Xem mẫu
- INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2020
ICYREB 2020
SỬ DỤNG CÔNG CỤ QUẢN LÝ RỦI RO DANH MỤC CHO VAY
TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
USING RISK MANAGEMENT TOOLS FOR LOAN PORTFOLIOS
IN COMMERCIAL BANKS IN VIETNAM
ThS. Nguyễn Bích Ngân – Học viện Ngân hàng
ngannb@hvnh.edu.vn
Tóm tắt
Trong hàng thập kỉ, để quản lý rủi ro danh mục cho vay, các nhà quản trị ngân hàng đã
tập trung phần lớn nỗ lực của mình vào việc đưa ra các quyết định cho vay cẩn trọng và giám
sát sau cho vay kĩ lưỡng. Mặc dù các hành động kiểm soát này vẫn tiếp tục được duy trì ở hiện
tại, nhưng phân tích về các vấn đề tín dụng đã xảy ra đối với các ngân hàng thương mại (NHTM)
trong quá khứ như rủi ro liên quan tới các danh mục cho vay ngành dầu khí, nông nghiệp và bất
động sản những năm 1980 tại các NHTM trên thế giới cho thấy, các công cụ của quản lý rủi ro
danh mục cho vay cần phải được bổ sung thêm. Trước đây, các công cụ quản lý rủi ro đối với
danh mục cho vay tập trung nhiều vào các chỉ báo về chất lượng khoản vay như tình hình nợ quá
hạn, nợ dưới chuẩn hay xu hướng biến đổi trong xếp hạng tín dụng. Tuy vậy, các NHTM nhận
thấy rằng các chỉ báo như trên là không đủ giúp họ có các hành động kịp thời để đối phó với rủi
ro tín dụng, đặc biệt khi đồng thời nền kinh tế đang gia tăng các rủi ro hệ thống.
Như vậy, quản lý rủi ro danh mục cho vay hiệu quả vẫn cần bắt đầu với việc kiểm soát
chất lượng của từng khoản vay trong danh mục. Nhưng bên cạnh đó, việc phát triển các công cụ
quản lý rủi ro mới trên nền tảng công nghệ và hệ thống thông tin đa chiều đã và đang là xu thế
tại các NHTM trên thế giới. Tuy vậy, thực tế cho tới ngày nay, không nhiều các NHTM đã áp
dụng được các công cụ quản lý rủi ro danh mục cho vay hiện đại như trên. Vì thế, nghiên cứu
này đưa ra thực trạng về sử dụng công cụ quản lý rủi ro danh mục cho vay tại các NHTM Việt
Nam, từ đó đưa ra một số khuyến nghị về sử dụng công cụ quản lý rủi ro danh mục cho vay tại
các NHTM.
Từ khoá: Quản lý rủi ro tín dụng, Danh mục cho vay, Công cụ quản lý rủi ro tín dụng
Abstract
For a decade, in purpose of credit risk management in loan portfolio, bank managers have
focused in credit decision and credit monitoring. Although these methods are still applied at the
present, problems with credit portfolio in the past such as oil, agriculture and real-estate portfolio
during 1980s revealed the requirements of more tools for credit risk management. Before, tools
for credit risk management of loan porfolio are often indicators of loans’ quality like non-
performing loan ratio, over-due loan ratio or changes in credit rating. However, banks have
realized that these kinds of indicators are not sufficient for in-time actions toward credit risk,
1327
- INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2020
ICYREB 2020
especially when systematical risks in the economy increase. In that order, soundness tools for
credit risk management of loan portfolio are still concentrated for each loan item in the portfolio,
in combination with modern tools in the context of new technology era. In fact, small number of
banks in Viet Nam have applied these modern tools. By this reason, the research aims at pointing
out facts and giving solutions of using tools and techniques for credit risk management of loan
portfolio in Vietnamese commercial banks.
Key words: Credit Risk management, Loan portfolio, Tools for credit risk management
1. Giới thiệu nghiên cứu
Trong hàng thập kỉ, để quản lý rủi ro danh mục cho vay, các nhà quản trị ngân hàng đã tập
trung phần lớn nỗ lực của mình vào việc đưa ra các quyết định cho vay cẩn trọng và giám sát sau
cho vay kĩ lưỡng. Mặc dù các hành động kiểm soát này vẫn tiếp tục được duy trì ở hiện tại, nhưng
phân tích về các vấn đề tín dụng đã xảy ra đối với các NHTM trong quá khứ như rủi ro liên quan
tới các danh mục cho vay ngành dầu khí, nông nghiệp và bất động sản những năm 1980 tại các
NHTM trên thế giới cho thấy, các công cụ của quản lý rủi ro danh mục cho vay cần phải được
bổ sung thêm. Trước đây, các công cụ quản lý rủi ro đối với danh mục cho vay tập trung nhiều
vào các chỉ báo về chất lượng khoản vay như tình hình nợ quá hạn, nợ dưới chuẩn hay xu hướng
biến đổi trong xếp hạng tín dụng. Tuy vậy, các NHTM nhận thấy rằng các chỉ báo như trên là
không đủ giúp họ có các hành động kịp thời để đối phó với rủi ro tín dụng, đặc biệt khi đồng thời
nền kinh tế đang gia tăng các rủi ro hệ thống. Như vậy, quản lý rủi ro danh mục cho vay hiệu quả
vẫn cần bắt đầu với việc kiểm soát chất lượng của từng khoản vay trong danh mục. Nhưng bên
cạnh đó, việc phát triển các công cụ quản lý rủi ro mới trên nền tảng công nghệ và hệ thống thông
tin đa chiều đã và đang là một xu thế tại các NHTM trên thế giới. Tuy vậy, thực tế cho tới ngày
nay, không nhiều các NHTM đã áp dụng được các công cụ quản lý rủi ro danh mục cho vay hiện
đại như trên.
Tại Việt Nam, trước xu thế hội nhập cùng với thay đổi trong các quy định pháp lý hướng
tới một hệ thống NHTM an toàn, hiệu quả và tiệm cận với các chuẩn mực quốc tế hiện đại về
quản lý ngân hàng, các NHTM đã đạt được một số thành công nhất định trong việc áp dụng các
công cụ mới vào quản lý rủi ro tín dụng nói chung và quản lý rủi ro danh mục cho vay nói riêng.
Tuy nhiên, bởi nhiều lí do mà việc quản lý rủi ro danh mục cho vay tại các NHTM Việt Nam vẫn
tồn tại một số hạn chế. Cụ thể, công cụ quản lý rủi ro danh mục cho vay tại các NHTM hiện nay
phần lớn vẫn tập trung vào công cụ quản lý rủi ro với từng khoản vay riêng biệt mà thiếu đi những
phương pháp, công cụ quản lý rủi ro hiện đại trên phạm vi toàn danh mục. Vì vậy, danh mục cho
vay tại các NHTM vẫn còn tiềm ẩn nhiều rủi ro mà hệ luỵ là danh mục cho vay được cơ cấu kém,
rủi ro tín dụng không được nhận diện kịp thời, mức nợ xấu cao tại NHTM trong suốt giai đoạn
từ cuối năm 2011 trở về sau.
Vì thế, mục tiêu tổng quát của nghiên cứu này là đưa ra bức tranh khái quát về sử dụng
công cụ quản lý rủi ro danh mục cho vay tại các NHTM Việt Nam. Để thực hiện mục tiêu tổng
1328
- INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2020
ICYREB 2020
quát này, nghiên cứu hướng tới ba mục tiêu cụ thể là: thứ nhất, khái quát hoá các nghiên cứu
trong và ngoài nước hiện có về sử dụng công cụ quản lý rủi ro danh mục cho vay tại NHTM; thứ
hai, phân tích thực trạng sử dụng công cụ quản lý rủi ro danh mục cho vay tại các NHTM Việt
Nam; thứ ba, đưa ra một số khuyến nghị đối với các NHTM Việt Nam về sử dụng công cụ quản
lý rủi ro danh mục cho vay.
2. Tổng quan nghiên cứu về công cụ quản lý rủi ro danh mục cho vay
2.1. Nghiên cứu về nhóm các công cụ hiện đại
Về nhóm công cụ hiện đại trong quản lý rủi ro danh mục cho vay, theo như nghiên cứu của
hầu hết các nhà kinh tế thì các sản phẩm phái sinh tín dụng đang nổi lên như một biện pháp giảm
thiểu, phòng tránh tác động của rủi ro danh mục tín dụng hiện đại và khá hiệu quả. Số lượng các
nghiên cứu trong và ngoài nước về các sản phẩm phái sinh tín dụng này là khá đồ sộ, một vài các
nghiên cứu tiêu biểu trong số đó như sau:
aHuỳnh Thị Hương Thảo (2014) đã đưa ra góc nhìn khái quát về sự phát triển và thực
trạng của thị trường phái sinh tín dụng trên thế giới và Việt Nam. Từ những đánh giá này, tác giả
chỉ ra nguyên nhân của những hạn chế trong phát triển thị trường này tại Việt Nam, điều này
khiến cho các công cụ này chưa được các NHTM biết tới nhiều và chưa được sử dụng trên thực
tế quản lý rủi ro tín dụng tại ngân hàng. Từ đó, tác giả đề xuất các kiến nghị và điều kiện cần
thiết để thúc đẩy sự phát triển của thị trường phái sinh tín dụng tại Việt Nam.
aNguyễn Thị Châu Long và Trần Thụy Ái Phương (2014) nghiên cứu về đặc điểm của
các công cụ phái sinh tín dụng cũng như thực trạng việc sử dụng các công cụ này trong quản lý
rủi ro tín dụng tại ngân hàng TMCP Ngoại Thương Việt Nam. Các phân tích thực trạng việc sử
dụng công cụ phái sinh tín dụng được nghiên cứu tại công trình này cho thấy, việc áp dụng nhóm
công cụ này chưa phổ biến tại các NHTM Việt Nam nói chung và tại NHTM được nghiên cứu
cũng chưa sử dụng các công cụ phái sinh để phòng ngừa rủi ro tín dụng được lý thuyết chỉ ra
như: trái phiếu liên kết rủi ro tín dụng, hợp đồng hoán đổi rủi ro tín dụng, hợp đồng quyền chọn
tín dụng và hợp đồng hoán đổi tổng thu nhập. Tại công trình này, các tác giả cũng đưa ra một số
đề xuất về phía Nhà nước và bản thân NHTM cần thực hiện để đẩy mạnh việc sử dụng các công
cụ này trong giảm thiểu rủi ro tín dụng trên thực tiễn.
aNguyễn Minh Sáng và Nguyễn Thị Lan Hương (2013) giới thiệu về việc sử dụng các
công cụ ngoại bảng, bao gồm các công cụ tài chính phái sinh, để gia tăng lợi nhuận cũng như
giảm thiểu rủi ro trong hoạt động của NHTM. Đồng thời, vì giao dịch ngoại bảng cũng sẽ tạo ra
rủi ro cho ngân hàng, do đó nhóm tác giả còn đưa ra khuyến nghị cho các ngân hàng về việc
quản lý rủi ro cho các hoạt động ngoại bảng này, từ đó giúp các NHTM có cách nhìn nhận toàn
diện hơn về các công cụ trên. Theo nhận định trong nghiên cứu của nhóm tác giả, tại Việt Nam
hiện nay đã xuất hiện nhiều yếu tố tiềm năng để phát triển hoạt động ngoại bảng, riêng thị trường
phái sinh tín dụng có thể sẽ sớm hình thành tại Việt Nam. Thêm vào đó, dự báo về sự phát triển
trong tương lai của nhóm công cụ phái sinh tín dụng trong quản lý rủi ro danh mục tín dụng được
cho là do nhu cầu sử dụng để phòng ngừa rủi ro là rất lớn xuất phát từ nhiều nguyên nhân tại
1329
- INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2020
ICYREB 2020
danh mục tín dụng như: nợ xấu và nợ quá hạn vẫn ở mức cao, mức độ tập trung tín dụng cao tại
các NHTM. Hơn nữa, với phương thức quản lý rủi ro này, các NHTM không cần điều chỉnh danh
mục tín dụng hiện tại của mình, điều này là phù hợp trong xu hướng chuyên môn hoá trong các
lĩnh vực cho vay của các NHTM Việt Nam hiện nay.
aBluhm, Overbeck và Wegner (2010) đã nghiên cứu về cách thức phân loại, cấu trúc,
nguyên tắc trao đổi các dòng tiền, cũng như vai trò của sản phẩm nghĩa vụ nợ thế chấp (Collateral
Debt Obligation - CDO) như một công cụ phái sinh hiện đại giúp NHTM có thể quản lý rủi ro
trên phạm vi toàn bộ danh mục tín dụng của mình, trong đó có danh mục cho vay. Tuy vậy thực
tế, việc sử dụng các sản phẩm phái sinh tín dụng tại các NHTM chưa được phổ biến do nguyên
nhân từ rủi ro đạo đức và lựa chọn đối nghịch. Trên nền tảng lý luận này, luận án sẽ đưa ra một
số kiến nghị góp phần đưa phái sinh tín dụng trở thành một công cụ hiệu quả hơn trong quản lý
rủi ro danh mục cho vay trên thị trường Việt Nam.
aLê Hồ An Châu (2006) tập trung phân tích về các hạn chế và từ đó đưa ra các điều kiện
cần thiết để phát triển thị trường phái sinh tín dụng tại Việt Nam. Nghiên cứu này đưa ra các
khuyến nghị và đề xuất khá chi tiết về các yếu tố thúc đẩy thị trường như: hành lang pháp lý,
phát triển thị trường các công cụ nợ, các trang bị hiểu biết và công cụ quản lý cho các giao dịch
phái sinh tín dụng tại NHTM, vai trò của các cơ quan quản lý nhà nước…Tuy vậy trong nghiên
cứu này, thực trạng về sử dụng các công cụ phái sinh tín dụng này tại NHTM chưa được chỉ ra.
aNghiên cứu được thực hiện bởi Minton, Stulz và Williamson (2005) đã cho thấy tại các
NHTM Hoa Kì, công cụ này tỏ ra có tác dụng tốt khi giúp giảm thiểu rủi ro cho cả danh mục tín
dụng bởi ưu điểm của công cụ này là không quan trọng loại khoản vay được bảo hiểm bởi công
cụ đó là gì.
2.2. Nghiên cứu về nhóm các công cụ truyền thống
Thứ nhất, về đa dạng hoá danh mục cho vay. Trong nhóm các công cụ truyền thống để
quản lý rủi ro danh mục cho vay, đa dạng hoá danh mục được sử dụng như công cụ khá phổ biến
tại các NHTM và có nhiều nghiên cứu thực tiễn được đưa ra về tính hiệu quả của công cụ này
trên các NHTM tại các thị trường khác nhau, ví dụ như:
aCác nghiên cứu của Nguyễn Thị Quế Thu (2016), Bùi Diệu Anh (2010) đều chỉ ra lợi
ích của việc đa dạng hoá danh mục cho vay là không chỉ giúp NHTM gia tăng lợi nhuận mà còn
giúp giảm thiểu rủi ro tập trung danh mục. Bên cạnh đó, Nguyễn Minh Hiếu (2011) còn đưa ra
cụ thể hoá các giải pháp đa dạng hoá danh mục cho vay đối với một NHTM được nghiên cứu
theo từng khía cạnh về ngành kinh tế, loại hình doanh nghiệp, quy mô doanh nghiệp, kì hạn cho
vay, hình thức bảo đảm….và cách kết hợp các tiểu danh mục theo từng tiêu thức khác nhau thành
một danh mục cho vay có hiệu quả. Như vậy, các nghiên cứu trong nước đã chỉ rõ lợi ích của đa
dạng hoá danh mục cho vay như một công cụ được sử dụng phổ biến và có hiệu quả trong quản
lý rủi ro tại các NHTM Việt Nam.
aRossi, Schwaiger và Winkler (2009) nghiên cứu về mức độ ảnh hưởng của việc đa dạng
hóa danh mục cho vay đến rủi ro, tính hiệu quả và khả năng vốn hóa của các ngân hàng Úc. Với
1330
- INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2020
ICYREB 2020
mục đích tương tự, Kamp, Pfingsten và Prath (2005) tập trung nghiên cứu về mức độ đa dạng
hóa danh mục các khoản vay tại các ngân hàng của Đức và ảnh hưởng của nó đến danh mục cho
vay của ngân hàng.
Thứ hai, về mua bán nợ. Mua bán nợ là công cụ để quản lý rủi ro trên phạm vi danh mục
cho vay đã được các NHTM sử dụng từ nhiều năm trước, như được đề cập tới trong nghiên cứu
của Smithson (2003). Tác giả này đưa ra khá chi tiết về các nội dung: khái niệm, các chủ thể
tham gia, sự phát triển của thị trường mua bán nợ ngân hàng trên thế giới từ những năm 1970.
Với các nghiên cứu tại Việt Nam về công cụ mua bán nợ, các nghiên cứu hướng tới những
mục tiêu nghiên cứu khá đa dạng xoay quanh nội dung này như pháp luật về giao dịch mua bán
nợ, thực trạng thị trường mua bán nợ tại Việt Nam và khuyến nghị chính sách để phát triển thị
trường, hoạt động của công ty mua bán nợ của tổ chức tín dụng… Tuy vậy không có nhiều các
nghiên cứu trong nước đưa ra được góc nhìn tổng quan về thực trạng việc sử dụng công cụ này
trong quản lý rủi ro tín dụng tại các NHTM. Một số các công trình tiêu biểu có thể kể tới như:
aHuỳnh Thị Hương Thảo (2019) sử dụng mô hình định lượng để đánh giá tác động của
rủi ro tín dụng tới hiệu quả hoạt động của NHTM, từ đó nhấn mạnh việc quản lý rủi ro nhằm hạn
chế tác động của rủi ro tín dụng là cần thiết để cải thiện hoạt động ngân hàng. Một trong số các
đề xuất nhằm quản lý rủi ro tín dụng mà tác giả đưa ra là phát triển thị trường mua bán nợ, đây
được xem là giải pháp quan trọng giúp NHTM xử lý các khoản nợ xấu triệt để.
aHoàng Thị Duyên (2016) đưa ra đánh giá tổng quan về thực trạng nợ xấu toàn hệ thống
NHTM Việt Nam dựa theo kết quả nghiên cứu của Vietnam Report thực hiện cùng năm, từ đó
đưa ra những kiến nghị để kiểm soát nợ xấu và hạn chế các tác động tiêu cực tới nền kinh tế.
Theo đó việc xử lý nợ xấu của hệ thống sẽ có vai trò rất quan trọng của Công ty quản lý tài sản
của các tổ chức tín dụng (VAMC) với tư cách là đối tác mua bán nợ xấu với tổ chức tín dụng tại
Việt Nam. Theo tác giả, việc tạo điều kiện thuận lợi để phát triển thị trường mua bán nợ và nâng
cao hiệu quả hoạt động của VAMC là hai nhiệm vụ trọng tâm cần thực hiện liên quan tới giải
pháp mua bán nợ để xử lý nợ xấu tại các tổ chức tín dụng Việt Nam hiện nay.
aĐào Duy Huân (2013) thông qua đánh giá thực trạng thị trường mua bán nợ tại Việt
Nam, tác giả cho rằng tại Việt Nam, nợ xấu phát sinh cao nhưng thị trường mua bán nợ lại chưa
phát triển, do đó việc xây dựng một thị trường mua bán nợ quốc gia được xem là giải pháp để
giải cứu nút thắt nợ xấu trong hệ thống tài chính nói chung và hệ thống các tổ chức tín dụng nói
riêng. Cơ sở cho nhận định này là bởi theo khảo sát ý kiến các chuyên gia tại nghiên cứu này, nợ
xấu có thể được xử lý nhanh thông qua thị trường mua bán nợ, hơn nữa còn giúp tránh những hệ
lụy tiêu cực mà nợ xấu để lại cho nền kinh tế. Từ đó, tác giả đưa ra ba điều kiện cần thiết thực
hiện để hình thành thị trường mua bán nợ cho các tổ chức tín dụng tại Việt Nam, đồng thời đề
xuất tám nhóm giải pháp để hỗ trợ thị trường mua bán nợ này hoạt động hiệu quả.
1331
- INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2020
ICYREB 2020
Bảng 1: Tóm tắt các công cụ quản lý rủi ro danh mục cho vay
được đưa ra tại các nghiên cứu
STT Công cụ được nghiên cứu Tác giả (Năm thực hiện nghiên cứu)
- Huỳnh Thị Hương Thảo (2014)
- Nguyễn Thị Châu Long và Trần Thụy Ái Phương
(2014)
1 Công cụ phái sinh tín dụng - Nguyễn Minh Sáng và Nguyễn Thị Lan Hương
(2013)
- Bluhm, C., Overbeck, L. và Wegner, C. (2010)
- Lê Hồ An Châu (2006)
- Minton, B., Stulz, R. và Williamson, R. (2005)
- Smithson, C. (2003)
- Nguyễn Thị Quế Thu (2016)
- Nguyễn Minh Hiếu (2011)
2 Đa dạng hoá danh mục cho vay - Bùi Diệu Anh (2010)
- Rossi, S., Schwaiger, M. và Winkler, G. (2009)
- Kamp, A., Pfingsten, A. và Prath, D. (2005)
Sản phẩm của chứng khoán - Bluhm, C., Overbeck, L. và Wegner, C. (2010)
3 hoá các khoản vay (CDO) - Smithson, C. (2003)
- Huỳnh Thị Hương Thảo (2019)
4 Mua bán nợ - Hoàng Thị Duyên (2016)
- Đào Duy Huân (2013)
- Smithson, C. (2003)
Nguồn: Tác giả tổng hợp
3. Thực trạng sử dụng công cụ quản lý rủi ro danh mục cho vay tại các NHTM Việt Nam
3.1. Phương pháp nghiên cứu
Để đưa ra các đánh giá về thực trạng sử dụng công cụ quản lý rủi ro danh mục cho vay tại
các NHTM Việt Nam, tác giả dựa trên phương pháp khảo sát trên mẫu nghiên cứu gồm 16 NHTM
cụ thể như sau:
Nguồn: Tác giả
Biểu đồ 1: Cơ cấu mẫu nghiên cứu
1332
- INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2020
ICYREB 2020
Trong đó:
iNhóm 1: bao gồm nhóm 09 ngân hàng được lựa chọn triển khai Basel II theo quy định
của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) là NHTMCP Đầu tư và phát triển Việt Nam (BIDV),
NHTMCP Công Thương Việt Nam (VietinBank), NHTMCP Ngoại Thương Việt Nam (Vietcom-
bank), NHTMCP Kĩ thương (Techcombank), NHTMCP Á Châu (ACB), NHTMCP Việt Nam
Thịnh Vượng (VPBank), NHTMCP Quân Đội (MB), NHTMCP Hàng Hải (Maritime Bank) và
NHTMCP Quốc Tế (VIB).
iNhóm 2: bao gồm 07 NHTM Việt Nam không nằm trong nhóm 09 ngân hàng trên là
NHTMCP Phát triển nhà Thành phố Hồ Chí Minh (HD Bank), NHTMCP An bình (AB Bank),
NHTMCP Bảo Việt (Bao Viet bank), NHTMCP Đại Chúng (PVcomBank), NHTMCP Xăng dầu
Petrolimex (PG bank), NHTMCP Sài Gòn thương tín (Sacombank) và NHTMCP Quốc dân
(NCB). Trong nhóm này có một số ngân hàng đã thực hiện triển khai Basel II dù chưa nằm trong
diện triển khai thí điểm của NHNN, còn một số các ngân hàng hoàn toàn chưa bắt đầu quá trình
triển khai Basel II hoặc chưa có định hướng rõ ràng về việc này.
Khảo sát gồm 22 vấn đề được đưa ra, hướng tới đối tượng trả lời là các cán bộ làm việc tại
các bộ phận liên quan tới nghiệp vụ quản lý rủi ro danh mục cho vay tại các NHTM, trong khoảng
thời gian từ 1/1/2019 đến 31/12/2019. Các đối tượng được khảo sát tham gia trả lời các câu hỏi
liên quan tới các mảng nội dung về thực hiện quản lý rủi ro danh mục cho vay tại NHTM của
mình, cùng với các đánh giá chủ quan về các vấn đề được đưa ra dựa trên thang điểm gồm bốn
mức từ 1 đến 41 như sau:
- Mức điểm 1: Chưa áp dụng hoặc mới áp dụng từ 10% trở xuống
- Mức điểm 2: Áp dụng trên 10% đến 50%
- Mức điểm 3: Áp dụng trên 50% đến dưới 100%
- Mức điểm 4: Thực hiện áp dụng đầy đủ 100%
Dưới đây là khái quát về kết quả thực hiện khảo sát được thực hiện tại luận án:
Bảng 2: Tổng hợp kết quả thực hiện khảo sát tại luận án
Nội dung Kết quả thực hiện
Số lượng phiếu khảo sát phát ra 50 (phiếu)
Số lượng phiếu khảo sát nhận về 38 (phiếu)
Thời gian nhận phản hồi (số ngày trung bình từ lúc 37,1 (ngày)
phát phiếu đến lúc nhận phiếu)
Tỷ lệ số câu hỏi được trả lời trong mỗi phiếu khảo 87,4%
sát nhận về (số trung bình)
1. Thang điểm này được thực hiện theo Cơ quan thanh tra giám sát ngân hàng - Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam về yêu cầu các NHTM báo cáo tình hình thực hiện triển khai Basel II theo công văn số
212/NHNN-TTGSNH
1333
- INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2020
ICYREB 2020
Bộ phận làm việc của cán bộ trả lời khảo sát - Khối quản lý rủi ro: Phòng quản lý rủi ro tín
dụng
- Khối tác nghiệp: Phòng quản lý tín dụng, Phòng
tín dụng
Chức vụ cao nhất của cán bộ trả lời khảo sát Phó giám đốc khối quản lý rủi ro
Kinh nghiệm làm việc tại bộ phận hiện tại của cán
bộ trả lời khảo sát (số trung bình năm làm việc) 4,3 (năm)
Nguồn: Tác giả
3.2. Các kết quả nghiên cứu chính
3.2.1. Về nhóm các công cụ truyền thống
3.2.1.1.Về các công cụ quản lý rủi ro tín dụng với từng khoản vay trong danh mục
Các NHTM Việt Nam hiện đã thực hiện được các phương pháp sau để quản lý rủi ro tín
dụng trên từng khoản vay:
hPhân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro tín dụng: Hiện nay các NHTM đều thực hiện
phân loại nợ theo chuẩn mực được quy định tại Thông tư 02/2013/TT-NHNN. Ngoài việc phân
loại nợ thành 05 nhóm theo quy định, mỗi NHTM còn thực hiện chi tiết hơn bằng việc xây dựng
hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ và phân loại nợ theo hệ thống nội bộ này. Cũng theo khảo sát,
100% các NHTM thuộc mẫu nghiên cứu đều đã xây dựng được hệ thống này nhưng khác nhau
về phương pháp xây dựng và kết quả vận hành trên thực tế.
hNâng cao chất lượng tín dụng bằng việc thực hiện tốt các bước trong quy trình cấp tín
dụng, đặc biệt khâu giám sát sau cho vay: Dù hiện nay tất cả các NHTM đều có quy định về quy
trình tín dụng rất chi tiết trong sổ tay tín dụng, nhưng những hạn chế trong quản trị rủi ro tín
dụng vẫn xuất hiện, có thể do những nguyên nhân bao gồm việc mở rộng tín dụng quá mức, đồng
nghĩa với việc lựa chọn khách hàng kém kỹ càng, khả năng giám sát việc sử dụng khoản vay
yếu, việc tuân thủ theo quy trình tín dụng bị lơi lỏng. Bên cạnh đó, sự yếu kém của đội ngũ cán
bộ, nhân viên ngân hàng cũng dễ dẫn tới nguy cơ rủi ro tín dụng.
hTriển khai bảo hiểm tín dụng cho từng khoản vay: Bảo hiểm tín dụng là một hình thức
bảo hiểm tự thoả thuận giữa NHTM với khách hàng, giúp người vay trả nợ ngân hàng khi họ
không may gặp rủi ro không lường trước. Khi khách hàng mua bảo hiểm khoản vay, số tiền khách
hàng chi trả cho bảo hiểm sẽ dựa trên gói vay của mình tại ngân hàng. Sau khi khách hàng mua
bảo hiểm, trong trường hợp khách hàng không may gặp phải những rủi ro không lường trước
được hoặc tài sản mà khách hàng dùng trong vay thế chấp xảy ra các sự cố, công ty bảo hiểm sẽ
trả nợ thay khách hàng.
1334
- INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2020
ICYREB 2020
Nguồn: Khảo sát của tác giả
Biểu đồ 2: Tỷ lệ NHTM tham gia bảo hiểm tín dụng
Về mặt lý thuyết, hình thức bảo hiểm tín dụng sẽ giúp NHTM giảm thiểu được rất nhiều
rủi ro do người đi vay không thực hiện được nghĩa vụ trả nợ, đồng thời NHTM cũng dễ chấp
thuận cho vay hơn với những khoản vay được mua bảo hiểm này. Về tính pháp lý, việc thực hiện
hình thức bảo hiểm rủi ro này được NHTM tuân thủ theo các nguyên tắc tín dụng quy định tại
Thông tư 39/2016/TT-NHNN. Trên thực tế, rất nhiều các NHTM đã triển khai sản phẩm này, tuy
vậy mới áp dụng phần lớn trên sản phẩm vay tín chấp và thẻ tín dụng, chứ chưa mở rộng ra các
sản phẩm khác. Cụ thể hơn, kết quả khảo sát trên mẫu nghiên cứu tại biểu đồ trên cho thấy, chưa
tới một nửa các NHTM nhóm 2 đã sử dụng sản phẩm bảo hiểm tín dụng này. Điều này cho thấy
nhóm các NHTM nhóm này chưa chú trọng vào việc bảo hiểm rủi ro cho khoản vay có thể do
nguyên nhân về mục tiêu mở rộng quy mô danh mục cho vay và đảm bảo tỷ lệ sinh lời mục tiêu,
điều này trái ngược với các NHTM nhóm 1 với 100% các NHTM đều đã áp dụng sản phẩm này
trên các khoản cho vay của mình.
3.2.1.2. Về đa dạng hoá danh mục cho vay
Trên thực tế, theo kết quả nghiên cứu báo cáo tài chính của NHTM, hiện nay danh mục
cho vay của các NHTM Việt Nam được cơ cấu theo các tiêu chí sau đây:
Bảng 2: Cơ cấu danh mục cho vay của các NHTM
Khoản mục Tiểu mục chi tiết
1. Danh mục cho vay theo thời hạn 1.1. Cho vay ngắn hạn
1.2. Cho vay trung hạn
1.3. Cho vay dài hạn
2. Danh mục cho vay theo ngành kinh tế 2.1. Cho vay ngành công nghiệp
2.1. Cho vay ngành nông nghiệp
2.1. Cho vay ngành xây dựng
2.1. Cho vay ngành giao thông vận tải
2.1. cho vay tiêu dùng
................
1335
- INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2020
ICYREB 2020
3. Danh mục cho vay theo khu vực địa lý 3.1. Khu vực miền Bắc
3.1. Khu vực miền Trung
3.1. Khu vực miền Nam
4. Danh mục cho vay theo đối tượng khách 4.1. Doanh nghiệp sở hữu Nhà nước
hàng 4.2. Công ty TNHH & Cổ phần
4.3. Công ty 100% vốn nước ngoài
4.4. Công ty liên doanh
4.5. Hợp tác xã
4.6. Cá nhân
5. Danh mục cho vay theo loại tiền tệ 5.1. Cho vay nội tệ
5.2. Cho vay ngoại tệ
6. Danh mục cho vay theo lĩnh vực đầu tư 6.1. Cho vay sản xuất
6.2. Cho vay phi sản xuất
7. Danh mục cho vay theo tính chất đảm bảo 7.1. Cho vay có đảm bảo
7.2. Cho vay không có đảm bảo
8. Danh mục cho vay theo hình thức 8.1. Cho vay ứng trước
8.2. Cho vay chiết khấu giấy tờ có giá
8.3. Cho thuê tài chính
.........
Nguồn: Tổng hợp của tác giả theo Báo cáo tài chính của các NHTM
Về cơ cấu danh mục theo ngành nghề kinh tế, nằm trong lộ trình thực hiện đề án tái cơ cấu
các tổ chức tín dụng tại Việt Nam, thực hiện chỉ đạo của Chính phủ tại Nghị quyết số 11/NQ-CP
năm 2011 về giảm tốc độ và tỷ trọng vốn tín dụng của khu vực phi sản xuất, nhất là lĩnh vực bất
động sản, chứng khoán, NHNN đã yêu cầu các tổ chức tín dụng đưa tỷ trọng dư nợ cho vay lĩnh
vực phi sản xuất so với tổng dư nợ về mức tối đa là 16%. Kể từ năm 2012, các tổ chức tín dụng
đã kiểm soát tỷ trọng dư nợ lĩnh vực phi sản xuất ở mức dưới 16% tổng dư nợ. Bên cạnh đó, dư
nợ cho vay lĩnh vực sản xuất kinh doanh của hệ thống các NHTM đều trên 80%. Tuy vậy trong
khoảng 2018 trở lại đây, cơ cấu tín dụng có xu hướng thay đổi theo hướng dư nợ tín dụng cho
lĩnh vực phi sản xuất (bất động sản, tiêu dùng và chứng khoán) tăng dần. Mặc dù tín dụng vẫn
tập trung chủ yếu vào lĩnh vực sản xuất - kinh doanh, song tỷ trọng trong tổng dư nợ đã thấp hơn
so với trước đây. Bên cạnh đó, hướng tới mục tiêu chuyển dịch cơ cấu đầu tư và cơ cấu kinh tế,
đổi mới mô hình tăng trưởng và đa dạng hóa danh mục tín dụng của hệ thống ngân hàng, NHNN
đã yêu cầu các ngân hàng tập trung nguồn vốn cho các lĩnh vực kinh tế quan trọng. Các lĩnh vực
này bao gồm: phát triển nông nghiệp, nông thôn (quy định tại Nghị định số 41/2010/NĐ-CP về
chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn); phương án, dự án sản xuất -
kinh doanh hàng xuất khẩu quy định tại Luật Thương mại; sản xuất - kinh doanh của doanh
nghiệp vừa và nhỏ (quy định tại Nghị định số 56/2009/NĐ-CP về trợ giúp phát triển DNNVV),
1336
- INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2020
ICYREB 2020
phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ (quy định tại Quyết định số 12/2011/QĐ-TTg về chính sách
phát triển một số ngành công nghiệp hỗ trợ); doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao (quy định
tại Luật Công nghệ cao và các quy định của pháp luật có liên quan). Các biện pháp được đưa ra
để khuyến khích NHTM cho vay các lĩnh vực trên bao gồm: NHNN đã áp dụng trần lãi suất cho
vay của các ngân hàng đối với các lĩnh vực ưu tiên, thấp hơn từ 2-3% mặt bằng lãi suất cho vay
trên thị trường; NHNN yêu cầu các ngân hàng, đặc biệt là nhóm các NHTM có sở hữu Nhà nước,
thực hiện triển khai các gói tín dụng ưu đãi cho các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh
trong các lĩnh vực ưu tiên kể trên (Tô Ngọc Hưng, 2017).
Về cơ cấu danh mục theo thời hạn, tại tất cả các NHTM được khảo sát đều duy trì tỷ trọng
tín dụng cao hơn vào các kì hạn trung và dài hạn. Tuy vậy kể từ khi Thông tư 06/2016/TT-NHNN
sửa đổi, bổ sung cho Thông tư 36/2014/TT-NHNN quy định về các giới hạn, tỷ lệ đảm bảo an
toàn trong hoạt động của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài có hiệu lực, tỷ
trọng cho vay các kì hạn trung và dài hạn đã được giảm bớt nhằm tránh rủi ro do dòng vốn tín
dụng đổ vào các lĩnh vực nhạy cảm, tỷ trọng cho vay ngắn hạn, đặc biệt là vốn dành cho vay tín
dụng tiêu dùng đã được tăng lên.
3.2.2. Về nhóm các công cụ hiện đại
3.2.2.1. Về nghiệp vụ mua bán nợ
Hiện nay, thị trường mua bán nợ dành cho các tổ chức tín dụng tại Việt Nam bao gồm các
thành viên tham gia như sau: Công ty Trách nhiệm hữu hạn một thành viên Mua bán nợ Việt
Nam (DATC), Công ty quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam (VAMC), các công ty
mua bán nợ và tài sản thuộc các NHTM, các tổ chức tài chính, các doanh nghiệp đáp ứng được
tiêu chuẩn theo Nghị định 69/2016/NĐ-CP của Chính Phủ. Việc mua bán nợ của NHTM được
thực hiện theo thông tư số 09/2015/TT- NHNN quy định về hoạt động mua bán nợ của tổ chức
tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
Để thực hiện nghiệp vụ quản lý rủi ro danh mục cho vay, về mặt lý thuyết, NHTM sẽ cần
bán các khoản nợ cần phân tán rủi ro trong danh mục của mình cho các bên đối tác. Thực tế phát
triển thị trường mua bán nợ ở Việt Nam cho thấy, doanh số bán nợ và song song với đó là mua
nợ còn rất khiêm tốn mà nguyên nhân được cho là do thị trường chưa phát triển đúng bản chất
và các khoản nợ bán được thường là được mua theo chỉ định hoặc bên mua nợ nhằm mục đích
cơ cấu lại tài sản của mình.
Tuy nhiên, kể từ khi công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam (VAMC)
được thành lập và hoạt động theo Nghị định 53/2013/NĐ-CP của Chính phủ, Quyết định số
843/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ và Quyết định số 1459/QĐ-NHNN của NHNN, hoạt
động mua bán nợ trong hệ thống các NHTM Việt Nam đã được cải thiện. Từ ngày 1/10/2013,
VAMC đã chính thức mua nợ xấu của các tổ chức tín dụng theo kế hoạch được Ngân hàng Nhà
nước phê duyệt hàng năm. Sau khi mua nợ xấu, VAMC thực hiện tổng hợp, phân loại, đánh giá
và xây dựng danh mục khoản nợ xấu để áp dụng các biện pháp thu hồi nợ có hiệu quả như đôn
đốc thu hồi, khởi kiện, cơ cấu nợ, bán nợ, bán tài sản bảo đảm hoặc ủy quyền cho các tổ chức tín
dụng thu hồi nợ. Đối với các NHTM, hoạt động của VAMC nhằm góp phần đưa nợ xấu ra khỏi
bảng cân đối kế toán của ngân hàng, kéo dài thời gian trích lập dự phòng rủi ro từ 5 đến 10 năm,
1337
- INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2020
ICYREB 2020
giảm áp lực về tài chính cho NHTM...Tính tới 31/12/2019 đã có 40 NHTM tham gia bán nợ cho
VAMC và khoảng 340000 tỷ đồng nợ xấu đã được VAMC mua lại bằng trái phiếu đặc biệt. Cùng
với sự hỗ trợ pháp lý từ Nghị quyết 42/2017/QH14 về thí điểm xử lý nợ xấu của tổ chức tín dụng,
việc xử lý nợ xấu và thu hồi nợ phối hợp giữa VAMC và tổ chức tín dụng đã đạt được các kết quả
tích cực với 151.860 tỷ đồng nợ thu hồi được vào 31/12/2019. Việc VAMC ra đời cùng nghiệp
vụ mua bán các hoản nợ xấu của tổ chức tín dụng đã cải thiện rõ rệt tỷ lệ nợ xấu trên danh mục
tín dụng nói chung của NHTM. Tỷ lệ nợ xấu đã giảm từ mức 4,08% tổng dư nợ vào thời điểm
cuối năm 2012 về mức 3,21% đầu năm 2017, đến cuối năm 2017 đã đạt mức cao nhất trong toàn
hệ thống chỉ là 3% theo đúng mục tiêu đã đề ra. Kết quả khảo sát về khối lượng trái phiếu đặc
biệt do VAMC phát hành để mua lại nợ xấu của các NHTM được nắm giữ tại các ngân hàng
thuộc hai nhóm nghiên cứu như sau:
Nguồn: Báo cáo tài chính hợp nhất sau kiểm toán của các NHTM năm 2019
Biểu đồ 3: Lượng trái phiếu đặc biệt do VAMC phát hành
được nắm giữ tại các NHTM tại 31/12/2019 (Đơn vị: tỷ đồng)
Như đã đề cập ở trên, sự hỗ trợ của Nghị quyết 42/2017/QH14 cùng với nỗ lực của VAMC
và bản thân các NHTM trong việc xử lý nợ xấu, khối lượng trái phiếu đặc biệt do VAMC được
tất toán tại các NHTM gia tăng mạnh mẽ. Đặc biệt với các NHTM trong nhóm 1, có 6 trong tổng
số 9 ngân hàng đã tất toán xong toàn bộ lượng trái phiếu với VAMC. Chi tiết tại biểu đồ trên cho
thấy, dù số lượng các NHTM ít hơn và quy mô dư nợ nhỏ hơn nhưng lượng trái phiếu đặc biệt
do VAMC phát hành mà các NHTM nhóm 2 đang nắm giữ cao hơn khá nhiều so với các NHTM
nhóm 1, điều này thể hiện khối lượng nợ xấu các NHTM nhóm 2 đang bán cho VAMC là lớn
hơn và chất lượng danh mục cho vay vẫn còn ở mức rủi ro cao hơn.
3.2.2.2. Về sử dụng các công cụ phái sinh tín dụng
Về mặt lý thuyết, sử dụng các công cụ phái sinh tín dụng có ý nghĩa như công cụ bảo hiểm
rủi ro cho NHTM trong tình huống danh mục cho vay gặp rủi ro tín dụng. Trên thực tế, các giao
dịch phái sinh được quản lý ở các NHTM Việt Nam bởi bộ phận “Ngoại hối và các sản phẩm
phái sinh”, tuy vậy tại bộ phận này các giao dịch phái sinh chủ yếu vẫn là để kinh doanh kiếm
lời (trading), phòng vệ trên các giao dịch thị trường (hedging) và kiểm soát thanh khoản với các
đồng ngoại tệ. Như vậy gần như rất ít các giao dịch phái sinh với mục đích phòng ngừa rủi ro tín
dụng được diễn ra.
1338
- INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2020
ICYREB 2020
Xét về loại công cụ phái sinh được sử dụng, danh mục Hoán đổi (Swap) hiện là danh mục
phái sinh được thực hiện nhiều nhất và quy mô thị trường có xu hướng ngày càng tăng tại tất cả
các NHTM được khảo sát. Nhưng đa số các giao dịch Swap đang thực hiện tại các NHTM này
với mục đích chính là để phòng ngừa rủi ro tỷ giá và lãi suất, cân đối dòng thanh khoản, giảm
thiểu chi phí vốn… mà chưa phải là để hoán đổi rủi ro vỡ nợ hay hoán đổi tổng thu nhập cho
NHTM trong tình huống khách hàng bị vỡ nợ. Trên quy mô toàn hệ thống các NHTM, giao dịch
hoán đổi rủi ro tín dụng đầu tiên xuất hiện ở Việt Nam vào năm 2006 khi Công văn số
3324/NHNN-CSTT ngày 27/4/2006 của NHNN Việt Nam cho phép HSBC (chi nhánh thành phố
Hồ Chí Minh) thực hiện thí điểm, sau đó là Citibank (chi nhánh Hà Nội) và Standard Chartered
(chi nhánh Hà Nội) cung cấp dịch vụ này. Thực tế cho thấy, sản phẩm hoán đổi rủi ro tín dụng
của HSBC Việt Nam gắn với rủi ro tín dụng của các loại trái phiếu do Chính phủ hoặc các doanh
nghiệp Việt Nam phát hành ra thị trường quốc tế, các khoản vay dài hạn của doanh nghiệp Việt
Nam tại các TCTD hoạt động ở Việt Nam với các đặc điểm như sau:
bKhách hàng chuyển nhượng rủi ro tín dụng (người mua bảo hiểm) là các TCTD tại Việt
Nam hoặc các nhà đầu tư nước ngoài đang sở hữu các khoản nợ hoặc trái phiếu do Chính phủ,
doanh nghiệp Việt Nam phát hành
bNgười bán bảo hiểm là các chi nhánh HSBC ở nước ngoài
bThời hạn của các giao dịch không quá 05 năm
bTrong trường hợp trái phiếu mất giá hoặc các khoản vay bị vỡ nợ, HSBC sẽ phải thanh
toán cho người mua bảo hiểm
Như vậy, hợp đồng hoán đổi rủi ro tín dụng do HSBC cung cấp giúp cho các tổ chức tín
dụng đang cho doanh nghiệp Việt Nam vay dài hạn hoặc các nhà đầu tư nước ngoài đang sở hữu
các trái phiếu do Chính phủ/doanh nghiệp Việt Nam phát hành giảm thiểu được rủi ro trên danh
mục của họ. Ngoại trừ các hợp đồng nói trên, tại Việt Nam chưa xuất hiện các giao dịch hoán đổi
rủi ro tín dụng mà cả người bán, người mua bảo hiểm cũng như tài sản/đối tượng được bảo hiểm
đều đang hoạt động ở Việt Nam.
Như vậy có thể đánh giá rằng, các NHTM trong mẫu khảo sát nói riêng và các NHTM Việt
Nam nói chung hầu như chưa thực hiện được công cụ phái sinh tín dụng như một biện pháp để
phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng đối với danh mục các khoản vay của mình.
4. Đánh giá thực trạng sử dụng các công cụ quản lý rủi ro danh mục cho vay tại
các NHTM
Thứ nhất, về quản lý rủi ro từng khoản vay trong danh mục. Việc áp dụng hệ thống xếp
hạng tín dụng nội bộ trên thực tế trong quản lý rủi ro tín dụng tại NHTM vẫn còn những mặt hạn
chế như sau:
Một là, về dữ liệu đầu vào cho hệ thống xếp hạng tín dụng. Hệ thống này sử dụng hai nhóm
tiêu chí: tài chính và phi tài chính. (i) Đối với nhóm tiêu chí tài chính: số liệu hiện nay được lấy
từ báo cáo tài chính của khách hàng, tuy vậy các số liệu được sử dụng mới chỉ tập trung xoay
quanh Bảng cân đối kế toán và Báo cáo kết quả kinh doanh, các tiêu chí sử dụng số liệu từ Báo
cáo lưu chuyển tiền tệ còn ít dù đây là báo cáo tài chính quan trọng trong việc đánh giá khả năng
1339
- INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2020
ICYREB 2020
trả nợ của khách hàng. (ii) Đối với nhóm tiêu chí phi tài chính, dữ liệu sẽ được thu thập từ việc
phỏng vấn, điều tra khách hàng, trong đó việc đưa bảng hỏi cho khách hàng tự trả lời là phần lớn
mà rất ít sự kiểm tra lại. Như vậy tính chính xác của các nguồn số liệu này không cao.
Hai là, về các tiêu chí đánh giá. Xét khái quát thì các tiêu chí hiện nay các NHTM sử
dụng còn chưa khách quan giữa các nhóm khách hàng (đặc biệt trong nhóm khách hàng doanh
nghiệp), vẫn còn nhiều tiêu chí mang đánh giá chủ quan của cán bộ xếp hạng, cách xây dựng
mức thang điểm chuẩn để phân hạng chưa đồng đều, các tiêu chí đưa ra chưa đầy đủ và bao
quát toàn bộ năng lực trả nợ của khách hàng, tỷ trọng điểm của nhóm tiêu chí tài chính và phi
tài chính còn có sự chênh lệch lớn (hiện nay toàn bộ các NHTM đang duy trì tỷ trọng chỉ tiêu
phi tài chính cao hơn).
Ba là, về nhận thức và kinh nghiệm của cán bộ thực hiện xếp hạng tín dụng. Việc áp dụng
hệ thống xếp hạng tín dụng hiện không còn mới mẻ, tuy vậy vẫn có những cán bộ chưa nhận
thức đúng về tầm quan trọng của hệ thống này và ý nghĩa của nó trong quản lý rủi ro với khoản
vay, do vậy khi tiến hành xếp hạng theo hướng qua loa, chưa trung thực. Bên cạnh đó kinh nghiệm
của cán bộ trong việc xây dựng hệ thống xếp hạng và thực hiện đánh giá rủi ro theo kết quả xếp
hạng vẫn còn hạn chế.
Tất cả những hạn chế trên đã dẫn tới thực trạng về kết quả xếp hạng tín dụng khách hàng
bằng hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ của NHTM còn chưa chính xác, do vậy với cùng một
khách hàng được xếp hạng thì mỗi NHTM lại đưa ra một kết quả đánh giá về hạng mức tín dụng
khác nhau. Điều này dẫn tới khó khăn cho trước hết là NHTM trong việc đánh giá mức độ rủi ro
và đưa ra công cụ quản lý rủi ro chính xác trên khách hàng vay, sau đó là NHNN với tư cách là
cơ quan quản lý vĩ mô về thông tin tín dụng của khách hàng vay trên hệ thống các NHTM.
Thứ hai, về nghiệp vụ mua bán nợ. Thực trạng cho thấy phần lớn các khoản nợ NHTM
bán được hiện nay là giao dịch mua bán nợ xấu với VAMC mà khối lượng các khoản vay được
mua bán với các chủ thể khác trên thị trường ngoài VAMC là rất thấp. Hơn nữa, dù bán nợ cho
VAMC nhưng đây không phải là hình thức mua đứt, bán đoạn, mà trách nhiệm xử lý nợ xấu vẫn
thuộc về phía ngân hàng. Tuy bán nợ cho VAMC, nhưng mỗi năm, ngân hàng vẫn phải trích lập
dự phòng rủi ro 20% cho trái phiếu đặc biệt VAMC phát hành và lợi nhuận của ngân hàng vẫn sẽ
bị sụt giảm, thậm chí ăn mòn cả vốn điều lệ với những NHTM có tỷ lệ nợ xấu cao.
Thứ ba, về sử dụng các công cụ phái sinh tín dụng. Tại Việt Nam, do những hạn chế về
trình độ công nghệ và chuyên môn trong khi thị trường tài chính còn kém phát triển nên các
công cụ phái sinh tín dụng hầu như chưa được nhiều chủ thể biết đến và chưa được sử dụng
nhiều trong thực tế kinh doanh của các ngân hàng. Trình độ của thị trường tài chính nói chung
và tín dụng nói riêng của Việt Nam hiện vẫn còn ở mức thấp và chưa phát triển đầy đủ, đặc biệt
là các hoạt động liên quan đến các lựa chọn với các công cụ hiện đại trong xử lý nợ (như chứng
khoán hóa, mua bán nợ, mua bán và sáp nhập, phái sinh tín dụng…). Để thực hiện được các
công cụ trên, nền tảng cơ sở hạ tầng, thể chế, đặc biệt là các quy định về hệ thống kế toán và
tính tự chủ của NHTM đóng vai trò rất quan trọng, tuy vậy các yếu tố này ở Việt Nam vẫn chưa
được chú trọng.
1340
- INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2020
ICYREB 2020
5. Khuyến nghị đối với các NHTM Việt Nam về sử dụng công cụ quản lý rủi ro danh mục
cho vay
5.1. Về sử dụng nhóm các công cụ truyền thống
5.1.1. Về quản lý rủi ro với từng khoản vay trong danh mục
Thứ nhất, về hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ, cần nâng cao chất lượng thông tin đầu
vào bằng việc đa dạng hoá nguồn thông tin hơn nữa và kiểm tra lại đảm bảo tính xác thực của
các thông tin được sử dụng. Bên cạnh đó cần hoàn thiện hệ thống các tiêu chí đánh giá theo
hướng thay thế các tiêu chí hiện không còn phù hợp, giảm bớt các tiêu chí phụ thuộc vào ý kiến
chủ quan của cán bộ đánh giá, tăng thêm các tiêu chí được tính toán tự động để đảm bảo kết quả
cập nhật, cân đối lại trọng số điểm nhóm các tiêu chí tài chính và phi tài chính, khoảng cách điểm
giữa các hạng tín dụng cần được cân đối cho đồng đều hơn. Ngoài ra, điểm quan trọng là ban
lãnh đạo ngân hàng và cán bộ thực hiện nghiệp vụ tín dụng và quản lý rủi ro tín dụng cần có tư
duy đề cao vai trò của hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ này trong việc giảm thiểu rủi ro cho
ngân hàng của mình. Tuy vậy, việc sử dụng hệ thống xếp hạng nội bộ này chỉ nên là công cụ tự
động để hỗ trợ trong việc quản lý tín dụng chứ không nên được xem là công cụ quan trọng nhất
hoặc duy nhất mà cần kết hợp thêm với các công cụ khác. Ngoài ra, hệ thống này tỏ ra hiệu quả
khi là căn cứ quan trọng để ra quyết định cho vay với những món vay tiêu dùng có quy mô nhỏ,
nhưng lại tỏ ra chưa phù hợp do chưa đủ toàn diện để đánh giá chất lượng tín dụng đối với những
món vay cho khách hàng doanh nghiệp.
Thứ hai, về quản lý rủi ro tín dụng với từng khoản vay, cần tăng cường quản lý và giám
sát trước và sau giải ngân và nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ ngân hàng… Điều này sẽ
giúp cho các bước của quy trình quản lý rủi ro tín dụng được thực hiện hiệu quả, chặt chẽ hơn.
Đồng thời, cần hoàn thiện và nâng cao chất lượng thẩm định tín dụng, trong đó bên cạnh các
phương pháp truyền thống, nên áp dụng phân tích và thẩm định tín dụng sử dụng mô phỏng
dòng tiền. Đây là phương pháp rất phù hợp với việc đánh giá thẩm định tín dụng đối với các
giao dịch mà độ tín nhiệm của khách hàng dựa chủ yếu trên dòng tiền tương lai mà tài sản
được tài trợ mang lại.
5.1.2. Về đa dạng hoá danh mục cho vay
Một nội dung quan trọng khi thực hiện đa dạng hoá danh mục cho vay là cần xác định
được một cơ cấu tín dụng mà ở đó mức độ rủi ro là tương xứng với khả năng quản trị rủi ro. Việc
giảm tỷ trọng cho vay các lĩnh vực không khuyến khích và sau đó là tăng tỷ trọng các lĩnh vực
được ưu tiên cần được thực hiện thận trọng nhằm bảo đảm lượng vốn phù hợp cung cấp cho các
thị trường như thị trường bất động sản, chứng khoán…, hạn chế gây ra tình trạng “đóng băng”
tại các thị trường này, gắn điều chỉnh cơ cấu tín dụng với việc cơ cấu lại các thị trường này theo
hướng phát triển bền vững. Đối với những rủi ro mang tính hệ thống và khó kiểm soát, cần có
chính sách phát triển những công cụ bảo hiểm rủi ro phù hợp với các tổ chức có khả năng kiểm
soát rủi ro tốt. Qua đó, trong trường hợp không có khả năng quản trị rủi ro, NHTM có thể phòng
ngừa được rủi ro thông qua việc chuyển cho các tổ chức này. Ngược lại, đối với các lĩnh vực
được ưu tiên cấp tín dụng lại cần tăng cường kiểm soát chất lượng khoản vay, tránh việc khách
hàng lợi dụng các ưu đãi về chính sách cho vay để sử dụng vốn sai mục đích hoặc kinh doanh
1341
- INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2020
ICYREB 2020
kém hiệu quả gây thất thoát vốn của ngân hàng. Ngoài ra, để thực hiện kiểm soát tốt về rủi ro tập
trung danh mục, các NHTM cần tuân thủ nghiêm túc và chặt chẽ các hạn mức cho vay được đưa
ra cho từng phân khúc khách hàng hoặc sản phẩm vay.
5.2. Về sử dụng nhóm các công cụ hiện đại
5.2.1. Về nghiệp vụ mua bán nợ
Vai trò của mua bán nợ trong quản lý rủi ro danh mục cho vay đã được chứng minh và tỏ
ra là một công cụ khá hiệu quả tại Việt Nam. Để thực hiện quản lý rủi ro tín dụng trên danh mục
cho vay thì NHTM sẽ tập trung vào việc trao đổi các khoản nợ xấu phát sinh. Như vậy để phát
triển công cụ mua bán nợ trong quản lý rủi ro danh mục cho vay thì việc phát triển thị trường
mua bán các khoản nợ có rủi ro cao (thường được xem như các khoản nợ xấu) cần được chú
trọng phát triển.
Thị trường mua bán nợ xấu cũng như các loại thị trường khác luôn hướng tới những mục
tiêu nhất định. Nhìn chung có ba mục tiêu lớn được đặt ra đối với thị trường mua bán nợ xấu ở
Việt Nam, đó là: hoạt động có hiệu quả; điều hành công bằng; thúc đẩy giải quyết nợ xấu, lành
mạnh hóa hệ thống ngân hàng. Theo Nguyễn Thu Hương và Trần Vinh Quang (2015), tại Việt
Nam, phát triển thị trường mua bán nợ xấu cần được đưa ra với các mục tiêu sau: ổn định, vững
chắc, cấu trúc hoàn chỉnh với nhiều cấp độ, đồng bộ về các yếu tố cung - cầu; bảo đảm tính công
khai, minh bạch; chủ động hội nhập thị trường tài chính quốc tế; đa dạng hóa cơ sở nhà đầu tư;
nâng cao sức cạnh tranh của các định chế trung gian thị trường và các tổ chức phụ trợ. Các kiến
nghị của tác giả nhằm thúc đẩy hoạt động mua bán nợ xấu tại Việt Nam dành cho phía các NHTM
với vai trò là bên bán nợ như sau:
(i) Tiến hành thống kê, phân loại nợ xấu một cách chính xác và hợp lý theo các quy định
hiện hành
NHTM cần tiến hành thống kê và phân loại nợ xấu một cách chính xác và hợp lý theo các
quy định hiện hành. Trên cơ sở đó, NHTM có thể phân thành hai nhóm là nhóm nợ xấu ngân
hàng cần tự xử lý và nhóm nợ xấu ngân hàng không xử lý được (kể cả do nguyên nhân khách
quan hay chủ quan). Dựa trên sự phân loại trên thì bản thân NHTM và các cơ quan nhà nước sẽ
có thể đưa ra những biện pháp xử lý hoặc hỗ trợ phù hợp.
(ii) Có các biện pháp hạn chế nợ xấu phát sinh
Bên cạnh việc nâng cao hiệu quả mua bán nợ, NHTM cần coi trọng đúng mức đến việc
hạn chế nợ xấu phát sinh như: rà soát phân loại nợ tiến tới việc phân loại nợ theo thông lệ quốc
tế, hoàn thiện hệ thống tín nhiệm nội bộ theo tiêu chuẩn Basel II tiến tới theo Basel III, giám sát
định kỳ việc triển khai hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ, nâng cao chất lượng thông tin đầu vào
và nâng cấp hệ thống công nghệ thông tin đảm bảo hoạt động có hiệu quả và tránh tình trạng sai
sót vô tình hay cố ý gây ảnh hưởng đến việc xếp hạng tín nhiệm sai và ra quyết định cho vay
không đạt chuẩn.
5.2.2. Về sử dụng các công cụ phái sinh tín dụng
Các công cụ phái sinh tín dụng có ưu điểm hơn các công cụ truyền thống trong quản lý rủi
ro danh mục cho vay là NHTM không cần chuyển giao các khoản vay ra khỏi bảng cân đối kế
1342
- INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2020
ICYREB 2020
toán của mình. Tuy vậy, hiện nay việc sử dụng các công cụ tài chính phái sinh trong phòng ngừa
rủi ro tín dụng tại các NHTM còn khá mới mẻ với khối lượng giao dịch rất thấp. Vì vậy, trong
bối cảnh thị trường phái sinh tín dụng toàn cầu đang trên đà phát triển mạnh mẽ, các khuyến nghị
dành cho NHTM được đưa ra nhằm thúc đẩy thị trường phái sinh tín dụng phát triển ở Việt Nam
như sau:
Thứ nhất, cần đầu tư xây dựng nền tảng công nghệ hiện đại trong NHTM bởi để hình thành
và phát triển nghiệp vụ phái sinh đòi hỏi các NHTM cần có đầu tư nhất định về hiện đại hóa công
nghệ thông tin. Việc áp dụng công nghệ để cập nhật thông tin diễn biến của thị trường về các loại
hàng hóa giao dịch trên thị trường sẽ giúp cho NHTM cũng như những chủ thể khác tham gia
giao dịch có quyết định đúng đắn trong việc sử dụng các công cụ tài chính phái sinh một cách có
hiệu quả để phòng ngừa rủi ro.
Thứ hai, đẩy mạnh công tác đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và thông tin hiểu
biết về sản phẩm phái sinh. Giai đoạn đầu, các NHTM có thể thuê chuyên gia nước ngoài để đào
tạo, thiết kế sản phẩm và xây dựng quy trình cho ngân hàng. Sau đó các NHTM cần đào tạo để
có đủ số lượng nhân viên có trình độ chuyên môn, kinh nghiệm và kỹ năng phù hợp để triển khai
nghiệp vụ phái sinh. Những nhân viên cần phải có sự hiểu biết sâu sắc về thị trường cũng như
những biến động của thị trường, về các loại công cụ tài chính phái sinh, quy cách giao dịch, kỹ
thuật định giá, các loại rủi ro có liên quan và luật lệ của thị trường.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Anh
Bluhm, C., Overbeck, L. and Wegner, C. (2010). Introduction to Credit Risk Modeling.
CRC Press, 2nd edition.
Kamp, A., Pfingsten, A. and Prath, D. (2005). Do banks diversify loan portfolios? A tenta-
tive answer based on individual bank loan portfolios. Discussion Paper. Deutsche Bundesbank:
Series “Banking and Financial Studies No 03/2005”.
Minton, B., Stulz, R. and Williamson, R. (2005). How much do banks use credit derivatives
to reduce risk?. Journal of Financial Services Research, 35(1), p1-31.
Rossi, S., Schwaiger, M. and Winkler, G. (2009). How loan portfolio diversification affects
risk, efficiency and capitalization: A managerial behavior model for Austrian banks. Journal of
Banking & Finance, 33, p2218–2226.
Smithson, C. (2003). Credit portfolio management. John Wiley & Sons.
Tài liệu Tiếng Việt
Bùi Diệu Anh (2010). Danh mục cho vay của ngân hàng thương mại và những lưu ý cần
thiết. Tạp chí công nghệ ngân hàng, Số 11/2010.
Đào Duy Huân (2013). Hiện trạng thị trường mua bán nợ Việt Nam và chính sách phát
triển. Tạp chí Phát triển và Hội nhập, Số 8(18), trang 21-26.
1343
- INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2020
ICYREB 2020
Hoàng Thị Duyên (2016). Bàn về hiệu quả xử lý nợ xấu ngân hàng. Tạp chí tài chính, Số
638 (tháng 8), trang 95-97.
Huỳnh Thị Hương Thảo (2019). Ảnh hưởng của rủi ro tín dụng đến hiệu quả hoạt động
của các ngân hàng thương mại Việt Nam. Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng, Số 202 (tháng
3), trang 36-44.
Lê Hồ An Châu (2006). Bàn về một số điều kiện cần thiết để phát triển thị trường công cụ
tín dụng phái sinh tại Việt Nam. Tạp chí Công nghệ Ngân hàng, Số 13, trang 17-20.
Nguyễn Minh Hiếu (2011). Hoàn thiện danh mục cho vay tại ngân hàng VCB Đà Nẵng.
Luận văn thạc sỹ quản trị kinh doanh, Đại học Đà Nẵng.
Nguyễn Minh Sáng và Nguyễn Thị Lan Hương (2013). Hoạt động ngoại bảng và quy trình
quản trị rủi ro trong hệ thống ngân hàng tại Việt Nam. Tạp chí Phát triển và Hội nhập, Số 9(19),
trang 40-47.
Nguyễn Thị Châu Long và Trần Thụy Ái Phương (2014). Sử dụng các công cụ phái sinh
tín dụng nhằm giảm thiểu rủi ro tín dụng tại Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam. Bài
nghiên cứu. Đại học Sư phạm kĩ thuật TPHCM. Xem tại:
http://fe.hcmute.edu.vn/Resources/Docs/SubDomain/fe/NCKH/BAI%20BAO%20T2014-
125.pdf
Nguyễn Thu Hương và Trần Vinh Quang (2015). Xử lý nợ xấu của ngân hàng và các tổ
chức tín dụng: những vấn đề đặt ra. Tạp chí Kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương, Số tháng 3.
Nguyễn Thị Quế Thu (2016). Tác động của danh mục cho vay đến lợi nhuận của các Ngân
hàng thương mại Việt Nam. Luận văn thạc sỹ kinh tế, Đại học kinh tế thành phố Hồ Chí Minh.
Tô Ngọc Hưng (2017). Tái cơ cấu hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam hướng tới
phát triển bền vững. Tạp chí Ngân hàng, Số tháng 2/2017.
Phụ lục: PHIẾU KHẢO SÁT CHUYÊN GIA
Về việc triển khai quản lý rủi ro danh mục cho vay của các Ngân hàng thương mại
I/ Phần giới thiệu
Tôi là Nguyễn Bích Ngân, hiện là giảng viên đang công tác tại Học viện Ngân hàng. Để
có cơ sở đánh giá thực trạng quản lý rủi ro danh mục cho vay tại các ngân hàng thương mại ở
Việt Nam nhằm phục vụ cho việc đưa ra các giải pháp để xây dựng, hoàn thiện hoạt động quản
lý danh mục cho vay và quản lý rủi ro tín dụng trong thời gian tới, kính mong Anh/Chị phối hợp
cung cấp thông tin thông qua việc trả lời các câu hỏi khảo sát dưới đây.
Câu trả lời của Anh/Chị sẽ được lưu giữ bảo mật, phục vụ duy nhất cho mục tiêu nghiên
cứu và sẽ không được chia sẻ cho bên thứ ba. Rất mong sự hợp tác của Anh/Chị./.
1344
- INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2020
ICYREB 2020
Hướng dẫn trả lời: Người trả lời lựa chọn đáp án
bằng cách highlight đáp án được chọn, hoặc viết Ngày thực hiện:
phần trả lời vào phần để trống.
II/ Phần câu hỏi
Câu 1: Bộ phận anh/chị đang làm việc tại ngân hàng hiện nay là gì?
a, Quản lý cấp cao ( Hội đồng quản trị/Ban điều hành/Ban kiểm soát)
b. Uỷ ban /Khối quản lý rủi ro
c. Bộ phận tín dụng
d, Bộ phận kế toán
e. Bộ phận kiểm soát/kiểm toán nội bộ
f. Khác (Cụ thể: ......)
Câu 2: Thời gian anh/chị đã công tác tại vị trí hiện tại?
................................................................................................................................................
...............................................................................................................................................................
.........................................................................................................................................................
Câu 3: Ngân hàng anh/chị đã áp dụng chuẩn mực Basel (hoặc các chuẩn mực quốc tế khác)
trong quản lý rủi ro danh mục cho vay chưa?
a. Đã áp dụng (Cụ thể tên chuẩn mực: ...........................)
b. Chưa áp dụng chuẩn mực quốc tế nào
Câu 4: Mức độ áp dụng các chuẩn mực Basel (hoặc các chuẩn mực quốc tế khác) trong
quản lý rủi ro danh mục cho vay như thế nào? (Lựa chọn theo đánh giá chủ quan của anh/chị)
a. Rất cao
b. Cao
c. Bình thường
d. Chưa cao
e. Rất thấp
Câu 5: Hiện ngân hàng anh/chị đang quản lý danh mục cho vay theo phương thức nào?
a. Quản lý danh mục theo phương thức ngẫu nhiên
b. Quản lý danh mục theo phương thức có kế hoạch
c. Khác (Cụ thể: .........)
Câu 6: Các loại rủi ro nào liên quan đến danh mục cho vay ngân hàng anh/chị đang/có thể
phải đối mặt ? (Có thể lựa chọn nhiều hơn 01 phương án)
a. Rủi ro tín dụng
b. Rủi ro thanh khoản
1345
- INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2020
ICYREB 2020
c. Rủi ro hoạt động
d. Rủi ro tập trung
e. Rủi ro tỷ giá
f. Khác (Cụ thể: .........)
Câu 7: Mô hình tổ chức hoạt động quản lý rủi ro danh mục cho vay của ngân hàng anh/chị
hiện nay?
a. Mô hình quản lý rủi ro tập trung
b. Mô hình quản lý rủi ro phân tán
c. Khác (Cụ thể: .........)
Câu 8: Quy trình quản lý rủi ro danh mục cho vay tại ngân hàng anh/chị hiện nay được
thực hiện theo các bước như thế nào?
- Bước 1: ...............................................................................................................................
- Bước 2: ...............................................................................................................................
- Bước 3: ...............................................................................................................................
................................................................................................................................................
Câu 9: Hiện ngân hàng anh/chị đang theo phương pháp nào để nhận biết rủi ro danh mục
cho vay? (Anh/chị có thể làm rõ về phương pháp này)
................................................................................................................................................
...............................................................................................................................................................
.........................................................................................................................................................
Câu 10: Đánh giá của anh/chị về tính hiệu quả của các phương pháp được sử dụng để nhận biết
rủi ro danh mục cho vay tại ngân hàng của anh/chị?
................................................................................................................................................
...............................................................................................................................................................
.........................................................................................................................................................
Câu 11: Những hạn chế trong sử dụng các phương pháp nhận biết rủi ro danh mục cho
vay tại ngân hàng của anh/chị là gì?
................................................................................................................................................
...............................................................................................................................................................
.........................................................................................................................................................
Câu 12: Hiện ngân hàng anh/chị đang theo phương pháp nào để đo lường rủi ro danh mục
cho vay? (Anh/chị có thể làm rõ về phương pháp này)
................................................................................................................................................
...............................................................................................................................................................
.........................................................................................................................................................
Câu 13: Kết quả của việc đo lường rủi ro đối với danh mục cho vay được ngân hàng anh/chị
1346
nguon tai.lieu . vn