Xem mẫu

  1. SỰ HIỆN DIỆN CỦA PHÊ BÌNH CỔ MẪU Ở VIỆT NAM NGUYỄN DIỆU THÚY Trường Đại học sư phạm - Đại học Huế Tóm tắt: Bài viết này mang tính chất nhận diện bước đầu về Sự hiện diện của Phê bình cổ mẫu ở Việt Nam. Qua đó chúng tôi bước đầu đánh giá về thành tựu, hạn chế của Phê bình cổ mẫu ở Việt Nam trong cái nhìn tương quan với Phê bình phân tâm theo lý thuyết Freud. Đặc biệt chúng tôi chú trọng ghi nhận sức bật về công trình của các nhà phê bình trẻ. Mặt khác, chúng tôi bước đầu lý giải nguyên nhân và thử soi chiếu cái nhìn về tương lai phát triển của Phê bình cổ mẫu trong lịch sử vận động của nền phê bình văn học dân tộc. Cấu trúc bài viết được xây dựng trên hệ thống gồm 3 tiểu mục: 1. Lý thuyết của C.G.Jung và Phê bình cổ mẫu; 2. Sự vận dụng Phê bình cổ mẫu trong văn học dân gian và văn học trung đại Việt Nam; 3. Sự vận dụng Phê bình cổ mẫu trong văn học hiện đại Việt Nam. Từ khóa: phê bình cổ mẫu, Việt Nam “Nếu như Glenn và Neil Armstrong mở ra cho chúng ta không gian bên ngoài với tư cách là những người thám hiểm vũ trụ, thì Jung chỉ bảo cho chúng ta về không gian bên trong như một nhà thám hiểm dũng cảm và táo bạo vào những điều chưa được biết đến” (Muray Stein). Với C.G. Jung, nghiên cứu tâm thần có tầm quan trọng rất lớn như ông đã nói “toàn bộ thế giới treo trên một sợi chỉ và sợi chỉ này là tâm thần con người”. 1. LÝ THUYẾT CỦA C.G. JUNG VÀ PHÊ BÌNH CỔ MẪU Sự nghiệp của C.G. Jung định hình trong cái bóng hiện diện của Freud. Song chỗ ông khác nhất với Freud và những người khảo sát tâm thần khác đó là việc phát hiện ra Vô thức tập thể. Theo Jung, vô thức tập thể là “một con người tập thể bất hủ, nắm trong tay thể nghiệm hàng mấy triệu năm của nhân loại”. Vô thức tập thể hiện lên thông qua các hình tượng mang tính biểu tượng là Cổ mẫu (archétype). Cổ mẫu là sự ngưng kết của vô thức tập thể. Nói như Đỗ Lai Thúy đó là “những đồ hình vĩnh cửu của kinh nghiệm loài người”. Lý thuyết về Cổ mẫu là cốt yếu của tâm lý học chiều sâu, yếu tố nền tảng này đã tạo nên cú hích cho sự chào đời của Phê bình cổ mẫu. Đây là sự bổ sung quan trọng cho phê bình phân tâm học của Freud. Khi nói về khả năng vận dụng lý thuyết của mình, Jung chia sẻ “Có lẽ tôi có quyền hy vọng là các thính giả của tôi đã kịp suy nghĩ, không phải về những điều tôi nói, mà chính là về sự vận dụng cụ thể tất cả những điều đó vào tác phẩm thơ ca - nghệ thuật, như thế là đắp da đắp thịt cho bộ khung xương tư tưởng trừu tượng của tôi” [5, tr. 84]. Và thực tế là “Giữa thế kỷ XX, bừng nở một tinh thần khảo cổ học trong lãnh địa văn chương. Nhà khảo cổ đào bới đất đai để tìm các dấu tích xưa, nhà phê bình đào bới văn bản để đi tìm các vết hằn đầu tiên trong ký ức nhân loại. Là hạt mầm ấp ủ trong đường ranh của hai mảnh vườn nhân chủng xã hội học và phân tâm học, cây phê bình cổ mẫu hút mạnh các chất phù sa của văn học và sum suê tỏa bóng” (Nguyễn Thị Thanh Xuân). Học thuyết của Jung được nhiều người tiếp bước trong phê bình. Đó là Ch.Bauduin, J.Campbell, M.Eliade và đặc biệt là N.Frye với công trình nổi tiếng Giải phẫu phê bình. So với nhiều trường phái khác, lịch sử của Phê bình cổ mẫu không dài, vị trí cũng khiêm tốn. Song, sự quấn luyến của các yếu tố: motif huyền thoại, biểu tượng trong tính tái sinh nhiều ám gợi trong văn học đã tạo nền móng cho việc tìm và lý giải Cổ mẫu. Sẽ khó khăn cho việc diễn giải tác phẩm khi thiếu đi cơ sở mỹ học hay tâm lý nào đó vì vậy cống hiến của C.G.Jung tạo ra cách nhìn độc đáo. Đánh giá về Phê bình cổ mẫu chúng tôi ghi nhận ý kiến của Nguyễn Thị Thanh Xuân khi cho rằng Phê Kỷ yếu Hội nghị Khoa học Sau Đại học lần thứ hai Trường Đại học Sư phạm Huế, tháng 10/2014: tr. 349-355
  2. 350 NGUYỄN DIỆU THÚY bình cổ mẫu “giúp người nghiên cứu hiểu sâu hơn về tác phẩm; đoán định được sự vận động của văn chương trên cái nhìn đa giác: tâm lý, văn hóa, nhân học; phát hiện ra những đặc điểm nhân loại và dân tộc trong văn chương; góp phần nối liền văn học dân tộc và văn học thế giới; khuyến khích người cầm bút và công chúng nuôi lại cái khát vọng “nối liền xưa và nay” giúp họ bớt đi quán tính viết và đọc văn chương theo kiểu áp sát đời sống chính trị và tăng cường tính đa âm trong cách viết và sức mạnh tưởng tượng trong sáng tạo, từ một nguồn lực văn hóa vững bền” [8]. Dẫu phương pháp này không thật coi trọng việc khám phá giá trị chân thật, lịch sử, tình cảm thẩm mỹ của văn học và khi tìm hiểu tác phẩm đã hạ thấp vai trò của nhà văn. Nhưng thiết nghĩ không có phương pháp nào vạn năng, vết nứt trong phương pháp này là tiền đề cho sự bóc vỏ nảy mầm phương pháp khác. Và với những đặc trưng đó, cây Phê bình cổ mẫu đã nảy mầm trên địa hạt phê bình Việt Nam. Lý thuyết Cổ mẫu của Jung đã manh nha trong Kinh thi Việt Nam (1940) của Trương Tửu, nhưng người đầu tiên vận dụng một cách nghiêm túc lý thuyết này trong phê bình văn học chính là Đỗ Lai Thúy. Ông là người đã có công phục dựng lại nền phê bình phân tâm học đồng thời cũng là người đẩy nó lên bước cao hơn nhờ sự cập nhật phân tâm học sau Freud. Luận văn Lý giải cái dâm cái tục trong thơ Hồ Xuân Hương từ tín ngưỡng phồn thực (1995) sau này in thành sách Hồ Xuân Hương hoài niệm phồn thực (1999) là công trình đầu tiên được dán nhãn Phê bình cổ mẫu. Sau Trương Tửu, Đỗ Lai Thúy là Hồ Thế Hà, Lê Đức Luận và đặc biệt là Nguyễn Thị Thanh Xuân. Qua trang sách của Nguyễn Thị Thanh Xuân các yếu tố Đất, Nước, Trời, Trăng,... được vực dậy từ cội nguồn dấu tích ngàn xưa, vén mở những nếp gấp từ bao đời của vô thức tập thể. Ngoài ra nhiều cây phê bình trẻ cũng đã sớm tham gia vào cuộc chạy tiếp sức này như Trần Thị Thanh Nhị, Đỗ Lan Hiền, Nguyễn Thị Thanh Lưu, Nguyễn Thị Tùng, Nguyễn Quang Huy, Nguyễn Minh Hoàng. Trong số đó, Nguyễn Quang Huy là gương mặt nổi bật nhất. Từ tâm thức của cổ mẫu các nhà Phê bình cổ mẫu Việt Nam đã lặn xuống tầng sâu vô thức để dò tìm ra những giá trị hằng hữu sau nhiều thế kỷ tích tụ nay hiện hữu trong tác phẩm văn học. Nhiều công trình phê bình ở nước ta đã vận dụng lý thuyết này vào nghiên cứu văn học dân tộc từ dân gian cho đến văn học viết, từ văn học trung đại đến hiện đại mang lại kết quả khả quan, làm thay đổi tư duy lý luận, tập quán nghiên cứu, tác động tích cực tới thực tiễn sáng tác, khiếu cảm thụ nghệ thuật và tâm lý tiếp nhận của công chúng. 2. SỰ VẬN DỤNG PHÊ BÌNH CỔ MẪU TRONG VĂN HỌC DÂN GIAN VÀ VĂN HỌC TRUNG ĐẠI VIỆT NAM Với bề dày văn hóa hàng nghìn năm, Việt Nam có một nền tảng văn hoá dân gian phong phú được gìn giữ qua những sáng tác văn học dân gian. Những biểu tượng của tín ngưỡng dân gian trở thành cổ mẫu. Đây là mảnh đất đầu tiên để hạt giống Phê bình cổ mẫu được gieo mầm. Như chúng ta biết, tác phẩm văn chương đầu tiên của nhân loại mà cổ mẫu ngã bóng vào là huyền thoại nhưng huyền thoại Việt Nam “rớt từng mảnh ở truyền thuyết và cổ tích” (Đặng Anh Đào). Thế nên, Lê Đức Luận có lý khi Cảm nhận Trầu Cau từ tâm thức huyền thoại (2010). Theo tác giả “Truyện cổ tích Trầu Cau đã có sự đan xen giữa tâm thức phụ quyền và tâm thức mẫu quyền trong vệc xây dựng hệ thống các hành động, chi tiết, biểu tượng” [4, tr. 18]. Tâm thức phụ quyền được thể hiện ở chi tiết cô gái chọn người anh làm chồng. Còn chi tiết ôm nhầm em chồng là dấu tích của gia đình mẫu quyền còn nằm trong tiềm thức người phụ nữ. Chính sự nhập nhằng này trong thể chế xã hội buổi giao thời đã dẫn đến sự hóa thân của ba nhân vật, đó chính là “sự hóa thạch một mô hình gia đình thị tộc lý tưởng, dấu ấn của trầm tích văn hóa cổ xưa” [4, tr. 20]. Còn nhà phê bình Nguyễn Thị Thanh Xuân thì rất tinh tế khi đi tìm cổ mẫu trong rất nhiều thể loại khác của văn học dân gian và tìm thấy “cổ mẫu Trời đã xuất hiện sớm trong huyền thoại (Thần Trụ trời, Bánh chưng bánh dầy,… cặp cổ mẫu văn chương Đất, Nước trội lên xoắn xuýt, khi tạm rời, làm nên ám ảnh: Con Rồng cháu Tiên, Chử Đồng Tử, Trương
  3. SỰ HIỆN DIỆN CỦA PHÊ BÌNH CỔ MẪU Ở VIỆT NAM 351 Chi, Sơn Tinh Thủy Tinh, Mỵ Châu Trọng Thủy… Sử thi Mường có tên Đẻ đất đẻ nước với nhân vật Mụ Dạ Dần chẳng phải đã nói với chúng ta rất sớm về cặp đôi cổ mẫu Đất và Nước, bên cạnh cổ mẫu cây thủy tổ (cây si) đó sao?” [7, tr. 109-110]. Trong khi đó Trương Tửu, Trần Thanh Hà, Nguyễn Thị Thanh Lưu mượn thể loại ca dao để truy tìm dấu tích thuở xưa. Ở bài viết Biểu tượng Nước trong thơ ca dân gian và thơ ca hiện đại các dân tộc ít người (2008) mặc dù Nguyễn Thị Thanh Lưu không chỉ ra được nét riêng trong cách cảm nhận về biểu tượng Nước của người dân tộc thiểu số so với người Kinh nhưng bài viết đã rất tinh tế khi qua sự vận động các tầng nghĩa của biểu tượng từ văn học dân gian đến hiện đại để phác họa đường nét về sự dẫn truyền lối tư duy của con người từ xưa đến nay bộc lộ đằng sau biểu tượng ấy. Qua khảo sát 9 tập thơ của nhà thơ Dương Thuấn, 14 tập thơ của nhà thơ Lò Ngân Sủn và 3 tập thơ của nhà thơ Bùi Thị Tuyết Mai, tác giả nhận ra biểu tượng Nước hiện lên với những trầm tích ngữ nghĩa cũ và cả những lớp phù sa ngữ nghĩa mới. Cái tâm thức dân gian đó thực ra đã được manh nha trong Kinh Thi Việt Nam (1940). Trong công trình này Trương Tửu nói đến vấn đề tính dục trong ca dao gắn liền với vô thức tập thể, văn hóa phồn thực. Chính những điều này về sau đã được Đỗ Lai Thúy kế thừa để khai thác trong thơ Hồ Xuân Hương. Nhưng người đọc cổ mẫu sẽ không chỉ tìm về những trang viết mù xa ngất tạnh mà còn phải đắm mình trên dòng sông chữ nghĩa hôm nay. Từ khi văn học Viết ra đời cho đến bây giờ đã trải qua nhiều giai đoạn và giống như với lý thuyết Freud, lý thuyết của Jung cũng có cơ hội được vận dụng để soi chiếu nhiều hiện tượng trong thời kì trung đại. Thấm thía được rằng “Quá trình sáng tạo, như chúng ta nói là hà hơi sống cho siêu mẫu từ trong vô thức” trong Bút pháp của ham muốn (2009) Đỗ Lai Thúy đã vận dụng lý thuyết cổ mẫu vào nghiên cứu văn học trung đại Việt Nam, chủ yếu là thể loại thơ. Hồ Xuân Hương là thử nghiệm đầu tiên. Từ chuyên luận Hồ Xuân Hương hoài niệm phồn thực đến bài nghiên cứu Đi tìm thực chất thơ Hồ Xuân Hương trong Bút pháp của ham muốn đã thể hiện được tài năng, tấm lòng của Đỗ Lai Thúy với nữ sĩ họ Hồ. Kết hợp lý thuyết cổ mẫu và văn hóa tín ngưỡng phồn thực, ông đã thành công khi tìm ra mã khóa mở cửa vào thế giới thơ Hồ Xuân Hương đó là “hoài niệm phồn thực”. Nhưng đích đến của Đỗ Lai Thúy là còn giải mã được các biểu tượng cổ mẫu trong thơ bà. Đỗ Lai Thúy phân biệt cổ mẫu gốc và cổ mẫu phái sinh, miêu tả hệ thống hình tượng ngôn ngữ trong thơ Hồ Xuân Hương một cách thuyết phục theo logic riêng của mình: tín ngưỡng phồn thực - thờ cúng phồn thực - lễ hội phồn thực - văn hóa dâm tục - thơ Hồ Xuân Hương. Trần Thị Hồng Hải có lý khi cho rằng “Chính hệ thống phương pháp suy luận này đã khiến cho Hồ Xuân Hương hoài niệm phồn thực trở nên có chiều sâu và mở ra những dư địa sáng tạo”. Sau Hồ Xuân Hương là Nguyễn Gia Thiều, nhưng ngòi bút của nhà phê bình không còn hướng đến các cổ mẫu tự nhiên mà thay vào đó là cái nhìn soi chiếu về bóng âm (Shadow) - một trong những cổ mẫu xã hội quan trọng theo lý thuyết của Jung. Trong số các cổ mẫu quan trọng thì bóng âm xuất hiện sớm nhất, được coi là kinh nghiệm đầu tiên của loài người. Theo Jung trong tâm thức mình ai cũng có một cái bóng tồn tại một cách vô thức mà ông gọi là bóng âm. Cái bóng này dẫu mang khuôn mặt của người này người khác nhưng thực ra là ảnh xạ của bản ngã vô thức, phần khuất lấp trong tâm hồn con người. Phần viết Nguyễn Gia Thiều đối thoại với cái bóng, Đỗ Lai Thúy phát hiện ra rằng bóng âm của Nguyễn Gia Thiều đổ vào tác phẩm là người cung nữ. Thi ảnh của bóng gồm bóng của người cung nữ, bóng của các đồ vật soi chiếu vào nhau cũng là một thứ bóng. Và Đỗ Lai Thúy nhận xét “Có thể nói trong “Cung oán ngâm khúc” cái bóng là lăng kính của Nguyễn Gia Thiều, cái nhìn thế giới của ông, cái nhìn nghệ thuật của ông” [6, tr. 100]. Con người suốt đời sống trong nhung lụa ấy ngờ đâu đã phải trải qua lắm chua cay thế nên người cung nữ chính là tác giả mà trong cô đơn ông tự tạo ra để đối thoại với lòng mình. Chính điều đó đã mang lại cái nhìn hiện đại cho nhà thơ trung đại Việt Nam. Có thể nhận thấy rằng Đỗ Lai Thúy là người bắt lửa nhanh nhất vào dòng chảy của lý thuyết phân tâm. Sự am
  4. 352 NGUYỄN DIỆU THÚY hiểu sâu sắc về lý thuyết khiến Đỗ Lai Thúy không chỉ là một trong những nhà phê bình vận dụng thành công nhất lý thuyết Freud mà còn cả lý thuyết của Jung vào nghiên cứu văn học. Nếu Jacques Lacan quan niệm “Nhà phân tâm học không phải chỉ lý giải một văn bản của vô thức đã có sẵn, anh ta vừa lý giải, vừa sản sinh ra nó” thì dùng câu nói này cho các tác phẩm phê bình của Đỗ Lai Thúy quả không quá chút nào. Phê bình phân tâm của Đỗ Lai Thúy quả là một thứ của hiếm, viết phê bình mà “có văn”, vốn không có mấy người như ông. Không chỉ Đỗ Lai Thúy, Nguyễn Thị Thanh Xuân trong Đi tìm cổ mẫu trong văn học Việt Nam (2007) cũng chọn Hồ Xuân Hương là tác giả trung đại duy nhất để soi chiếu từ lý thuyết cổ mẫu. Dù khá khiêm tốn giấy mực khi nói về nữ sĩ họ Hồ, song với 21 dòng văn bản tác giả đã giúp người đọc nhận thấy đóng góp của Hồ Xuân Hương trong việc đem lại cho cổ mẫu Đất và Nước khuôn mặt lạ. Hai cổ mẫu này trở đi trở lại trong thơ bà nhưng điều lạ là nó gắn với: động, hang, khe, giếng, lạch. Nghĩa là hình thái hẹp ở vị trí khuất nẻo, chứ không còn là Mẹ Đất Cha Trời. Cũng xem Hồ Xuân Hương là hiện tượng độc đáo trong văn học trung đại, một lần nữa Trần Thị Thanh Nhị lại trở về với thơ bà. Kế thừa có sáng tạo hướng đi của các nhà phê bình trước, Trần Thị Thanh Nhị qua motif “người đẹp Nuy - say ngủ” để Nhìn “Thiếu nữ ngủ ngày” của Hồ Xuân Hương từ biểu tượng văn hóa (2014). Đỗ Lan Hiền thì kiếm tìm Dấu ấn tín ngưỡng phồn thực trong thơ Việt Nam trung đại (2013). Với bài viết này tác giả đã mạnh dạn khẳng định dấu ấn phồn thực hiển hiện trong thi ca cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX không phải là một sự gán ghép vu vơ. Tuy nhiên công trình dẫm lên dấu chân mà Đỗ Lai Thúy đã khai mở là trở về với tín ngưỡng phồn thực, mặt khác không phân tích sâu về dấu ấn tín ngưỡng phồn thực đó mà chỉ nói chung chung về cái gọi là “khát vọng phồn thực” chính là khát khao tình dục, ước vọng lứa đôi. Vậy là biểu tượng phồn thực vốn trở thành cổ mẫu nay lọt thỏm vào cái hố bản năng tính dục của cá nhân. Ngoài ra, đối tượng mà Đỗ Lan Hiền hướng đến lại là các tác giả văn học trung đại nửa cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX và cũng lại là thể loại thơ như các công trình trước đây. 3. SỰ VẬN DỤNG PHÊ BÌNH CỔ MẪU TRONG VĂN HỌC HIỆN ĐẠI VIỆT NAM Sự vận dụng lý thuyết cổ mẫu vào đối tượng mới cũng là một cách vinh danh cho sự cống hiến của Jung và cũng là một dấu hiệu thành công của Phê bình cổ mẫu Việt Nam. Theo đó cổ mẫu như một đứa con lãng tử sinh ra từ đất mẹ huyền thoại xa xôi sau những lãng du đây đó trong các miền mộng tưởng nay lại trở về. Nhưng sự trở về ấy mang một hình hài ít nhiều thay đổi. Trong thể loại thơ, Hồ Thế Hà vận dụng lý thuyết cổ mẫu đi vào tìm hiểu thơ ca của nhà thơ hiện đại - Nguyễn Quang Thiều. Qua bài viết Thơ Nguyễn Quang Thiều nhìn từ mẫu gốc, Hồ Thế Hà đã tìm thấy sau hình hài con chữ chập chờn trong thơ Nguyễn Quang Thiều những tiếng vọng của vô thức tập thể. Theo tác giả “Hình tượng Mẫu gốc ám gợi nhất trong thơ Nguyễn Quang Thiều là làng chùa - nơi chôn nhau cắt rốn của anh” [1, tr. 91]. Xuất phát từ làng Chùa, Nguyễn Quang Thiều đã liên tục gọi về những trầm tích của tâm hồn mà Hồ Thế Hà gọi là “những tái sinh từ mẫu gốc”. Đó là người bà, người mẹ, người cha đã thành ám ảnh trong thơ ông. Đó còn là những biểu tượng thiên nhiên nhức nhối khác như Đất, Nấm mộ, Lửa đèn và Nước làng Chùa từ cội nguồn sông Đáy. Những mẫu gốc đó lặp đi lặp lại “làm hiện lên những trầm tích văn hóa vừa tâm linh, vừa phong tục, vừa xã hội trong thi giới Nguyễn Quang Thiều” [1, tr. 95]. Cũng đặc biệt ưu ái thơ ca hiện đại, Nguyễn Thị Thanh Xuân trong bài Đi tìm cổ mẫu trong văn học Việt Nam cho rằng trên lối về với vô thức nhân loại, Tản Đà, Hàn Mặc Tử, Bùi Giáng mỗi người có một cánh cửa khép mở riêng. Nhúng tay vào ký ức ngàn xưa Tản Đà lạc lối “vào khu vườn huyền thoại, hái về đóa Thiên Thai (Cổ mẫu Tiên giới)” [7, tr. 116]. Còn Hàn Mặc Tử “ăn, ngủ, thở, buồn, vui giữa Trăng” [7, tr. 117]. Thơ Hàn luôn giao động giữa hai hấp lực: vô thức cá nhân đầy ẩn ức và tiếng gọi sâu thẳm của vô thức tập thể. Chính ở điểm này ta thấy nhà
  5. SỰ HIỆN DIỆN CỦA PHÊ BÌNH CỔ MẪU Ở VIỆT NAM 353 phê bình đã rất tinh khi nhận ra được sự bắt nhịp vào năng lượng tâm linh nhân loại của Hàn Mặc Tử như cách C.G.Jung đã gọi đó là cuộc gặp gỡ kì diệu giữa vô thức cá nhân và vô thức tập thể. Như vậy, không tìm cổ mẫu theo tác phẩm như cách làm của nhiều nhà phê bình khác, Nguyễn Thị Thanh Xuân chọn cho mình cách tiếp cận riêng bằng hướng đi theo tác giả. Cách khai triển này tạo thành công cho bài viết đồng thời cũng làm lộ ra những lúng túng của nhà phê bình khi gom nhặt những cổ mẫu. Đặc biệt phần viết về Hàn Mặc Tử nhan nhản biểu tượng, nhan nhản cổ mẫu nên người đọc rất khó để nắm được cội rễ cái cây thơ ca trĩu nặng cổ mẫu mà nhà phê bình đã trồng lên. Dẫu thế cảm giác lưu lại trong chúng tôi sau những trang phê bình ấy là không chỉ được nhìn thấy trái chín mà còn ngửi thấy cả hương thơm. Hương thơm đó toát ra từ những trang phê bình giàu hình ảnh, những lối so sánh ví von rất lạ của bà. Ngoài thơ ca, phát triển mạnh thời kì này còn có văn xuôi. Trang trải trong thế giới nghệ thuật của Võ Thị Hảo, Nguyễn Bình Phương… là những chất liệu hóa thân từ huyền thoại, huyền tích. Khuôn diện mới của sáng tác đòi hỏi người đọc phải có xu hướng giải mã mới và phê bình cổ mẫu càng trở nên đắc dụng. Trong công trình trên, Nguyễn Thị Thanh Xuân đã thành công khi lựa chọn Nguyễn Huy Thiệp - một trong những nhà văn tiêu biểu thời kì cuối thế kỷ XX để nối mạch trở lại với huyền thoại. Theo Nguyễn Thị Thanh Xuân cùng nối kết tương giao với vô thức tập thể nhân loại ngàn xưa, nhưng “Đất, Nước, Biển, Mưa, Lửa, Mẹ,... với tư cách là cổ mẫu, ám ảnh Nguyễn Huy Thiệp không kém Con người và đây chính là một trong những yếu tố quan trọng làm cho trang viết của ông có chiều sâu” [7, tr. 125]. Riêng thể loại tiểu thuyết đã có rất nhiều công trình Phê bình cổ mẫu lựa chọn làm đối tượng nghiên cứu. Có thể kể đến Nguyễn Thị Tùng trong Tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú từ góc nhìn phân tâm học đã dùng điểm tựa lý thuyết cổ mẫu để khảo sát về Lửa, Nước, Đất và sự phóng chiếu của chúng trong tiểu thuyết Kín, Phiên bản, Nháp, Hồ sơ một tử tù của Nguyễn Đình Tú. Trong Tiểu thuyết Việt Nam đương đại nhìn từ phân tâm học (2005) Nguyễn Minh Hoàng thông qua motif huyền thoại để diễn tả cái tâm linh hiện tại trong các tiểu thuyết Việt Nam đương đại. Khai thác tác phẩm Lời nguyền hai trăm năm tác giả nhận ra cuộc đời Hai Thìn “gắn liền với huyền thoại tuẫn nại và tái sinh của chúa Jesus, hay motif tái sinh trong truyện cổ Việt Nam” [2, tr. 32]. Còn “Trong tác phẩm Cõi người rung chuông tận thế của Hồ Anh Thái ta nghe vang vọng lời của thánh John trong kinh Tân ước” [2, tr. 34]. Tuy nhiên, sự vận dụng này chỉ nằm rải rác trong công trình chứ chưa tạo thành hệ thống luận điểm cụ thể, chuyên biệt. Công trình mang tính chất chuyên nhất có lẽ là Tiểu thuyết Việt Nam 2000 - 2010 từ góc nhìn Mẫu gốc (2010) của Nguyễn Quang Huy. Trên các đối tượng là Thoạt kỳ thủy, Mẫu Thượng Ngàn, Đi tìm nhân vật, Người sông mê, Lạc giới, Thạch anh vàng, Nguyễn Quang Huy đã tập trung chỉ ra sự biểu hiện các giá trị của mẫu gốc từ hai phương diện nội dung và nghệ thuật. Theo chúng tôi, đóng góp mới của công trình là người viết không chỉ dừng lại với mẫu gốc tự nhiên quen thuộc mà đã đi vào giải mã những mẫu gốc xã hội quan trọng như Anima, Animus và Self - vốn là khoảng trống trong các công trình trước đây. Xuất phát từ quan niệm của Jung cho rằng trong thế giới vô thức của mỗi cá thể luôn hiện diện tính lưỡng hợp của hai yếu tố Anima và Animus, Nguyễn Quang Huy sau khi đi sâu vào hệ thống nhân vật trong các tiểu thuyết như Tính (Thoạt kỳ thủy), “mình” (Thạch Anh Vàng), Từ Lộ - Từ Đạo Hạnh và Từ Lộ - Thần Tông (Giàn thiêu), Sang (Lạc giới) đã đi đến kết luận rằng “Sự nhập nhằng lưỡng thê đó đã tạo lập nên kiểu con người lưỡng tính từ cái nhìn của Mẫu gốc” [3, tr. 77]. Ngoài ra, qua việc “Truy nguyên những phẩm tính người” tác giả đã hướng tới Self, đi sâu dò tìm bản thể nguyên khởi của những khổ đau, hạnh phúc, tội ác trong tiểu thuyết Việt Nam. Khám phá mẫu gốc trong tiểu thuyết Việt Nam đầu thế kỷ XXI, Nguyễn Quang Huy không chỉ thông qua hệ thống các biểu tượng như rừng, lửa, nước, đá, trăng,… mà còn từ các motif thuyền thoại như motif
  6. 354 NGUYỄN DIỆU THÚY cây thiêng (cây Đa, cây Gạo, cây Sung), vật thiêng (Thần Cẩu, con Cú), motif cái song trùng (trăng đen và con cú, con chó và trăng). Ngoài ra, với áp lực thi pháp từ thể văn xuôi, trong công trình Nguyễn Quang Huy không quên đi trả lời câu hỏi “Vậy nhìn nghệ thuật nghiêng từ Mẫu gốc sẽ hi vọng gì cho một cuộc vén mở?”. Vén mở bức mành ngôn ngữ tác giả nhận ra “Chính cái thế giới ngôn ngữ đầy những ký hiệu tiềm ẩn ấy, xác định giá trị của nhà văn đương đại. Họ lồng vào thế giới nghệ thuật của mình, lồng vào chữ nhiều ám ảnh, nhiều ẩn ý, tạo ra nhiều lối đọc khác nhau” [3, tr. 61 - 62]. Ngoài ra, theo tác giả thời gian mà vô thức tập thể đã mang đến cho tác phẩm đó là thời gian tâm thức, tương hợp với nó có không gian tâm thức. Bên cạnh đó, Mẫu gốc còn chi phối đến nghệ thuật xây dựng nhân vật. Những khai phá trên của Nguyễn Quang Huy giúp ta nhận ra sự tham gia của cổ mẫu vào tiểu thuyết Việt Nam đã trở thành một cứu cánh nghệ thuật cho tác phẩm. Ngoài ra, thể Kịch cũng được nhà phê bình phân tích từ lý thuyết cổ mẫu. Trong công trình Thử lý giải bi kịch Mêđê dưới góc nhìn phê bình nữ quyền và phê bình phân tâm học (2013) Nguyễn Thị Mỹ Lộc cho rằng ở Mêđê có sự hồi quy của vô thức tập thể ở người phụ nữ về phức cảm mẫu quyền. Vô thức đó tìm được cái cớ hữu thức (sự phản bội của Dadông) để bùng nổ nên “Giết Dadông là để thị uy sức mạnh mẫu quyền nguyên thủy của Mêđê”. Mặc dù cách dẫn dắt vấn đề lôgíc, ý kiến khá mới mẻ, song quá trình phân tích tác giả lấy rất ít dẫn chứng nên nhiều nhận định trong bài còn thiếu sức thuyết phục. Như vậy, khảo sát sự vận dụng học thuyết về cổ mẫu trong phê bình văn học Việt Nam chúng tôi nhận thấy Phê bình cổ mẫu Việt Nam hướng đến khai thác cả cổ mẫu tự nhiên và cổ mẫu xã hội song cổ mẫu tự nhiên là chủ yếu. Điều này theo chúng tôi là lối tư duy quen thuộc của cộng đồng người sống giao hòa tự nhiên như người Việt ta. Trong đó, cổ mẫu Nước được các nhà phê bình đặc biệt quan tâm. Có lẽ do bắt nguồn từ vết hằn trong tâm thức người Việt xưa về một đất nước quay mặt ra biển và có tín ngưỡng thờ thần Mưa, sùng nước. Cũng có khi là phong cách của một dân tộc bao đời gắn liền với nghề trồng lúa nước. Mặt khác, văn hóa phương Đông và Việt Nam nói riêng vốn mang thiên tính nữ, thích ôn hòa. Bên cạnh đó một trong những thành tựu của Phê bình cổ mẫu Việt Nam là khi đi vào tìm hiểu cổ mẫu các nhà phê bình luôn nhìn thấy ở cổ mẫu Việt Nam những nét chung của nhân loại vừa nhận ra những bồi đắp riêng về sắc thái, biểu hiện. Đồng thời, họ khẳng định vai trò của nó trong việc chuyên chở suy tư của người Việt từ thời cổ sơ cho đến hiện tại. Ngoài ra, cũng như lý thuyết Freud sự vận dụng lý thuyết cổ mẫu vào phê bình văn học được mở rộng ở khá nhiều thể loại, nổi trội nhất là thơ ca (thời kì đầu) và tiểu thuyết (thời kỳ sau), còn truyện ngắn và kịch thì rất hạn chế. Điều này có thể hiểu đơn giản vì so với thể loại khác, thơ ca chứa đựng giàu nhất hệ thống biểu tượng và cũng là thể loại chịu sự tác động mạnh nhất của vô thức kể cả vô thức cá nhân và vô thức tập thể. Còn tiểu thuyết là thể loại mới và so với truyện ngắn nó phát triển mạnh mẽ hơn trong dòng chảy thể loại văn học Việt Nam. Một điểm đáng lưu ý nữa là nếu lý thuyết phân tâm của Freud thường được áp dụng trong văn học hiện đại đề cao vô thức cá nhân thì lý thuyết cổ mẫu của Jung tỏ ra đắc dụng khi đi vào khám phá mảnh đất văn học dân gian vốn gắn liền với tâm thức tập thể. Mặt khác, từ văn học dân gian đến thành văn, từ trung đại đến văn học hiện đại sự vận dụng lý thuyết cổ mẫu có nhiều đổi thay. Trước người ta chủ yếu khai thác cổ mẫu tự nhiên, sau cổ mẫu xã hội mới được chú ý; trước chủ yếu là cổ mẫu huyền thoại, sau các nhà phê bình đã biết chộp lấy chỉ một mảnh của cổ mẫu huyền thoại và cấu trúc lại theo cách của riêng mình, từ đó cổ mẫu tân sinh có dịp chào đời như cách nói của Nguyễn Thị Thanh Xuân “Cổ mẫu từ huyền thoại, như phấn thông vàng, một chiều ngã gió, đã bay đầy không gian văn học và kết nên quả mới” [7, tr. 128]. Khác với phê bình theo lý thuyết của Freud khai thác vô thức cá nhân nên tiếp cận tác phẩm từ hai lối là tác giả và văn bản phê bình cổ mẫu phải thông qua văn bản - môi trường của cổ mẫu để tìm hiểu vô thức tập
  7. SỰ HIỆN DIỆN CỦA PHÊ BÌNH CỔ MẪU Ở VIỆT NAM 355 thể. Chú trọng vào văn bản, các nhà Phê bình cổ mẫu Việt Nam khai thác cổ mẫu nhìn từ hai bình diện nội dung tư tưởng và phương thức thể hiện. Tuy nhiên, phải nhận thấy rằng, Phê bình cổ mẫu ở Việt Nam thường quên lồng ghép vấn đề hình thức nghệ thuật, thi pháp vào nội dung khi phân tích tác phẩm và đa số thường thông qua hệ thống biểu tượng để lần ra cổ mẫu mang dấu ấn vô thức tập thể. Theo đánh giá của học giả Hoa Kì, Phê bình cổ mẫu cùng với phê bình macxit, phê bình cấu trúc, xứng đáng được gọi là “những mô thức phê bình thực sự mang tính chất quốc tế”. Với Việt Nam, Phê bình cổ mẫu “cũ người mới ta”, con đường đó ít nhiều còn thô sơ và chưa có nhiều người đi như con đường Freud nhưng sẽ là lựa chọn đầy hứa hẹn cho nhà phê bình thám hiểm cái mới. Mặt khác, văn học Việt Nam nói như Nguyễn Thị Thanh Xuân “chi chít những cổ mẫu”, đặc biệt thực tiễn sáng tạo văn chương cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI là thâm nhập sâu vào thế giới tiềm thức, tầng sâu văn hóa và huyền thoại, nên dẫu còn nhiều hạn chế song chúng ta hoàn toàn có thể tin tưởng vào tính khả quan trong hành trình của Phê bình cổ mẫu ở Việt Nam. Đến với Phê bình cổ mẫu theo chúng tôi là cách tựa vào dĩ vãng để băng mình về tương lai tạo thành hợp lực đẩy con thuyền phê bình phân tâm và nền phê bình văn học Việt Nam sớm chạm đến bờ. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Hồ Thế Hà (2012). “Thơ Nguyễn Quang Thiều nhìn từ mẫu gốc”, Tạp chí Nhà văn, số 6. [2] Nguyễn Minh Hoàng (2005). Tiểu thuyết Việt Nam đương đại nhìn từ phân tâm học, Luận văn thạc sĩ, ĐHSP Huế. [3] Nguyễn Quang Huy (2010). Tiểu thuyết Việt Nam 2000 - 2010 từ góc nhìn mẫu gốc, Luận văn thạc sĩ, ĐHSP Huế. [4] Lê Đức Luận (2010). “Cảm nhận Trầu cau từ tâm thức huyền thoại”, Văn hóa nghệ thuật, số 308. [5] Murray Stein (Bùi Lưu Phi Khanh dịch) (2011). Bản đồ tâm hồn con người của Jung, NXB Tri thức. [6] Đỗ Lai Thúy (2009). Bút pháp của ham muốn, NXB Tri thức. [7] Nguyễn Thị Thanh Xuân (2007). “Đi tìm cổ mẫu trong văn học Việt Nam”, Nghiên cứu văn học, số 1. [8] Nguyễn Thị Thanh Xuân (2010). Phê bình cổ mẫu và cổ mẫu nước trong văn chương Việt Nam, http://vanhoanghean.com.vn, 21/10/2010. Title: THE PRESENCE OF ARCHETYPAL CRITICISM IN VIET NAM Abstract: This paper provides a general overview of the presence of Archetypal Criticism in Viet Nam. The paper primarily analyzes the achievements and limitations of Archetypal Criticism in Viet Nam in comparison with Psychoanalytic Criticism based on Freud’s theory. Notably, we place enormous emphasis on the outstanding achievements of the papers by young critics. The paper also makes an attempt to explain the reasons and predict the future role of Archetypal Criticism in the evolution of national literary criticism. The paper is structured into three sections: 1) The theory by C.G. Jung and Archetypal Criticism; 2) The Application of Archetypal Criticism in Viet Nam’s Folk and Medieval Literature; 3) The Application of Archetypal Criticism in Viet Nam’s Modern Literature. Keywords: archetypal criticism, Vietnam NGUYỄN DIỆU THÚY Học viên Cao học, chuyên ngành Lý luận văn học, khóa 21 (2012-2014), Trường Đại học Sư phạm – Đại học Huế
nguon tai.lieu . vn