Xem mẫu

  1. SÁU CÂU HỎI TỪ TRIẾT LÝ GIÁO Khoa Ngữ văn, Trƣờng DỤC CỦA JOHN Đại học Sƣ phạm Hà Nội DEWEY CHO “DẠY HỌC NGỮ Điện thoại: 0914 991 VĂN TRONG BỐI 687 CẢNH ĐỔI MỚI Email: TOÀN DIỆN GIÁO du_tu_ai@yahoo.co.uk DỤC PHỔ THÔNG” Ở VIỆT TS. NGUYỄN ÁI HỌC NAM HIỆN NAY TÓM TẮT Bài viết giới thiệu tổng quát về John Dewey và triết học của ông. Vận dụng triết lý giáo dục của tác giả này, chúng tôi nêu lên sáu câu hỏi về vấn đề dạy học Ngữ văn trong bối cảnh đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục phổ thông ở Việt Nam hiện nay. Từ khóa: John Dewey, triết lí, giáo dục, câu hỏi. ABSTRACT Six Question about “Teaching Philology in the Context of Comprehensive renovation of Compulsory Education” in Vietnam – Based on the Theory of John Dewey Providing a general introduction of John Dewy‟s theory, the article deals with six questions about teaching philology in the context of the fundamental and comprehensive renovation of education in Vietnam. Key words: John Dewey, theory, education, question 1. John Dewey là ai? John Dewey là nhà triết học lớn nhất nƣớc Mỹ nửa đầu thế kỉ XX, ông đồng thời là nhà giáo dục vĩ đại, đóng góp lớn lao vào công cuộc cải cách giáo dục của nhân loại. Tƣ tƣởng triết học và sự nghiệp giáo dục đồ sộ của John Dewey đã bao trùm đời sống trí thức Mỹ, ảnh hƣởng to lớn làm thay đổi nền giáo dục Mỹ suốt thế kỷ XX. Ông đã trở thành thần tƣợng của những tri thức Hoa Kỳ lỗi lạc. Ông sinh ngày 20/10/1859 và mất ngày 01/06/1952 (thọ 93 tuổi). 71
  2. John Dewey đã dành trọn cuộc đời dài gần một thế kỷ của mình cho sự nghiệp xây dựng một nền giáo dục dân chủ, vì sự tiến bộ của ngƣời học, vì lợi ích to lớn của con ngƣời, vì sự phát huy tận độ tài năng, trí tuệ, đạo đức nơi mỗi cá nhân con ngƣời, nhằm xây dựng cộng đồng xã hội thực sự tốt đẹp. Tuy nhiên, triết lý giáo dục của Dewey, tƣ tƣởng dân chủ giáo dục của ông không phải đƣợc ủng hộ hoàn toàn trên đất Mỹ, các trƣờng phái đối lập vẫn chỉ trích ông. Mặc dầu vậy, những thành quả lao động của Dewey vẫn luôn là một di sản vô giá, đặc biệt với những ngƣời muốn xây dựng trƣờng học theo ý tƣởng của Dewey. Có thể nói, di sản giáo dục của John Dewey chƣa đƣợc xem là một phƣơng pháp mang tính phổ cập cho giáo dục nhân loại, nhƣng triết lý, tƣ tƣởng, quan điểm của Dewey đi vào thực tiễn trong gần một thế kỷ qua, và điều đáng nói là nó vẫn là những quan điểm đầy “khiêu khích” đối với “triết lý” và “thực tiễn” giáo dục của loài ngƣời. Đối với giáo dục của Việt Nam hôm nay, nội dung triết lý giáo dục của John Dewey vẫn là những giá trị đầy tính thời sự, nó càng đặc biệt có ý nghĩa khi Đảng, nhà nƣớc, Bộ giáo dục ở Việt Nam đang xây dựng và phát triển đề án “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”. 2. Triết học và triết lý giáo dục của John Dewey 2.1. Triết học John Dewey Đƣợc đào tạo khá bài bản về triết học ở trƣờng Đại học John Hopkins – một trƣờng đi tiên phong trong giáo dục sau đại học theo mô hình Đức tại Mỹ (Lƣu ý sinh viên, học viên tìm hiểu thêm về mô hình Đại học HumBoldt và sự ảnh hƣởng của nó trên khắp thế giới, đặc biệt là sự ảnh hƣởng của nó đến sự hình thành và phát triển của các Đại học ở Mỹ…) với những ngƣời thầy triết học ảnh hƣởng tƣ tƣởng trƣờng phái Hegel, với luận văn tốt nghiệp tiến sĩ mang đề tài: Tâm lý học của Kant, John Dewey ban đầu đã chịu ảnh hƣởng của chủ nghĩa lý tƣởng tuyệt đối của phái Hegel, nhƣng sự biến chuyển đổi thay, do nhiều tác động của bối cảnh khoa học thời đại ông tại Mỹ, John Dewey đã đến với tƣ tƣởng triết học thực dụng. Từ đây, ngƣời ta đã biết đến John Dewey là nhà triết học thực dụng (hay là công cụ luận, thuyết công cụ…) có ảnh hƣởng lớn nhất, ngƣời đƣa tƣ tƣởng thực dụng một cách có phƣơng pháp vào sinh hoạt hàng ngày của tổ chức đời sống xã hội ở Mỹ, đặc biệt là việc triển khai tƣ tƣởng thực dụng trong giáo dục Mỹ thế kỷ XX. 2.1.1. Quan niệm của John Dewey về triết học, về công việc của triết học 72
  3. Quan niệm của John Dewey về triết học đƣợc gửi gắm trong toàn bộ trƣớc tác của ông về triết học và giáo dục. Những ngƣời nghiên cứu về John Dewey đều tìm thấy ý nghĩa thực dụng trong triết học của ông ngay khi ông nêu những quan điểm của mình. Trƣớc hết, chúng ta có thể lắng nghe những tuyên ngôn trực tiếp của ông. Theo Dewey: “Nhiệm vụ chính của triết học là tìm cách hiểu đƣợc nguyên nhân sâu xa của sự rối loạn rất dễ nhận ra trong những thời điểm diễn ra sự biến động nhanh chóng của nền văn minh, hiểu đƣợc cái gì nằm ở đằng sau cái đang bộc lộ ra bên ngoai, hiểu đƣợc chất đất nào nuôi dƣỡng những gốc rễ của một trình độ văn minh cụ thể. Triết học quan tâm tới mối quan hệ giữa con ngƣời với thế giới nơi nó đang sống bao lâu con ngƣời và thế giới bị tác động bởi văn hóa, sự tác động này là vô cùng lớn, chứ không phải nhƣ ta thƣờng vẫn tƣởng” [1, tr. 1]. Quan niệm triết học của Dewey gắn với quan điểm thực tiễn khá triệt để, bởi vậy triết học của Dewey thƣờng gắn với cái nhìn của nhà xã hội học. Triết học gắn với nhiệm vụ xã hội, giải quyết các vấn đề thực tại. “Hiểu rõ đƣợc tình hình hiện tại đòi hỏi nhiều can đảm. Hiểu đƣợc tình hình một cách triệt để đòi hỏi nỗ lực lâu dài. Nhƣng triết học đem lại niềm hi vọng mới vì triết học nhất định phải tham gia vào việc khởi xƣớng những xu hƣớng vận động để rồi sau đó con ngƣời sẽ hoan tất những xu hƣớng đó bằng hành động. Bƣớc trƣớc tiên là phải thẳng thắn nhận ra thế giới mà chúng ta đang sống lúc này là gì và nó sẽ đi về đâu. Ngay cả nếu nhƣ chúng ta không thể làm đƣợc gì bằng sức lực đôi tay và cơ bắp thì chúng ta ít nhất cũng có thể nhìn thẳng vào nó. Nhƣng điều không nên làm là thêu dệt những bức màn chắn khiến cho chúng ta không nhận ra tình hình đang diễn ra thực sự” [1, tr. 3]. Quan niệm trên đây của Dewey cho thấy nhiệm vụ của triết học là nhiệm vụ phân tích thực tiễn, để khai mở những con đƣờng hành động. Từ cơ sở sinh vật học, từ Darwin, từ những nghiên cứu tâm lý học chức năng, Dewey là ngƣời phủ định mạnh mẽ thuyết nhị nguyên truyền thống, nhƣ sự chia cắt tinh thần và vật chất, cá nhân và xã hội. Ông hào hứng nêu lên: “Chúng ta còn thiếu một tƣ tƣởng có hệ thống để chỉ ra sự phát triển tiếp theo. Triết học không thể giải quyết những vấn đề này, cũng giống nhƣ triết học thế kỷ XVII không thể giải quyết những vấn đề của vật lý học, song các nhà triết học ngay hôm nay có thể phân tích những vấn đề và đƣa ra những giả thuyết phục vụ và gây ảnh hƣởng tới nhiều ngƣời để rồi chúng có thể đƣợc trắc nghiệm bằng phƣơng pháp duy nhất sau đây: Việc làm thực tiễn” [1, tr.4]. Quan niệm triết hoc và công việc trên đây đã đƣa John Dewey trở thành nhà triết học thực dụng có ảnh hƣởng lớn nhất, ông đƣợc xem là cha đẻ của trào lƣu tân giáo dục. 73
  4. 2.1.2. Những nội dung cơ bản của triết học thực dụng Triết học thực dụng là triết học gắn với khoa học, bắt nguồn từ một quan niệm dựa trên cơ sở sinh học rằng: “Cơ thể con ngƣời luôn tìm kiếm một trạng thái yên tâm hoặc thăng bằng. Nó tìm kiếm một sự điều chỉnh trƣớc môi trƣờng của nó. Đây là khuynh hƣớng cơ bản của cơ thể con ngƣời, nó bị ràng buộc vào các nhu cầu sinh lý cơ bản nhất buộc phải đƣợc đáp ứng nếu nhƣ sự sống, xét nhƣ là một giá trị quan trọng số một, muốn đƣợc duy trì” [3, tr. 32 - 33]. Theo Dewey, đôi khi sự biến đổi quyết liệt của môi trƣờng, sinh vật ngƣời không thấy mình có sẵn một đáp ứng thích đáng nào nên nó phải xoay sở cho ra một giải đáp để tiếp tục sống còn. Do đó có nhu cầu suy nghĩ. Nếu tƣơng quan giữa sinh vật – ngƣời và môi trƣờng đƣợc mô tả bằng từ ngữ “hoàn cảnh” hoặc “tình huống” thì ngƣời ta có thể cho rằng tƣ duy chỉ thiết yếu khi có một hoàn cảnh hay tình huống sụp đổ… “Hành động tƣ duy có nghĩa là giải quyết một vấn đề. Tƣ duy không phải một phƣơng tiện để khám phá bản tính của thực tại tối hậu mà là công cụ thực hành đƣợc dùng để tìm kiếm giải pháp cho các vấn đề thực tiễn […]. Thật vô nghĩa khi nói đến chân lý tuyệt đối, vì tri thức hoặc chân lý tuyệt đối đều bị giới hạn trong các giải pháp cho các vấn đề cá biệt. Chân lý có tinh tƣơng đối đối với các hoàn cảnh (hay tình huống) cá biệt, và có bao nhiêu giải pháp cho vấn đề thì có bấy nhiêu chân lý” [6, tr. 420 - 421]. “Về phƣơng diện siêu hình học, chủ nghĩa thực dụng bác bỏ quan niệm của Plato cho rằng tƣ tƣởng của một con ngƣời xuất phát từ một “khái niệm” toàn cầu, bất biến, thuộc về một cõi siêu hình nào đó và không lệ thuộc vào quan niệm của con ngƣời. Những ngƣời theo chủ nghĩa thực dụng cho rằng, tƣ tƣởng là công cụ của con ngƣời, gồm có giả thuyết, ƣớc đoán và những kế hoạch, nhằm giải quyết các vấn nạn của con ngƣời. Tƣ tƣởng xuất phát từ xã hội, liên quan tới các sinh hoạt của con ngƣời. Thay vì đi tìm các câu trả lời trong cõi siêu hình, những ngƣời thực dụng chú trọng vào sự tƣơng tác giữa con ngƣời với nhau, giữa con ngƣời với môi trƣờng nó sinh sống. Những sự tƣơng tác này tạo ra những vấn nạn con ngƣời cần giải quyết để sinh tồn và để sống một cách thoải mái. Quan tâm chính yếu của những ngƣời thực dụng là tìm ra một phƣơng pháp giải quyết vấn đề của con ngƣời trong đời sống thực. Về phƣơng diện nhận thức luận, Dewey và những ngƣời thực dụng quan tâm đến câu hỏi: Làm thế nào để ta biết rằng ta biết? Làm sao ta có thể biết những ý tƣởng của ta là đúng? Đâu là cách chính xác nhất để ta nhận biết? Tuy nhiên, những ngƣời thực dụng không chấp nhận câu trả lời là “cái biết” của ta do một nguồn nào đó cao hơn kinh nghiệm của con ngƣời ban cho. Họ cho rằng biết của con ngƣời phải xuất phát từ kinh nghiệm mà ra. Dewey định nghĩa: “Kinh nghiệm là tiến trình tƣơng tác giữa con ngƣời 74
  5. và môi trƣờng”. Trong tiến trình này con ngƣời sẽ gặp phải những vấn đề mới làm trở ngại nếp sinh hoạt đã quen, nghĩa là những vấn đề khác với những gì mà kinh nghiệm trong quá khứ đã giải quyết, và cần có những giải pháp mới. Đời sống theo Dewey và những ngƣời theo chủ nghĩa thực dụng là một chuỗi các vấn đề, và “một đời sống thành công là một đời sống trong đó cá nhân và tập thể xác định đƣợc vấn đề đặt ra cho họ và tìm cách giải quyết đƣợc những vấn đề này”. Về phƣơng diện giá trị luận, Dewey bác bỏ quan niệm của Plato cho rằng các giá trị đạo đức xuất phát từ một đấng tối cao mang tinh cách bất biến, phổ cập và vĩnh cửu cho mọi thời đại, hay quan niệm của Aristotle cho rằng giá trị đạo đức mang tinh phổ cập ngàn đời vì đƣợc đặt căn bản trên lý tính của con ngƣời, và lý tinh cũng giúp con ngƣời nhận thức thế nào là thiện ác, đúng sai. Dewey cho rằng các giá trị luân lý, đạo đức thay đổi theo từng thời đại chứ không bất biến nhƣ Plato và Aristotle quan niệm… Về phƣơng diện luận lý học, những ngƣời thực dụng dựa vào thực chứng kinh nghiệm và những ý tƣởng đã đƣợc đánh giá qua kinh nghiệm và qua các thử nghiệm khoa học. Những ngƣời thực dụng không chấp nhận phƣơng pháp suy luận diễn dịch đi từ một tiền đề (trong triết học) hoặc một định đề (trong toán học) mà vận dụng phƣơng pháp quy nạp đƣa đến một kết luận tổng quát dựa trên những trƣờng hợp đặc thù. Luận lý quy nạp trong triết học và khoa học đƣa đến những kết luận, những “chân lý” tƣơng đối, những chân lý đã đƣợc kiểm nghiệm trong quá khứ. Nhƣng những chân lý này luôn luôn bị thử thách bởi các khám phá mới và các chứng cứ mới” [5, tr. 2 - 3]. Một triết học nhƣ vừa mô tả trên đây rõ ràng là triết học giải quyết các vấn đề thực tiễn, triết học gắn với khoa học nhằm cải tạo thực tiễn. Cái nối kết giữa các nhà thực dụng (tiêu biểu là Peirce, James và John Dewey) với nhau là niềm tin của họ rằng có một sự liên kết mật thiết giữa tƣ duy và hành động. Khái niệm thực dụng đối với các nhà triết học thực dụng có nghĩa là cách thức mà tƣ duy thể hiện trong hành động. Các nhà triết học thực dụng coi rẻ kiểu tƣ duy không tạo ra đƣợc sự thay đổi nào trong đời sống. Tinh thần thực dụng nói trên đây đã đƣa tới những nguyên tắc cơ bản mà chủ nghĩa thực dụng tuân theo nhƣ: ý tƣởng của ta thực sự có giá trị khi đã đƣợc thể nghiệm trong hoạt động thực sự của con ngƣời; kinh nghiệm là kết quả của sự tƣơng tác giữa con ngƣời với nhau và giữa con ngƣời với thiên nhiên; trong đời sống thì con ngƣời phải đối phó với những tình huống “hoang mang, bối rối” trƣớc vấn đề khác với kinh nghiệm đã từng trải qua, đó là sự trục trặc cần phải giải quyết và tƣ duy bắt đầu từ đó. Tƣ duy nhƣ vậy hiển nhiên phải là tƣ duy khoa học gắn với thực nghiệm để thực thi. Chính điều này đã thúc đẩy John Dewey tập trung bàn nhiều về tƣ duy, phƣơng pháp tƣ duy, rèn tƣ duy, “rèn trí nghĩ” mà ông gọi là: “Cách chúng ta nghĩ” (How we think). Chính nơi đây Dewey đã cho ra đời bản lƣợc đồ tƣ duy (có ngƣời gọi là phƣơng thức tƣ 75
  6. duy toàn diện) hết sức quan trọng, gồm “năm bƣớc tách biệt theo logic: (I) một cái khó đƣợc thâu nhận; (II) phạm vi và định nghĩa của nó; (III) đề xuất cho một giải pháp khả dĩ; (IV) sự triển khai bằng cách lập luận cho những căn cứ của đề xuất; (V) tiếp tục quan sát và thực nghiệm đi đến chấp nhận hoặc bác bỏ đề xuất, tức là một kết luận tin theo hay không tin theo” [4, tr. 120 - 121]. Lƣợc đồ trên đây là minh chứng cho quan niệm của các nhà thực dụng rằng: chủ nghĩa thực dụng là một phƣơng pháp, triết học thực dụng là triết học khoa học, phƣơng pháp khoa học. Với Dewey, tƣ duy khời đầu bằng một “sự hoài nghi” có thực, bằng một “nhu cầu cảm nhận đƣợc”. Sự tra vấn triết học dấy lên từ những vấn đề thuộc về lƣơng tri, gắn với những vấn đề mang ý nghĩa cá nhân, ở đó, việc tìm ra một giải pháp khả thi mới là quan trọng. Hoài nghi ở đây là “hoài nghi đích thực trong tâm lý” gắn vơi cảm giác bị kích thích thực sự thay cho cảm giác “hoài nghi giả vở”, “hoài nghi tất cả” trong truyền thống triết học Descartes. Thứ đến (giai đoạn hai trong bản lƣợc đồ của Dewey) là “sự cô lập” điều nghi vấn cần đƣợc giải quyết và làm rõ nó. Ở đây, có việc cần phải loại trừ những nghi vấn giả bằng cách chuyển từ cảm giác đơn thuần bị kích thích sang thành một nghi vấn trí tuệ, xem xét những điều kiện có thực. Giai đoạn thứ ba của bản lƣợc đồ nhƣ chính Dewey phân tích: “Sự gợi ý chính là trung tâm của suy luận”. Đó là “giả định”, “phỏng đoán”, “dự đoán”, “giả thuyết”. “Việc nuôi dƣỡng các gợi ý đa dạng và có thể thay thế cho nhau là một nhân tố quan trọng của việc suy nghĩ đến nơi, đến chốn”. Giai đoạn thứ tƣ của bản lƣợc đồ là việc “phân giải chi tiết một ý kiến”, tức là tìm phƣơng thức giải quyết cho một giả thuyết. Đây chính là sự “kiểm soát trí tuệ nghiêm ngặt”, để đi đến giai đoạn thứ năm là “chứng thực bằng thực nghiệm”. Năm bƣớc của “cách ta nghĩ” cho thấy trí nghĩ đã đƣợc rèn luyện là “trí óc nắm bắt đƣợc tốt nhất mức độ quan sát, việc hình thành ý kiến, lý giải và những kiểm nghiệm cần thiết cho bất cứ trƣờng hợp đặc biệt nào, và nó tận dụng đƣợc tối đa cho những suy nghĩ tƣơng lai, những sai lầm đã phạm phải trong quá khứ…” [4, tr. 130] Theo Reginald D.Archambault [3; tr. 34 - 35], lần đầu tiên Dewey đã sử dụng thuật ngữ quan trọng của khoa học, đó là thuật ngữ “giả thuyết”. Triết học của John Dewey đi vào đời sống học thuật và đời sống xã hội… đã nâng Dewey lên địa vị vừa là nhà triết học, vừa là nhà tâm lý học, vừa là nhà tổ chức xã hội. Nhƣng tên tuổi lẫy lừng John Dewey đặc biệt gắn với triết lý giáo dục của ông. 76
  7. 2.2. Triết lý giáo dục của John Dewey Lý thuyết về kinh nghiệm phải đƣợc hiện thực hóa thông qua thực nghiệm và hòa hợp với thực tiễn. Đó là cốt lỗi của tƣ tƣởng triết học thực dụng của Dewey đƣợc ông vận dụng vào lĩnh vực giáo dục. Triết học giáo dục của Dewey phải đƣợc hiểu trong bối cảnh triết học của ông diễn ra trong bối cảnh lịch sử của nƣớc Mỹ đầu thế kỷ XX. Trong tiểu luận “Nhu cầu về một triết học giáo dục” [3 tr. 55], Dewey đã đối lập triết học giáo dục của ông với… giáo dục của nhà trƣờng truyền thống, với nhiều điểm lạc hậu của nó. Mở đầu tiểu luận này, Dewey viết: “Nền giáo dục truyền thống là một tập ngữ nếu không muốn nói là của sự phản kháng thì ít nhất cũng là sự tƣơng phản, tƣơng phản lại với một nền giáo dục chủ yếu mang tính chất tĩnh về nội dung, độc đoán về phƣơng pháp, và trẻ em chủ yếu là thụ động và tiếp nhận”. Từ đó Dewey bắt dầu tiến thẳng vào đặt vấn đề: triết học giáo dục là một nỗ lực nhằm tìm ra giáo dục là gì và giáo dục diễn ra nhƣ thế nào? Để trả lời câu hỏi ấy Dewey đã xuất phát từ căn cứ khoa học với sinh vật học và cả tâm lý học chức năng. Ông viết: “Trƣớc khi chúng ta có thể phát biểu một triết lý giáo dục, chúng ta buộc phải hiểu đƣợc bản tính con ngƣời đƣợc cấu tạo nhƣ thế nào trong cụ thể, chúng ta buộc phải hiểu đƣợc những hoạt động của những ảnh hƣởng xã hội có thực”. Rõ ràng, Dewey đã chú ý đến hai yếu tố tƣơng tác với nhau để cho những kết quả giáo dục. Đó là yếu tố cá nhân và yếu tố môi trƣờng xã hội. Trong hoạt động tƣơng tác ấy, những nguyên liệu cơ bản đƣợc biến thành điều gì đó mang ý nghĩa to lớn hơn. Nhƣ vậy, “giáo dục là một quá trình của phát triển, của tăng trƣởng”, tăng trƣởng xã hội trên cơ sở cá nhân. Mục tiêu của giáo dục là phát triển tối đa những tiềm năng cá nhân. Quá trình giáo dục là quá trình hoạt động của con ngƣời trong một xã hội – “một xã hội của những cá nhân tự do trong đó tất cả bằng lao động của riêng mình đóng góp cho sự khai phóng và làm phong phú cuộc sống của ngƣời khác, chính là môi trƣờng duy nhất để mọi cá nhân có thể thực sự phát triển bình thƣờng xứng với tầm của mình”. Tƣ tƣởng khoa học trong triết lý giáo dục của John Dewey làm cơ sở thật vững chắc để ông tiến tới tƣ tƣởng dân chủ trong giáo dục – một triết lý gắn với thực tiễn của thời đại đồng thời là một triết lý tiến bộ nói lên đƣợc khát vọng nhân văn to lớn, sâu xa của loài ngƣời. Ông viết: “Trong một thế giới bị cuốn vào cuộc chạy đua điên rồ và thƣờng là tàn nhẫn vì lợi ích vật chất bằng sự cạnh tranh liên tục, thì trƣờng học phải có trách nhiệm bằng nỗ lực có tổ chức một cách thông minh và bền bỉ để trên hết phải phát triển ý chí hợp tác và tinh thần biết nhận ra ở mọi cá nhân khác một con ngƣời có quyền bình đẳng chia sẻ những thành quả văn hóa và vật chất của sự sáng tạo tập thể, của nền công nghiệp, của kỹ năng và tri thức của con ngƣời. Mục tiêu tối cao về trí tuệ và nhân cách này là có tính tất yếu vì những lí do khác chứ không phải là để bù đắp cho cái tinh 77
  8. thần vô nhân đạo sinh ra từ sự cạnh tranh kinh tế và bóc lột” [3, tr. 66]. “Một xã hội không đáng hoan nghênh là một xã hội đặt ra bên trong và bên ngoài nó những rào cản ngăn chặn sự giao tiếp và truyền đạt kinh nghiệm một cách tự do. Một xã hội cho phép mọi thành viên chia sẻ bình đẳng lợi ích của nó và điều chỉnh linh hoạt các thiết chế dựa vào mối quan hệ tƣơng giao của các hình thái tồn tại liên kết khác nhau, xã hội ấy cho tới nay đƣợc gọi là dân chủ. Với tính chất nhƣ thế, một xã hội phải có một kiểu giáo dục giúp cho các cá nhân có đƣợc mối hứng thú riêng tới các quan hệ xã hội và kiểm soát xã hội, và tạo ra những thói quen tinh thần có thể duy trì những thay đổi xã hội mà không gây nên sự hỗn loạn” [2, tr. 126]. Đến đây chúng ta có thể thấy: khoa học và dân chủ là hai nội dung lớn duy nhất có mối quan hệ biện chứng với nhau bao trùm trong triết lý giáo dục của John Dewey. Tinh thần “khoa học và dân chủ” thấm nhuần và chi phối mọi khía cạnh nội dung lý luận giáo dục của John Dewey, tạo nên tính nhất quán của triết lý giáo dục của ông. Triết lý ấy hóa thân vào các nội dung lý luận giáo dục phong phú, sinh động thể hiện qua nhiều công trình khá đồ sộ mà John Dewey đã đóng góp cho nhân loại. Chúng ta thật khó mà khái quát đầy đủ triết lý giáo dục của Dewey qua vài nhận xét ngắn gọn.Ở đây, chỉ xin nêu lên một số nội dung – theo chúng tôi là cốt lõi triết lý giáo dục của Dewey: Trƣờng học không đơn thuần là nơi ngƣời lớn dạy cho trẻ con các bài học kiến thức và bài học luân lý. Trƣờng học phải là một cộng đồng dân chủ trong đó mọi hoạt động đƣợc tập trung nhằm tạo ra hiệu quả cao nhất trong việc chia sẻ cho ngƣời học di sản tri thức nhân loại và làm cho họ có thể sử dụng tài năng của mình vào mục đích xã hội. Do đó, giáo dục là một hoạt động của đời sống, là bản thân quá trình sống của trẻ em chứ không phải là một sự chuẩn bị cho một cuộc sống tƣơng lai mơ hồ nào đấy. Nhà trƣờng có nhiệm vụ tạo ra những điều kiện tốt nhất để cá nhân ngƣời học phát huy tận độ năng lực của mình, tạo dựng kiến thức cho mình bằng toàn bộ công cụ của chính mình nhƣ: đôi mắt, đôi tai, đôi tay, đôi chân và đặc biệt là tƣ duy. Tóm lại là ngƣời học có thể phát triển toàn vẹn mọi khả năng của mình để tham gia vào đời sống xã hội. Không có nội dung hoặc giá trị tự thân tuyệt đối nào từ bên ngoài đƣợc mang áp đặt cho học sinh. Nhà trƣờng và giáo viên phải tạo ra một môi trƣờng trong đó những hoạt động của trẻ chứa đựng cả những tình huống khó khăn, để từ đó người học tự tìm tòi và xây dựng kiến thức thông qua “kinh nghiệm” và “tư duy”, thông qua “trải nghiệm” của chính bản thân. 78
  9. Học sinh là mục đích tồn tại của hoạt động giáo dục. Học sinh phải liên tục đƣợc khuyến khích tham gia vào các hoạt động của nhà trƣờng. Học sinh phải thực sự là ngƣời cộng tác để lên kế hoạch cho chƣơng trình học và do đó lên kế hoạch cho toàn bộ môi trƣờng học. Qua hoạt động của nhà trƣờng, của lớp học, học sinh tham gia vào những phƣơng pháp khoa học và “thủ tục” dân chủ. Học sinh thực sự tham gia vào việc sáng tạo và duy trì một đời sống xã hội trong cộng đồng lớp học, trong nhà trƣờng. Giáo viên đóng vai trò là tác nhân quan trọng bậc nhất cho sự khai phóng của ngƣời học. Đó là “ngƣời trợ giáo trong vƣơng quốc đích thực của Thƣợng đế”. Giáo viên không phải là một “quyền uy ban phát” kiến thức, không phải là một vị quan tòa mà là một thành viên trong cộng đồng lớp học. Giáo viên có nhiệm vụ là môt tác nhân kích thích. Bằng việc cung cấp vật liệu, đầu mối thông tin, gợi ý, tổ chức, hƣớng dẫn… giáo viên có thể tạo ra một môi trƣờng khuyến khích sự học tập. Muốn vậy, giáo viên phải là một chuyên gia đƣợc đào tạo tốt, một ngƣời hiểu biết giáo dục toàn diện. Nội dung của giáo dục phải phản ánh sự phát triển của loài ngƣời. Nội dung phải mang tính tăng tiến. Chƣơng trình học phải hiện đại lên cùng với sự phát triển của loài ngƣời. Phƣơng pháp dạy học phải gắn chặt với đối tƣợng và nội dung. Phƣơng pháp là phƣơng pháp của năng lực và hứng thú của trẻ em, của cá nhân đang trƣởng thành, chứ không phải là phƣơng pháp của ngƣời lớn – những kẻ đã trƣởng thành. Phƣơng pháp là sự trình bày rõ ràng biện pháp triển khai nội dung của một kinh nghiệm đang diễn ra để nó đem lại hiệu quả và kết quả nhiều nhất. Bởi vậy, không thể tách rời phƣơng pháp khỏi nội dung. 3. Vấn đề vận dụng triết lý giáo dục của John Dewey vào giáo dục và dạy học ở Việt Nam. 3.1. Sự ảnh hưởng của triết lý giáo dục của Dewey Tƣ tƣởng triết lý giáo dục của John Dewey làm thay đổi nền giáo dục nƣớc Mỹ thế kỷ XX, tƣ tƣởng của ông cũng ảnh hƣởng ra nền giáo dục nhiều nƣớc trên thế giới. Ở châu Á, từ năm 1919, Dewey đã đƣợc mời đến thực hiện một loạt bài giảng tại trƣờng Đại học Hoàng Gia – Tokyo, và ngay sau đó (cũng trong năm 1919) ông đƣợc mời đến giảng dạy về triết học và giáo dục tại Bắc Kinh và Nam Kinh (Trung Quốc). Nhƣ vậy, cách đây non nửa thế kỷ, triết học giáo dục của John Dewey đã thâm nhập vào Nhật Bản và Trung Quốc. 79
  10. Tại Việt Nam, năm 1940, Vũ Đình Hòe đã giới thiệu John Dewey trên báo Thanh Nghị nhƣng sau đó tƣ tƣởng triết học của Dewey gần nhƣ đã vắng bóng suốt hai phần ba thế kỷ. Cái tên John Dewey nếu có đƣợc nhắc đến đâu đó ở Việt Nam thì cũng gắn với việc phê bình triết học của ông, gắn với sự phê phán triết học thực chứng của “giai cấp tƣ sản”. Trong chƣơng trình giáo dục thực nghiệm của Hồ Ngọc Đại hai thập niên gần đây, có sự âm thầm vận dụng tƣ tƣởng của Dewey. Hiện nay, John Dewey đã đƣợc dịch và giới thiệu khá bài bản ở Việt Nam với các công trình của Phạm Anh Tuấn nhƣ: Dân chủ và giáo dục (Nxb Tri thức, 2008), John Dewey về giáo dục (Nxb Trẻ, 2012), Kinh nghiệm và giáo dục (Nxb Trẻ, 2012) cùng với bản dịch: Cách ta nghĩ của Vũ Đức Anh (Nxb Tri thức, 2013). Sự xuất hiện trở lại một cách bài bản hơn và đầy đủ hơn trƣớc tác của Dewey ở Việt Nam hiện nay phải kể đến công lao của các dịch giả nói trên, và đặc biệt là công lao của quỹ dịch thuật Văn hóa Phan Chu Trinh và Nhà xuất bản Tri thức. Tuy nhiên, sự vận dụng triết học giáo dục của John Dewey vào giáo dục và dạy học ở Việt Nam chƣa đƣợc tiến hành bằng những công trình nghiên cứu chuyên sâu, chƣa có các nội dụng vận dụng một cách tự giác đƣợc hiện thực hóa trở thành phổ biến. 3.2. Bối cảnh giáo dục Việt Nam hiện nay và sự vận dụng tư tưởng triết lý giáo dục của John Dewey 3.2.1. Không thể không nhắc lại ở đây quan niệm về nhiệm vụ của triết học của Dewey: “Nhiệm vụ chính của triết học là tìm cách hiểu đƣợc nguyên nhân sâu xa của sự rối loạn rất dễ nhận ra trong những thời điểm diễn ra sự biến động nhanh chóng của nền văn minh, hiểu đƣợc cái gì nằm ở đằng sau cái đƣợc bộc lộ ra bên ngoài, hiểu đƣợc chất đất nào nuôi dƣỡng những gốc rễ của một trình độ văn minh cụ thể…”. Và “triết học nhất định phải tham gia vào việc khởi xƣớng những xu hƣớng vận động để rồi sau đó con ngƣời sẽ hoàn tất những xu hƣớng đó bằng hành động”. “Bƣớc trƣớc tiên là phải thẳng thắn nhận ra thế giới mà chúng ta đang sống lúc này là gì và nó sẽ đi về đâu. Ngay cả nếu chúng ta không làm đƣợc gì bằng sức lực đôi tay và cơ bắp thì chúng ta ít nhất cũng nhìn thẳng vào nó. Nhƣng điều không nên làm là thêu dệt những bức màn chắn khiến cho chúng ta không nhận ra tình hình đang diễn ra thực sự”. “Các nhà triết học ngày hôm nay có thể phân tích những vấn đề và đƣa ra những giả thuyết phục vụ và gây ảnh hƣởng tới nhiều ngƣời để rồi chúng có thể đƣợc trắc nghiệm bằng phƣơng pháp duy nhất sau đây: Việc làm thực tiễn.” Quan niệm về nhiệm vụ triết học của Dewey vừa nhắc lại trên đây có thể soi sáng cho giáo dục Việt Nam – một nền giáo dục đang bức thiết tìm đƣờng thoát khỏi tình trạng lạc hậu đã kéo quá dài, bị kìm hãm trong quá nhiều năm bởi “tƣ duy bảo thủ”, với một “sức ì quá nặng”. Các nhà trí thức Việt Nam, các chuyên gia giáo dục, các cơ quan hữu trách Việt Nam đang cấp bách, “ráo riết” tìm kiếm các giải pháp “đổi mới căn bản, 80
  11. toàn diện” giáo dục. Chƣa bao giờ triết lý giáo dục khoa học của John Dewey lại có giá trị với giáo dục Việt Nam nhƣ hôm nay. Nghiên cứu, vận dụng triết học giáo dục của John Dewey là phù hợp với nhiều điểm trong tƣ tƣởng, nội dung bản Đề án “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế” [7] của Đảng – Nhà nƣớc – Bộ giáo dục Việt Nam. Nhiều công trình bàn về giáo dục của John Dewey có thể góp phần củng cố cơ sở lý thuyết khoa học cho “Nhiệm vụ và giải pháp” giáo dục trọng tâm mà bản “Đề án” nói trên đề ra, nhƣ: “đổi mới mạnh mẽ, sâu sắc tƣ duy giáo dục”; “đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ các yếu tố cơ bản của chƣơng trình giáo dục( mục tiêu, nội dung, phƣơng pháp…) theo hƣớng phát triển phẩm chất và năng lực ngƣời học”; “giáo dục con ngƣời vừa đáp ứng yêu cầu xã hội vừa phát triển cao nhất tiềm năng của mỗi cá nhân”; “tập trung dạy cách học, cách nghĩ và tự học”; “coi trọng sự phối hợp chặt chẽ giáo dục nhà trƣờng, giáo dục gia đình và giáo dục xã hội”. Nhƣng điều đáng nói là cơ sở khoa học, tính nhân bản, nhân văn của triết lý giáo dục của John Dewey còn làm hậu thuẫn lâu dài cho nhiều nội dung đổi mới giáo dục Việt Nam. Bởi vậy, chúng ta rất cần thiết tiếp tục nghiên cứu vận dụng một cách thích hợp. Việc vận dụng triết lý giáo dục của John Dewey cần đƣợc tiến hành một cách chuyên sâu, với các nội dung cụ thể đối với từng cấp độ của từng phƣơng diện giáo dục… mới mong mang lại hiệu quả thực tiễn. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi xin dừng lại ở việc gợi mở, vận dụng triết lý giáo dục của John Dewey vào một số nội dung cơ bản của lý luận và phƣơng pháp dạy học bộ môn Văn ở trƣờng trung học phổ thông qua sáu câu hỏi mà chúng tôi cho là then chốt nhất. 3.2.2. Sáu câu hỏi từ triết lý giáo dục của John Dewey với dạy học văn ở nhà trƣờng trung học phổ thông Chúng ta đều biết cùng với công cuộc đổi mới giáo dục, đổi mới dạy học, việc đổi mới dạy học ở bộ môn Văn trong nhà trƣờng trung học phổ thông đã đƣợc phát động mấy chục năm qua. Tuy vậy, công cuộc đổi mới dạy học văn vẫn gặp bế tắc. Nguyên nhân bắt nguồn từ hoàn cảnh xã hội, tƣ duy giáo dục lạc hậu, bảo thủ trong đó có tƣ duy về dạy học văn. Tƣ duy về dạy học văn lạc hậu một cách đồng bộ. 81
  12. Vì tƣ duy trong dạy học văn trong nhà trƣờng phổ thông Việt Nam lạc hậu “một cách đồng bộ” cho nên hệ thống vấn đề đặt ra cần giải quyết trong thực tiễn dạy học Ngữ văn ở Việt Nam hôm nay cũng phải “đồng bộ”. Vận dụng nội dung triết lý giáo dục cụ thể của Dewey, chúng ta nhất thiết phải đặt và trả lời ít nhất sáu câu hỏi sau: 1) Cần phải có một chƣơng trình môn Ngữ văn trung học phổ thông nhƣ thế nào cho phù hợp với sự phát huy “kinh nghiệm” của ngƣời học trong “bối cảnh học tập” ở Việt Nam trong đời sống xã hội hôm nay? 2) Cần có một cách tổ chức nhƣ thế nào để xây dựng một cộng đồng dân chủ “đọc hiểu” văn chƣơng trong dạy học văn nhằm phát huy tối đa “tài nguyên dạy học”? 3) Từ cách hiểu về “kinh nghiệm và tƣ duy” của Dewey tiến tới việc lựa chọn cách tổ chƣc, hƣớng dẫn học sinh tiếp nhận văn bản văn chƣơng nhƣ thế nào? 4) Từ quan niệm “tâm lý học chức năng” của Dewey về học sinh cần có một cách thức nhƣ thế nào để phát huy chủ thể học sinh trong dạy học văn? 5) Từ quan niệm của Dewey về phƣơng pháp và nội dung trong giáo dục và dạy học cần tiến tới xây dựng một nội dung phƣơng pháp mới trong dạy học Ngữ văn ở trung học phổ thông nhƣ thế nào? 6) Từ quan niệm dân chủ của Dewey về giáo viên trong giáo dục và dạy học cần tiến tới xây dựng một nội dung quan niệm về ngƣời giáo viên văn học ở Việt Nam trong thời đại ngày nay nhƣ thế nào? Trả lời sáu câu hỏi trên đây thực chất là giải quyết một loạt chuyên đề đổi mới phƣơng pháp dạy học môn Ngữ văn hiện nay. Làm đƣợc điều đó, đòi hỏi sự tiếp tục công sức của nhiều chuyên gia, nhiều nhà giáo, nhiều học viên và sinh viên Ngữ văn trong giới chuyên môn giáo dục của chúng ta. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. John Dewey (1947), Bài nói chuyện của John Dewey tại Khoa Triết Đại học Columbia (Phạm Anh Tuấn dịch), New York, Hoa Kỳ. 82
  13. 2. John Dewey (1916, 2008), Dân chủ và giáo dục (Phạm Anh Tuấn dịch), Nxb Tri thức, Hà Nội. 3. John Dewey (2012), John Dewey về giáo dục (Phạm Anh Tuấn dịch), Nxb Trẻ. 4. John Dewey (1910, 2013), Cách ta nghĩ (Vũ Đức Anh dịch), Nxb Tri thức, Hà Nội. 5. Nông Duy Trƣờng (2012), Chủ nghĩa thực dụng trong giáo dục – Phƣơng thức tƣ duy toàn diện – Học viện công dân. Nguồn: http://www.icevn.org/vi/print/393. Truy cập 10 giờ 30, ngày 21.03.2014. 5. Nguyễn Ƣớc (2009), Các chủ đề triết học, Nxb Tri thức, Hà Nội. 7. V.O.V.VN (Báo điện tử đài tiếng nói Việt Nam 2013), Báo cáo tóm tắt đề án đổi mới toàn diện giáo dục. Nguồn: http://vov.vn/Xa-hoi/Giao-duc/Bao-cao-tom-tat-De-an-doi- moi-toan-dien-giao-duc/281636.vov. Truy cập 10 giờ 30, ngày 21.03.2014. 83
nguon tai.lieu . vn