chín muồi, thì sẽ tiến tới áp dụng chuẩn mực này cho tất cả các DN trong nền kinh tế. Thay đổi không bao giờ là dễ dàng, nhưng thay đổi này là điều quan trọng với một nền kinh tế đang phát triển nhanh như Việt Nam. Việt Nam cần phải có dòng vốn đổ vào thị trường tài chính để có thể duy trì tăng trưởng kinh tế bền vững. BCTC dựa trên IFRS của các DN Việt Nam sẽ cung cấp thông tin nhất quán, chất lượng và có tính so sánh cho các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt Nam. Việc áp dụng IFRS cũng sẽ cho thấy khung pháp lý về DN của Việt Nam đạt các tiêu chuẩn quốc tế cao nhất trên các diễn đàn kinh tế toàn cầu. Cũng như bất kỳ hoạt động xây dựng cơ sở hạ tầng đầu tư nhằm hỗ trợ kinh tế phát triển, việc triển khai IFRS tại Việt Nam cần có kinh phí. Khung pháp lý đối với BCTC sẽ phải được sửa đổi để thích ứng với IFRS. Việc cần làm là đào tạo và hướng dẫn về IFRS cho cả cán bộ lập BCTC và kiểm toán viên liên quan. Cấp thiết áp dụng IFRS: Nhưng vấn đề đặt ra đối với các DN ở Việt Nam, IFRS được áp dụng sẽ tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư. Cụ thể, BCTC cung cấp thông tin toàn diện, đúng 71
  4. n trÞ - Kinh nghiÖm quèc tÕ vµ thùc tr¹ng ë ViÖt Nam đắn, kịp thời và do đó nhà đầu tư có nhiều thông tin về thị trường vốn giảm được rủi ro trong việc đưa ra quyết định kinh tế. BCTC được định dạng theo biểu mẫu thống nhất và loại trừ sự khác biệt trong CMKT, các thông tin trên BCTC có tính so sánh qua đó sẽ giúp cho các nhà đầu tư giảm chi phí trong việc xử lý thông tin kế toán, giảm sự khác biệt quốc tế trong CMKT. Ngoài ra, chất lượng thông tin cao hơn, tính minh bạch rõ ràng sẽ làm giảm rủi ro cho các nhà đầu tư. Cùng với sự gia tăng của các nhà đầu tư nước ngoài cũng như phục vụ cho mục tiêu kêu gọi vốn đầu tư, các DN cần có một bản BCTC lập theo IFRS đầy đủ, minh bạch, chính xác và có độ tin cậy cao. So với VAS, IFRS có nhiều điểm nổi trội như mang lại tính minh bạch cao, gia tăng niềm tin cho nhà đầu tư trên toàn cầu về những thông tin trong BCTC của các DN. Mặt khác, Báo cáo Việt Nam 2035 được công bố mới đây đưa ra đề xuất các CMKT Việt Nam cần thống nhất với IFRS, nhằm phát triển các thị trường vốn theo chiều sâu và thu hút hơn nữa nhà đầu tư nước ngoài. Theo đó, việc áp dụng IFRS sẽ giúp Việt Nam đi đúng hướng với tầm nhìn Việt Nam 2035, các chính sách của ASEAN cũng như theo kịp đà phát triển của những nền kinh tế thành công khác trong khu vực và trên thế giới, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay khi Việt Nam hội nhập kinh tế sâu rộng trên thị trường phẳng toàn cầu với việc tham gia Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC)... Trong giai đoạn toàn cầu hóa mạnh mẽ như hiện nay, thông qua áp dụng IFRS, nền kinh tế Việt Nam nói chung và các DN Việt Nam nói riêng sẽ được hưởng lợi từ hội nhập kinh tế, ví dụ như tiếp cận nguồn vốn, duy trì năng lực cạnh tranh và phát triển một cách bền vững, phát triển đội ngũ nhân sự kiểm toán,... Việc áp dụng IFRS sẽ tăng khả năng so sánh của các thông tin tài chính và tăng chất lượng thông tin cung cấp cho các nhà đầu tư, giảm rủi ro đầu tư, tăng hiệu quả của thị trường và giảm thiểu chi phí vốn. Hội tụ kế toán quốc tế đang diễn ra trên phạm vi toàn cầu. Hình thức cuối cùng sẽ là sử dụng các chuẩn mực lập BCTC tương tự nhau, bởi tất cả các DN trên toàn thế giới. Theo giới chuyên gia trong và ngoài nước cho rằng, trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam đang ngày một hội nhập sâu rộng hơn với kinh tế thế giới, dù muốn hay không, Việt Nam sẽ phải áp dụng IFRS. Hiện tại, các quốc gia trên thế giới đang áp dụng toàn bộ hoặc một phần IFRS, thì Việt Nam đang có lộ trình từng bước để áp dụng IFRS. Như vậy, việc áp dụng IFRS ở Việt Nam cần phải thực hiện theo từng bước một, dần tháo gỡ những khó khăn để hội nhập cùng với xu hướng hội tụ kế toán trên toàn thế giới. -------------------------- Tài liệu tham khảo 1. Daske, H., Hail, L., Leuz, C. & Verdi, S. (2008). Mandatory IFRS Reporting Around the World: Early Evidence on the Economic Consequences. Journal of Accounting Research. 2. Li,S. (2010). Does Mandatory Adoption of International Financial Reporting Standards in the European Union Reduce the Cost of Equity Capital. The Accounting Review. 3. CPA Australia,Áp dụng chuẩn mực BCTC quốc tế, Vnexpress.net. 4. DN Việt Nam cần lập BCTC theo chuẩn quốc tế, Thoibaokinhdoanh.vn 72
nguon tai.lieu . vn