Xem mẫu

  1. n trÞ - Kinh nghiÖm quèc tÕ vµ thùc tr¹ng ë ViÖt Nam SỰ CẦN THIẾT ÁP DỤNG VÀ ĐÀO TẠO IFRS TẠI VIỆT NAM # Đàm Bích Hà Khoa Kế toán- Kiểm toán, Đại học Thương mại Trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam đang trong quá trình hội nhập ngày càng sâu, rộng với khu vực và thế giới, để cải thiện môi trường kinh doanh, phát triển bền vững, hỗ trợ thị trường vốn, thị trường chứng khoán, bảo vệ nhà đầu tư và thu hút đầu tư nước ngoài. Đồng thời, để có thể tiếp cận với các dòng vốn trên thị trường quốc tế, niêm yết tại thị trường nước ngoài, yêu cầu lập báo cáo tài chính (BCTC) theo chuẩn mực BCTC quốc tế - IFRS- đang trở thành nhu cầu ngày càng bức thiết và là xu hướng tất yếu của các tập đoàn, các công ty đại chúng. Để thực hiện được điều đó, vấn đề đặt ra đối với các doanh nghiệp (DN) là cần có đội ngũ kế toán đủ năng lực, được trang bị kiến thức cần thiết về IFRS. Bài viết sẽ đưa ra nguyên nhân khách quan cần thiết phải áp dụng và đào tạo IFRS tại Việt Nam. Năm 1973, Ủy ban chuẩn mực kế toán quốc tế - IASC (International Accounting Standards Comittee) ra đời ở London, nước Anh. Đây là một tổ chức độc lập, bao gồm đại diện của 13 nước thành viên trực thuộc Liên đoàn kế toán quốc tế (IFAC - International Federation of Accountants). IASC chịu trách nhiệm ban hành các Chuẩn mực kế toán quốc tế - IAS (Internationnal Accounting Standards), thời kỳ đầu tổ chức này gặp rất nhiều khó khăn trong việc duy trì vai trò của mình là tổ chức soạn thảo chuẩn mực kế toán quốc tế duy nhất trên thế giới, cũng như thuyết phục các nước sử dụng chuẩn mực do chính mình tạo ra. Sau đó, IASC có những bước tiến lớn, nhận được sự ủng hộ quan trọng từ Ủy ban chứng khoán Mỹ và sau đó là sự chấp thuận của Tổ chức thế giới các ủy ban chứng khoán và Liên minh Châu Âu vào năm 2000. Năm 2001 đánh dấu sự ra đời của Hội đồng chuẩn mực kế toán quốc tế - IASB (International Accounting Standards Board). IASB thay thế cho IASC và tồn tại đến ngày nay, IASB ban hành các Chuẩn mực lập BCTC quốc tế - IFRS (International Financial Reporting Standards), các IAS cũ do IASC ban hành vẫn còn hiệu lực nếu không được thay thế bởi chuẩn mực khác. Sự thay đổi tên gọi từ IAS sang IFRS nghe có vẻ đơn giản nhưng thực sự là một bước đột phá và không chỉ thuần tuý về từ ngữ, mà bản chất là một sự thay đổi lớn về tư duy kế toán. Khái niệm “BCTC” có ý nghĩa bao hàm hơn, tôn vinh hơn vai trò của người làm công tác kế toán. Cán cân nghiêng về việc trình bày thông tin tài chính như thế nào, để đảm bảo lợi ích cao hơn của các đối tượng sử dụng thông tin được lập ra từ kết quả của công việc kế toán. Theo đó, IFRS được áp dụng chính thức từ 1/1/2005 và hiện tại, có trên 100 quốc gia áp dụng. Điều này tác động đáng kể đến đào tạo kế toán, tại những quốc gia áp dụng IFRS, mặc dù IFRS ở các quốc gia được áp dụng tại các thời điểm khác nhau nhưng do có sự khác biệt về kinh tế, thể chế chính trị, văn hóa, tính chuyên nghiệp của nghề nghiệp kế toán,... tại các quốc gia là khác nhau, làm cho khó khăn trong việc đánh giá những tác động của IFRS đến đào tạo kế toán. 274
  2. n trÞ - Kinh nghiÖm quèc tÕ vµ thùc tr¹ng ë ViÖt Nam Sự cần thiết phải áp dụng IFRS tại Việt Nam Trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam đang trong quá trình hội nhập ngày càng sâu, rộng với khu vực và thế giới, để cải thiện môi trường kinh doanh, phát triển bền vững, hỗ trợ thị trường vốn, thị trường chứng khoán, bảo vệ nhà đầu tư và thu hút đầu tư nước ngoài, Chính phủ đã có yêu cầu phải nâng cao tính minh bạch của thông tin tài chính. Mặt khác, để có thể tiếp cận với các dòng vốn trên thị trường quốc tế, niêm yết tại thị trường nước ngoài, yêu cầu lập BCTC theo IFRS đang trở thành nhu cầu ngày càng bức thiết và là xu hướng tất yếu của các tập đoàn, các công ty đại chúng. Bên cạnh đó, cùng với việc ra đời IFRS, đó là sự thay đổi về cơ chế quy định của từng quốc gia về các chuẩn mực cần tuân thủ. Trước đây, các nước thường có các quy định riêng của mình, gọi là nguyên tắc kế toán được chấp nhận (GAAP), ví dụ Canada có Canada GAAP, nước Mỹ có US GAAP. Các nước cộng đồng chung Châu Âu cũng có những quy định chuẩn mực của nước mình và đi theo IAS đối với các công ty được niêm yết. Có hai khó khăn lớn mà ai cũng có thế nhìn thấy là: Thứ nhất, đối với các công ty được thành lập tại nước này nhưng lại niêm yết tại nước khác: Ví dụ, khi công ty A thành lập tại EU và tuân thủ IAS khi lập BCTC nhưng khi công ty đó niêm yết trên thị trường chứng khoán Mỹ, thì việc đầu tiên là phải chuyển đổi sang BCTC theo chuẩn mực US GAAP. Có sự khác biệt không nhỏ giữa hai hệ thống chuẩn mực này và sự khác biệt đó đã làm ảnh hưởng đến các công ty, trong việc bỏ thời gian và chi phí để chuyển đổi BCTC, kiểm toán theo báo cáo mới. Thứ hai, đối với các công ty có công ty mẹ ở nước này nhưng các công ty thành viên (công ty con) ở nước khác, việc hợp nhất BCTC theo chuẩn mực của công ty mẹ cũng gặp phải rất nhiều khó khăn, do các công ty con ở các nước khác với công ty mẹ và áp dụng chuẩn mực kế toán khác.Việc chuyển sang một chuẩn mực chung hiển nhiên đã tạo điều kiện rất nhiều cho những người lập và đọc BCTC được viết theo một ngôn ngữ chung cho toàn cầu. Đồng thời, tăng tính minh bạch thông tin cho người sử dụng, từ đó hỗ trợ người sử dụng trong quá trình ra quyết định, tránh được những yếu tố bất lợi gây ra do hạn chế trong việc đọc hiểu thông tin tài chính. Thêm vào đó, theo khảo sát của Ủy ban kế toán quốc tế - IFAC cuối năm 2007, việc áp dụng IFRS cũng làm thay đổi tư duy và thái độ của Ban giám đốc. Khảo sát cho thấy, ở nhiều DN trước đây, Ban giám đốc không dành nhiều thời gian cho việc đọc hiểu báo cáo, cũng không thực sự hỗ trợ cho các bộ phận tài chính trong việc hoàn thành BCTC đúng hạn. Việc chuyển đổi từ IAS sang IFRS khiến các Giám đốc cảm thấy có trách nhiệm cao hơn, dành nhiều thời gian hơn cho việc nghiên cứu IFRS, cũng vì lẽ đó chất lượng, tính chính xác, tính hợp lý cùa thông tin được nâng lên. Tuy nhiên, mặc dù đã có nhiều lớp đào tạo, hội thảo về chuyển đổi từ IAS sang IFRS nhưng nhiều DN vẫn không thể tự làm được theo các quy định mới. Lựa chọn của họ là thuê các công ty kiểm toán hoặc các công ty làm dịch vụ kế toán giúp đỡ. Tuy nhiên, ngay cả các công ty kiểm toán lớn tại các quốc gia nhỏ, đôi khi cũng còn phải cần đến sự viện trợ từ công ty mẹ trong việc diễn giải các chuẩn mực. Và như vậy, mong muốn có được tính nhất quán đã làm giảm tốc độ cung cấp thông tin tài chính. Theo Ủy ban chuẩn mực Kế toán quốc tế (IASB), trong 10 năm gần đây, việc áp dụng các Chuẩn mực IFRS đã phát triển nhanh chóng và được áp dụng phổ biến trên toàn thế giới. 275
  3. n trÞ - Kinh nghiÖm quèc tÕ vµ thùc tr¹ng ë ViÖt Nam Trong số 140 quốc gia được IASB khảo sát, có 116 nước yêu cầu toàn bộ hoặc hầu hết những DN nội địa áp dụng IFRS. Đa số những quốc gia còn lại cho phép áp dụng IFRS. Tất cả các tổ chức có tác động quan trọng đến nền kinh tế thế giới như G20, Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Hội đồng ổn định tài chính quốc tế (FSB), Tổ chức quốc tế các Ủy ban chứng khoán (IOSCO)… đều ủng hộ và hỗ trợ việc áp dụng IFRS trên toàn cầu. IFRS đóng góp giá trị lớn đối với tính bền vững của nền kinh tế toàn cầu, vì IFRS gia tăng sự minh bạch, đồng thời giúp nâng cao trách nhiệm giải trình của DN, từ đó giảm bớt độ chênh lệch thông tin giữa nội bộ và bên ngoài công ty. Ngoài ra, IFRS giúp các DN và thị trường hoạt động hiệu quả hơn nhờ có một chuẩn mực thống nhất trên phạm vi toàn cầu và đáng tin cậy, áp dụng cho cả các nền kinh tế phát triển và mới nổi,... Ở Việt Nam hiện nay, đa phần các DN đang áp dụng các chuẩn mực kế toán Việt Nam (VAS) trong lập BCTC theo luật định, chỉ có một số DN có vốn đầu tư nước ngoài hoặc niêm yết trên thị trường quốc tế lập BCTC theo IFRS. Tuy nhiên, cùng với sự gia tăng của các nhà đầu tư nước ngoài, cũng như phục vụ cho mục tiêu kêu gọi vốn đầu tư, các DN cần có một bản BCTC lập theo IFRS đầy đủ, minh bạch, chính xác và có độ tin cậy cao. Mặt khác, Báo cáo Việt Nam 2035 được công bố mới đây đưa ra đề xuất các VAS cần thống nhất với IFRS, nhằm phát triển các thị trường vốn theo chiều sâu và thu hút hơn nữa nhà đầu tư nước ngoài. Sự cần thiết đào tạo IFRS tại Việt Nam Trên thực tế, Việt Nam đã và đang có những bước đi tích cực, để sẵn sàng tiến tới áp dụng rộng rãi IFRS. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường và ngày càng hội nhập sâu rộng với khu vực và quốc tế, công cụ kế toán và kiểm toán của Việt Nam đã được cải cách và hoàn thiện phù hợp, trong đó đặc biệt là việc áp dụng Chuẩn mực quốc tế về kế toán, kiểm toán đã được luật hóa. Mặt khác, “Chiến lược phát triển Kế toán - Kiểm toán Việt Nam đến 2020, tầm nhìn 2030” đã khẳng định Việt Nam quyết tâm áp dụng IFRS. Luật Kế toán 2015, có hiệu lực từ 1/1/2017, đã bổ sung “nguyên tắc giá trị hợp lý”. Đây là những bước chuẩn bị chủ động, cần thiết, để tiến tới áp dụng rộng rãi IFRS tại Việt Nam. Tuy nhiên, để áp dụng được IFRS, các DN Việt Nam phải chuẩn bị rất nhiều thứ từ nhân lực đến vật lực do: Thứ nhất, không phải DN nào cũng có thể đáp ứng được nhân sự có trình độ cao, để có thể hiểu và áp dụng IFRS ngay lập tức. Thứ hai, hệ thống kết nối thông tin trong nội bộ và phần mềm kế toán của DN chưa đủ mạnh để có thể cập nhật các thông tin tài chính kịp thời và đầy đủ. Thứ ba, cơ chế chính sách còn chưa hoàn thiện, do vậy một số kỹ thuật đặc biệt của IFRS còn chưa có căn cứ pháp lý để thực hiện, ví dụ việc ghi nhận tổn thất tài sản, việc kế toán các công cụ phái sinh cho mục đích phòng ngừa rủi ro, việc ghi nhận giá trị hợp lý của một số tài sản tài chính, bất động sản đầu tư hoặc tài sản sinh học đều chưa được hướng dẫn. Mặt khác, kỹ thuật để thực hiện một số đánh giá là tương đối phức tạp như việc xác định tổn thất LTTM, đánh giá giá trị thu hồi của tài sản, giá trị nội tại, lãi suất hiệu lực,... còn rất nhiều khó khăn. Bên cạnh đó, một trong những đặc điểm phổ biến nhất và quan trọng nhất của IFRS, là việc IFRS được thiết kế dựa trên các nguyên tắc. Cũng có nhiều nghiên cứu tập trung bàn luận về sự khác biệt giữa chuẩn mực kế toán được thiết kế, dựa trên các nguyên tắc và dựa trên các quy tắc. Theo đó, một khi chuẩn mực được thiết kế dựa trên các nguyên tắc thì chúng yêu cầu 276
  4. n trÞ - Kinh nghiÖm quèc tÕ vµ thùc tr¹ng ë ViÖt Nam nhiều sự xét đoán nghề nghiệp từ phía những người hành nghề kế toán và các nhà quản lý DN. Tuy nhiên, có một vài chuẩn mực trong IFRS như chuẩn mực kế toán về thuê tài sản không hẳn được thiết kế dựa trên các nguyên tắc, bởi vì nó không nhất quán với các khái niệm được trình bày trong Chuẩn mực chung của Liên đoàn Kế toán Quốc tế. Điều này dẫn tới đặc tính giữa chuẩn mực dựa trên các nguyên tắc và chuẩn mực dựa trên các quy tắc, có thể không rõ ràng trên thực tế. Kết quả là sự nhận thức của những người hành nghề đôi khi còn bị lẫn lộn giữa chuẩn mực theo nguyên tắc và chuẩn mực theo quy tắc. Chuẩn mực kế toán dựa trên các nguyên tắc và chuẩn mực kế toán dựa trên các quy tắc, có ảnh hưởng đáng kể đến đào tạo kế toán. Các quốc gia áp dụng Chuẩn mực kế toán dựa trên các quy tắc thường nhấn mạnh vào việc ghi sổ kế toán và học thuộc các quy tắc và khi các quy tắc thay đổi thì cả người dạy và người học lại phải thay đổi và cập nhật. Giảng dạy một hệ thống các quy tắc chi tiết, có thể tạo ra sự thoải mái cho cả người dạy và người học. Về phía người dạy, các quy tắc kế toán được cho là khá dễ hiểu, dễ giải thích và truyền đạt nội dung cho người học. Về phía người học vì thế cũng dễ dàng trong việc tiếp cận, ghi nhớ và thực hiện các quy tắc này. Tuy nhiên, việc áp dụng giảng dạy và học tập theo chuẩn mực kế toán dựa trên các quy tắc cũng tạo ra nhiều hạn chế. Theo đó, có sự lo lắng về việc những người giỏi sẽ không bị hấp dẫn về nghề nghiệp kế toán và lo lắng về chương trình giảng dạy, dựa trên học thuộc và không phù hợp trong cả giáo dục đại học và nghề nghiệp. Giảng dạy kế toán khi đó nhấn mạnh vào học thuộc và không dựa vào nghiên cứu để hiểu rõ về bản chất, sẽ gây cho người học khó khăn trong việc xử lý các vấn đề khi mà các quy tắc không được giảng dạy hoặc các quy tắc không rõ ràng gây nhàm chuẩn mực kế toán trong IFRS. Cung cấp cho các người dạy kế toán cơ hội tốt, để thay đổi chương trình giảng dạy, mà nó giúp cho học viên có được các kỹ năng cần thiết. Mặt khác, các cơ sở đào tạo (các trường đại học và các công ty đào tạo trong nước) tại Việt Nam, hiện chưa có chương trình đào tạo IFRS một cách hệ thống. Mới chỉ có một số các tổ chức nghề nghiệp quốc tế như ACCA, CPA Australia, ICAEW có chương trình đào tạo IFRS cho một số học viên tuy nhiên số lượng chưa nhiều. Một số công ty kiểm toán như Big 4 cũng mới chỉ đào tạo chủ yếu cho nhân viên công ty. Tuy nhiên, đại bộ phận kế toán viên tại các DN là những người trực tiếp lập BCTC đều chưa được đào tạo và tiếp cận IFRS. Hầu như các trường đại học chưa triển khai việc đào tạo IFRS cho sinh viên, dẫn đến sinh viên khi ra trường chưa biết gì về IFRS. Ngoài ra, bản thân cơ quan thuế cũng như các cán bộ thuế họ cũng chưa thể nắm rõ về các chuẩn mực của IFRS, nên khi làm theo IFRS thì chênh lệch giữa thu nhập chịu thuế thu nhập DN và lợi nhuận kế toán sẽ ngày càng khác biệt. Trong khi đó, để người làm kế toán có thể hiểu và áp dụng IFRS trong quá trình làm việc, cấp thiết cần có các khoá học và chương trình phù hợp, để đào tạo người dạy cũng như người học có kiến thức đủ sâu, rộng trong áp dụng IFRS để hành nghề. Việc áp dụng chuẩn mực BCTC quốc tế - IFRS sẽ giúp Việt Nam cải thiện môi trường kinh doanh theo hướng minh bạch hơn, giúp nâng cao năng lực cạnh tranh và quản trị DN, hỗ trợ cải cách tài chính và khởi nghiệp quốc tế. Đó là một tất yếu khách quan, tuy nhiên, để có thể áp dụng cần có lộ trình rõ ràng trong việc đào tạo các chuyên gia tư vấn, người dạy cũng như trang bị cho kế toán viên kiến thức đủ sâu, rộng về các nguyên tắc kế toán cũng như nội dung quy định của IFRS để việc áp dụng IFRS được thuận lợi. 277
  5. n trÞ - Kinh nghiÖm quèc tÕ vµ thùc tr¹ng ë ViÖt Nam ------------------------------- Tài liệu tham khảo: 1. Ole-Kristian Hope, Justin Jin, and Tony Kang (2006), "Empirical Evidence on Jurisdictions that Adopt IAS/IFRS", Journal of International accouting research. 2. Deaconu, A (2011), Principles and Rules-based Accounting Debate: Implications for an Emergent Country, The Journal of the Faculty of Economics, 1 (1): 602-608. 3. People's Republic of China (2009), Report on the obvervance of standard and codes - Accouting and auditing. 4. Trần Mạnh Dũng & Nguyễn Thúy Hồng (2015), IFRS: 10 năm áp dụng và bình luận, Tạp chí Kế toán & Kiểm toán, 143: 27-29. 5. Trần Mạnh Dũng (2009). Chuẩn mực lập IFRS. Tạp chí Kinh tế và phát triển, tháng 11; pp. 69-74. 6. Trần Mạnh Dũng, Đào Mạnh Huy và Nguyễn Thị Thanh Diệp (2011). Kinh nghiệm lần đầu tiên áp dụng chuẩn mực lập IFRS. Tạp chí Kinh tế và phát triển, tháng 3; pp. 95-97. 278
nguon tai.lieu . vn