Xem mẫu
- RỦI RO PHÁT SINH TỪ NỢ NƯỚC NGOÀI CỦA VIỆT NAM
TS. Trương Thị Hoài Linh1
Tóm tắt
Bài viết phân tích tình hình nợ nước ngoài hiện nay của Việt Nam, đặc biệt đi
sâu vào phân tích ba nguy cơ mà tác giả cho là nghiêm trọng đối với Việt Nam bao
gồm rủi ro thanh khoản, rủi ro liên quan đến vay và trả nợ bằng ngoại tệ và gia tăng
các khoản vay thương mại.
Tứ khóa: Nợ nước ngoài
1. Giới thiệu
Nợ công nước ngoài hay nợ nước ngoài của quốc gia (dưới đây gọi là nợ nước ngoài)
là tổng các khoản nợ nước ngoài của Chính phủ, nợ được Chính phủ bảo lãnh, nợ của doanh
nghiệp và các tổ chức khác được vay theo phương thức tự vay, tự trả theo quy định của pháp
luật Việt Nam. Các nghiên cứu thực hiện ở thập kỷ 50, 60 được tổng hợp bởi Tokunbo và
cộng sự (2006) đã khẳng định mối quan hệ chắc chắn giữa nợ nước ngoài và tăng trưởng
kinh tế. Một lý thuyết chung được rút ra là việc chuyển giao các nguồn lực nước ngoài
(thông qua các khoản vay, viện trợ, đầu tư) tại các nước kém phát triển là cần thiết nhằm bổ
sung nguồn vốn thiếu hụt trong nước và một mức vay nợ hợp lý sẽ thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế. Song các nghiên cứu kiểu này mới chỉ giải thích được mối quan hệ tích cực giữa vay
nợ nước ngoài và tăng trưởng kinh tế trong ngắn hạn. Sự hạn chế này đã thôi thúc các nhà
kinh tế học xây dựng một lý thuyết toàn diện giải thích mối quan hệ này, đó là lý thuyết về
“debt overhang”. Krugman (1988) định nghĩa “debt overhang” là tình trạng trong đó số tiền
dự kiến chi trả nợ nước ngoài sẽ giảm dần khi dư nợ tăng lên; nếu dư nợ trong tương lai vượt
quá khả năng trả nợ của một quốc gia thì các chi phí dự tính chi trả cho các khoản nợ sẽ kìm
hãm đầu tư trong nước và từ đó ảnh hưởng tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế. Lý thuyết này
được minh chứng qua đường cong Laffer nợ (theo Patillo và cộng sự, 2002).
Khả năng trả nợ Debt overhang
Dư nợ nước ngoài
1
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân. Email: hoailinh3005@yahoo.com
521
- Đường cong Laffer nợ cho thấy tổng nợ càng lớn sẽ đi kèm với khả năng trả nợ
càng giảm, cụ thể là trên phần dốc lên của đường cong cho thấy dư nợ càng tăng thì
khả năng trả nợ cũng tăng lên, trên phần dốc xuống của đường cong lại cho thấy dư nợ
càng lớn thì khả năng trả nợ càng giảm, hậu quả là giảm dần tư nên dẫn đến kìm hãm
tăng trưởng kinh tế. Như vậy, nợ nước ngoài và tăng trưởng kinh tế có mối quan hệ phi
tuyến. Các nghiên cứu sau này tập trung vào tìm đỉnh của đường cong Laffer - là mức
vay nợ tối đa mà các quốc gia không phải lo lắng đến vấn đề debt overhang - thông
qua các nghiên cứu thực nghiệm tại một số quốc gia đang phát triển. Chẳng hạn nghiên
cứu của Mehmet Caner và cộng sự (2010) đã tìm ra mức này là 64% GDP đối với 75
quốc gia đang phát triển giai đoạn 1980 - 2008; Tokunbo và cộng sự (2006) tìm ra mức
này là 60% GDP cho Nigeria trong giai đoạn 1970 - 2003; Patillo và cộng sự (2002)
tìm ra ngưỡng này là 35% đến 40% GDP cho 93 nước đang phát triển trong giai đoạn
1969 - 1998.
Tại Việt Nam, nợ công nói chung và nợ nước ngoài nói riêng đang là mối lo ngại
không chỉ của các cơ quan quản lý nhà nước mà của mỗi người dân Việt Nam vì theo
nhiều nghiên cứu, nhận định của các nhà quản lý, các tổ chức nghiên cứu độc lập ở
trong và ngoài nước thì nợ nước ngoài của Việt Nam sắp và thậm chí là đã vượt
ngưỡng cho phép2 căn cứ theo một quy chuẩn nhất định nào đó3. Bài viết sẽ phân tích
thực trạng nợ công nước ngoài tại Việt Nam và những nguy cơ phát sinh của loại nợ
này đến tăng trưởng kinh tế của Việt Nam.
2. Tình trạng nợ công nước ngoài của Việt Nam
Trong cơ cấu nợ công của Việt Nam, tính bình quân giai đoạn 2002 - 2015, nợ
nước ngoài chiếm 62%, giảm mạnh từ mức trên 70% năm 2002 xuống còn xấp xỉ 42%
năm 2015 (theo VEPR, 2015).
2
Theo Luật quản lý nợ công 2009, thì nợ công của Việt Nam không bao gồm nợ của Ngân hàng Nhà
nước (NHNN) và các doanh nghiệp nhà nước (DNNN). Nếu tính toán theo cách tính chuẩn của các nước
trên thế giới, thì tổng nợ công của Việt Nam đã vượt trần 65% GDP từ rất lâu, vì nợ của các DNNN và
các địa phương ở Việt Nam đang là một con số khổng lồ. Theo báo cáo của Chính phủ thì đến giai đoạn
cuối năm 2013, tổng nợ của các doanh nghiệp mà Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ đã lên tới
1.550.000 tỷ đồng, tương đương khoảng 52,5% GDP ở thời điểm đó. Đến cuối năm 2014, thì con số này
đã tăng lên thành 1.567.000 tỷ đồng, tăng 8% so với năm 2013. Nếu tính theo cách tính chuẩn của thế
giới, thì tổng nợ công của Việt Nam hiện nay đang vào khoảng trên 100 - 110% GDP, kể cả khi đã trừ đi
phần nợ của các DNNN được Chính phủ bảo lãnh vốn đã được tính vào dư nợ công quốc gia là trên 5%
đi nữa.
3
Quốc hội quy định trần nợ công của Việt Nam là 65% GDP, chưa có quy định về trần nợ công nước
ngoài. Theo nghiên cứu thực nghiệm của Nguyễn Hữu Tuấn (2012), ngưỡng nợ công nước ngoài của
Việt Nam là 65% GDP.
522
- Cấu trúc nợ công của Việt Nam
80.00%
60.00%
40.00%
20.00%
0.00%
2010 2011 2012 2013 2014 2015
Nợ công trong nước Nợ công nước ngoài
Nguồn: Phạm Thế Anh (2015), VEPR (2015).
Mặc dù có xu hướng giảm so với nợ công trong nước nhưng nhìn chung nợ nước
ngoài vẫn đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội của Việt
Nam. Điều này một phần là do đặc điểm lịch sử kinh tế Việt Nam. Cụ thể là, cho đến
cuối thập niên 1980, Việt Nam vẫn dựa vào nguồn viện trợ từ bên ngoài để phát triển
kinh tế, đặc biệt là viện trợ của các nước thuộc khối xã hội chủ nghĩa, thông qua Hội
đồng Tương trợ Kinh tế (COMECON). Mặt khác, từ trước đến giờ, đại đa phần các
khoản nợ nước ngoài của Việt Nam đều có những ưu điểm nổi bật về lãi suất, thời hạn
tín dụng và thời gian ân hạn phù hợp với nhu cầu sử dụng của các dự án thúc đẩy phát
triển kinh tế - xã hội của Việt Nam.
Theo các bản tin nợ công của Bộ Tài chính (được tổng hợp bởi Đỗ Thiên Anh
Tuấn, 2014), nợ nước ngoài của Việt Nam phần lớn là các khoản vay chính thức từ các
chủ nợ đa phương và song phương, chiếm tỷ trọng hơn 91%, trong khi các khoản vay
thương mại từ các chủ nợ tư nhân chỉ chiếm chưa tới 9% tổng nợ công nước ngoài.
Các khoản nợ chính thức đa số là các khoản vay ODA ưu đãi có thời hạn trả nợ còn lại
khoảng 14 - 15 năm, có lãi suất từ 1% - 3% và đa phần là lãi suất cố định. Các khoản
vay thương mại tiêu biểu của Chính phủ Việt Nam là khoản 750 triệu đô la Mỹ huy
động được từ việc phát hành trái phiếu trên thị trường trái phiếu quốc tế lần đầu tiên
vào năm 2005, kỳ hạn 10 năm với lãi suất 7,125%/năm (hầu hết khoản huy động này
được chuyển cho Vinashin); khoản 1 tỷ đô la Mỹ huy động từ phát hành trái phiếu ra
thị trường vốn quốc tế vào năm 2010 cũng với kỳ hạn 10 năm, lãi suất 6,95%/năm
(dùng để hoàn trả vốn ngân sách và giao phần lớn cho các tập đoàn, tổng công ty lớn
sử dụng). Chính phủ đang dự định phát hành thêm 3 tỷ đô la Mỹ trái phiếu quốc tế
trong năm 2016, một phần vốn huy động được sẽ giành để đảo nợ cho khoản nợ trái
phiếu năm 2005. Diễn biến trên thị trường tiền tệ thế giới gần đây dường như đang hậu
thuẫn cho Chính phủ đẩy mạnh tiến trình này. Kết quả cuộc họp tháng 3/2016 của FED
523
- đã làm giảm áp lực tăng lãi suất đô la Mỹ vào cuối năm khi tổ chức này hạ lãi suất mục
tiêu từ 1,4% trong dự báo trước đây xuống 0,9%. Chính phủ Việt Nam có thể tranh thủ
thời gian này để phát hành trái phiếu quốc tế với lãi suất hợp lý.
Về cơ cấu chủ nợ của các khoản nợ nước ngoài, do độ trễ khá lớn trong tập hợp
số liệu này nên mới chỉ có số liệu đến cuối năm 2012 (theo Bản tin nợ công số 2 công
bố tháng 6/2014 của Bộ Tài chính và theo Kỳ Anh, 2014). Theo đó, trong số các chủ
nợ song phương, chủ nợ lớn nhất của Việt Nam là Nhật Bản (với 34,5% tổng nợ nước
ngoài), vượt xa rất nhiều so với chủ nợ song phương thứ hai là Đức (9,8% tổng nợ
nước ngoài). Trong các chủ nợ đa phương, Việt Nam nợ Hiệp hội Phát triển quốc tế
(IDA của WB) 28,8% tổng nợ nước ngoài, tiếp đến là Ngân hàng Phát triển châu Á
(ADB) với 15,5% tổng nợ nước ngoài. Từ năm 2010, Việt Nam bắt đầu tiếp cận vay
của Ngân hàng Tái thiết và Phát triển quốc tế (IBRD - cũng thuộc WB nhưng chủ yếu
dành cho các nước có thu nhập trung bình) với tổng trị giá 700 triệu đô la Mỹ, tương
đương 2,5% tổng nợ nước ngoài. Như vậy, xét về cơ cấu đồng tiền định giá, nợ nước
ngoài của Việt Nam chủ yếu bằng các đồng tiền mạnh như yên Nhật, quyền rút vốn
đặc biệt SDR, đô la Mỹ, euro. Trong đó, nợ bằng đồng yên Nhật chiếm tỷ trọng gần
39%, tiếp đó là quyền rút vốn đặc biệt SDR chiếm khoảng 27%, đô la Mỹ chiếm 22%,
đồng euro đứng thứ tư nhưng chỉ chiếm 9%, trong khi đó đồng nhân dân tệ (CNY) chỉ
chiếm 0,58%.
Về cơ cấu lãi suất nợ, theo tổng hợp từ các báo cáo của Bộ Tài chính, nợ nước ngoài
có lãi suất cố định chiếm tỷ trọng đến trên 95%, nợ có lãi suất thả nổi chỉ chiếm chưa tới
5%. Nợ có lãi suất thả nổi mặc dù vẫn còn chiếm tỷ trọng nhỏ nhưng có xu hướng ngày
càng tăng. Trong số các khoản nợ có lãi suất cố định, tỷ trọng nợ có lãi suất thấp dưới 1%
chỉ chiếm khoảng 1,5%; trong khi nợ có lãi suất trên 3% chiếm đến 15%, đặc biệt các
khoản nợ có lãi suất cao từ 6 - 10% chiếm hơn 6%. Chiếm tỷ trọng lớn nhất vẫn là nợ có
lãi suất cố định ở mức từ 1 đến 3%, chiếm gần 84% tổng nợ nước ngoài.
3. Các nguy cơ phát sinh đối với nợ công nước ngoài của Việt Nam
Nguy cơ đầu tiên là rủi ro thanh khoản.
Rủi ro thanh khoản là khả năng Việt Nam không thể thanh toán một phần hoặc
toàn bộ khoản nợ nước ngoài đến hạn thanh toán theo thỏa thuận. Khả năng không trả
được nợ nước ngoài của Việt Nam được đánh giá thông qua so sánh giữa quy mô nợ
nước ngoài và thu NSNN – một thước đo phản ánh chính xác hơn quy mô của nợ nước
ngoài và khả năng trả nợ của Chính phủ (theo Phạm Thế Anh, 2014).
524
- Mối tương quan giữa nợ công và nợ nước ngoài so với thu NSNN
4.00
2.91 3.11
3.00 2.33
2.21
1.90 1.91
2.00
1.31
1.00 1.19 1.32
1.05 1.08 1.16
0.00
2010 2011 2012 2013 2014 2015
Nợ nước ngoài/Thu NSNN Nợ công/Thu NSNN
Nguồn: Tính toán của tác giả theo số liệu về nợ công của Bộ Tài chính và thu
NSNN của Tổng cục Thống kê.
Nhìn vào biểu đồ trên, quy mô nợ nước ngoài của Việt Nam đều vượt thu
NSNN, từ 1,05 lần năm 2010 đến trên 1,3 lần năm 2014 và 2015. Nhìn vào quá khứ thì
đây chưa phải là cảnh báo nguy hiểm vì các khoản nợ nước ngoài Việt Nam đã huy
động có kỳ hạn rất dài, chưa đến kỳ trả nợ lớn (thời kỳ Việt Nam phải trả nợ nước
ngoài nhiều nhất là vào năm 2022 - 2025). Tuy nhiên, nhìn vào khả năng trả nợ trong
tương lai thì nguy cơ phát sinh rủi ro thanh khoản là khá rõ ràng. Theo tính toán của
tác giả, tốc độ tăng thu NSNN đã giảm mạnh từ mức trung bình 20%/năm giai đoạn
2006 - 2010 xuống còn 10,3%/năm giai đoạn 2011 - 2015. Theo báo cáo của Bộ Tài
chính, dù thu NSNN hàng năm luôn vượt dự toán, song thu NSNN hàng năm hiện nay
đang dựa quá nhiều vào các khoản thu không bền vững (xuất hiện ít, cạn kiệt dần theo
thời gian hoặc phụ thuộc nhiều vào giá biến động trên thị trường thế giới) gồm dầu thô,
viện trợ không hoàn lại, bán tài sản công và giao đất. Nghiêm trọng hơn, chi NSNN
trong thời gian qua luôn vượt cao và xa hơn con số dự toán chi hàng năm, trung bình
vượt dự toán 41,5%/năm giai đoạn 2006 - 2010 và 25,7% giai đoạn 2011 - 2015. Cấu
trúc chi NSNN chuyển biến xấu theo xu hướng tỷ trọng chi thương xuyên ngày càng
cao và chi đầu tư phát triển ngày càng giảm, tỷ lệ chi thường xuyên/chi đầu tư từ mức
2,1 lần giai đoạn 2006 - 2010 đã tăng lên mức 3,25 lần giai đoạn 2011 - 2015 (theo
Phạm Thế Anh, 2014 và số liệu của Bộ Tài chính). Xét theo cơ cấu chi tiêu, tỷ lệ chi
thường xuyên đã lên đến 80% tổng chi ngân sách, phần còn lại chưa tới 20% dành cho
đầu tư phát triển, chưa kể chi trả nợ. Một cấu trúc ngân sách thiên về “tiêu dùng” hơn
“đầu tư” như vậy là hết sức rủi ro. Đây là cơ sở quan trọng làm giảm nguồn trả nợ của
Việt Nam trong thời gian tới, khi vốn không được sử dụng vào tạo ra giá trị gia tăng
mà là tiêu dùng.
525
- Khi đi vay thì trả nợ là nghĩa vụ bắt buộc, vậy nên lên kế hoạch trả nợ cụ thể và
chặt chẽ là việc làm không thể thiếu được để góp phần thu xếp nguồn trả nợ. Tuy
nhiên, công tác quản lý nợ đến hạn của Việt Nam đang có vấn đề không ổn. Theo Đỗ
Thiên Anh Tuấn (2014), VEPR (2015), việc lập dự toán ngân sách chi trả nợ hiện nay
của Việt Nam gần như là một sự mô phỏng ảo thay vì được lập trên cơ sở nợ đến hạn
trong năm thực tế căn cứ vào lịch trả nợ theo thỏa thuận. Thực tế này đặt ra mối lo ngại
rằng Bộ Tài chính không có sẵn một kế hoạch hợp nhất các lịch biểu trả nợ làm cơ sở
cân đối nguồn lực để thanh toán nợ. Hệ quả là khó có thể cân đối được nhu cầu nắm
giữ tài sản thanh khoản để thanh toán nợ một khi có yêu cầu.
Trước tình hình thu NSNN ngày càng khó khăn do suy giảm kinh tế, chi thường
xuyên khó cắt giảm do bộ máy quản lý nhà nước quá cồng kềnh và nợ nước ngoài
được dự báo là sẽ gia tăng trong năm 2016 nếu Quốc hội thông qua đề nghị phát hành
thêm 3 tỷ đô la Mỹ trái phiếu quốc tế (theo Lan Nhi, 2015) thì nguy cơ rủi ro thanh
khoản là khó tránh khỏi đối với Việt Nam.
Nguy cơ tiếp theo là rủi ro phát sinh do vay và trả nợ bằng đồng ngoại tệ.
Rủi ro phát sinh do vay và trả nợ bằng ngoại tệ gồm rủi ro ngoại hối và rủi ro tỷ
giá. Rủi ro ngoại hối phát sinh khi Việt Nam không tích lũy đủ ngoại tệ để trả nợ. Rủi
ro này liên quan đến rủi ro về đồng tiền định giá, tức là rủi ro phát sinh do sự không
tương thích giữa đồng tiền định giá tài sản và đồng tiền định giá nợ. Vay nợ bằng
ngoại tệ trong khi nguồn thu của NSNN chủ yếu bằng nội tệ thì Chính phủ sẽ gặp rủi
ro đồng tiền định giá. Chính phủ cũng có nguồn thu bằng ngoại tệ (xuất khẩu tài
nguyên, khoáng sản, dầu thô) để có thể cân đối ngoại tệ nhằm trả nợ. Tuy nhiên, tại
Việt Nam, các nguồn thu bằng ngoại tệ này hiện đang dần hạn hẹp nên nhu cầu tích
lũy ngoại tệ để trả nợ là thách thức lớn.
Tỷ trọng thu NSNN từ xuất khẩu dầu thô
25.00%
23.50%
23.50%
20.00%
15.00%
13.50% 12.60%
11.50%
10.00% 8.90% 11.10%
9.70%
5.00% 7.50% 5.40%
0.00%
2005 2006 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016
Nguồn: An Huy (2016)
526
- Chẳng hạn, thu ngoại tệ từ xuất khẩu dầu thô vốn là nguồn thu quan trọng thời
kỳ trước năm 2005, song, hiện nay đã bị sụt giảm mạnh. Dự tính đến cuối năm 2016,
nguồn thu này chỉ đóng góp 5,4% vào tổng thu NSNN thay vì mức 23,8% vào thời
điểm 10 năm trước (theo An Huy, 2016), thấp nhất trong giai đoạn 2005 - 2015 và
làm cho nguồn thu này trở thành nguồn “thứ yếu” của NSNN. Thiếu hụt ngoại tệ từ
thu NSNN sẽ buộc Chính phủ phải mua ngoại tệ trên thị trường ngoại hối, gây áp lực
lên cầu ngoại tệ và làm tăng tỷ giá.Nếu cung ngoại tệ không đáp ứng được cầu ngoại
tệ và Chính phủ vẫn muốn duy trì tỷ giá cố định thì dự trữ ngoại hối4 sẽ giảm. Nếu dự
trữ ngoại hối mỏng so với nghĩa vụ thanh toán quốc tế của quốc gia sẽ làm giảm tính
khả tín của chính sách tiền tệ và tỷ giá và có nguy cơ tạo ra các cuộc tấn công đầu cơ
tiền tệ khi áp dụng tỷ giá cố định (theo Phạm Thế Anh, 2015). Theo WB (2016), Việt
Nam gặp “tình trạng nợ công tăng nhanh trong khi dự trữ ngoại tệ thấp (và đang có
xu thế giảm) đang là vấn đề gây lo ngại”.
Rủi ro tỷ giá là tình trạng khi tỷ giá biến động, cụ thể là đồng nội tệ mất giá làm
cho nợ nước ngoài tính bằng nội tệ sẽ tăng lên, khiến cho việc thanh toán nợ của
Chính phủ trở nên khó khăn. Như đã đề cập ở trên về cơ cấu nợ nước ngoài theo loại
tiền, yên Nhật và đô la Mỹ là 2 loại ngoại tệ chiếm tỷ trọng lớn trong nợ nước ngoài
của Việt Nam. Trong thời gian qua, tỷ giá liên quan đến hai ngoại tệ này đều có biến
động đáng kể. Đối với đô la Mỹ, trong tháng 8/2015, NHNN đã phản ứng trước biến
động tỷ giá của đồng nhân dân tệ bằng cách điều chỉnh nới biên độ tỷ giá USD/VND
lên 2% (12/8/2015), tiếp theo đó là điều chỉnh biên độ lên 3% và nâng tỷ giá bình
quân liên ngân hàng thêm 1% (19/08/2015). Tính đến thời điểm cuối năm 2015, nội
tệ đã mất giá 3% so với trước khi có biến động đến từ Trung Quốc, còn so với đầu
năm, nội tệ đã mất giá tổng cộng là 5,1%. Đối với yên Nhật, bất chấp nền kinh tế Nhật
Bản rơi vào giai đoạn suy yếu và nước này đang áp dụng lãi suất âm, yên Nhật vẫn
tăng giá. So với thời điểm cuối năm 2015, đồng yên tăng giá 11 - 12%, nếu lùi lại một
chút vào thời điểm 1/6/2015, ngoại tệ này tăng giá tới gần 20% so với nội tệ. Dựa trên
diễn biến của các cặp tỷ giá từ đầu năm đến nay, nghĩa vụ trả nợ gốc tính theo nội tệ
có thể tăng thêm 15.000 - 20.000 tỷ đồng sau biến động tỷ giá, tuy nhiên, ảnh hưởng
này sẽ được phân bổ theo thời gian dựa trên kỳ hạn trả nợ. Theo Anh Vũ (2016), Bích
Diệp (2015), trong ngắn hạn năm 2015, Việt Nam sẽ phải chi trả khoảng 1,5 tỷ USD để
4
Dự trữ ngoại hối là phần thặng dư tài khoản vốn; tài khoản vốn chủ yếu phản ánh dòng vốn ngoại vào
tạm thời qua FDI, đầu tư tài chính hoặc vay mượn nước ngoài (theo Phạm Thế Anh, 2015).
527
- trả nợ gốc và lãi vay đối với nợ nước ngoài, ước tính tương đối cho thấy chi trả nợ có
thể sẽ tăng thêm khoảng 1.000 tỷ đồng sau đợt điều chỉnh tỷ giá vừa qua. Năm 2016,
chi trả nợ lãi và nợ gốc khoảng 2,5 tỷ USD, rủi ro về tỷ giá tiếp tục tạo ra áp lực lớn
hơn đối với ngân sách trong năm sau nếu như không có biện pháp tìm nguồn tài trợ
thêm.
Nguy cơ thứ ba là gia tăng các khoản vay thương mại thay vì vay ưu đãi.
Trước đây, khi còn là một quốc gia thu nhập thấp, Việt Nam đã được ưu đãi vay
vốn với thời hạn vay dài, lãi suất thấp. Huy động vốn nước ngoài của Chính phủ hiện
nay vẫn đang tập trung vào các khoản vay ODA, vay ưu đãi từ các nhà tài trợ nên có
mức lãi suất và chi phí vốn tương đối thấp, với lãi suất khoảng 1,6%/năm, thời hạn vay
bình quân khoảng 20 năm (chẳng hạn vay WB lãi suất dao động từ 0%/năm lên
1,25%/năm, vay ADB lãi suất dao động từ mức khoảng 1 - 1,5%/năm tăng lên
2%/năm).Với điều kiện vay như hiện nay thì nguy cơ rủi ro lãi suất đối với Việt Nam
không đáng kể. Song, khi Việt Nam trở thành quốc gia có thu nhập trung bình
thấp5vào năm 2010 và đã tự huy động được vốn trên thị trường quốc tế (để đo độ tin
cậy tín dụng quốc gia6) thì các khoản viện trợ và vay ưu đãi sẽ được thay thế dần bằng
các khoản vay thương mại và do vậy vấn đề về rủi ro lãi suất và cơ cấu nguồn trả nợ sẽ
nghiêm trọng hơn nhiều. ADB đã có thông báo chính thức về việc lộ trình chấm dứt
cung cấp vốn vay ưu đãi cho Việt Nam thông qua Quỹ Phát triển châu Á (ADF) kể từ
ngày 1/1/2019, đồng thời cũng có khả năng WB sẽ chấm dứt nguồn vốn ưu đãi từ Hiệp
hội phát triển quốc tế (IDA) cho Việt Nam bắt đầu từ tháng 7/2017. Nhìn vào sơ đồ
dưới đây để thấy tình hình lãi suất nợ nước ngoài và dự kiến lãi suất này từ năm 2017
đối với nợ nước ngoài của Việt Nam.
Trước năm 2010 Thời kỳ 2011 -
Thời hạn vay bình 2016 Từ năm 2017 (dự
quân: 30 - 40 năm Thời hạn vay bình kiến)
Lãi suất vay bình quân: 10 - 25 năm Lãi suất vay bình
quân: 0,7% - Lãi suất vay bình quân: 4%-6%/năm
0,8%/năm quân: 1,8%/năm
Nguồn: Đỗ Thiên Anh Tuấn (2014), Lan Nhi (2015).
5
Theo phân chia của World Bank áp dụng từ năm 2012 đến nay, nước thu nhập thấp là có thu nhập
quốc dân (GNI) bình quân đầu người dưới 1.025 đô la Mỹ/người/năm, thu nhập trung bình thấp có GNI
giữa khoảng 1.025 đến 4.035 đô la Mỹ, thu nhập trung bình có GNI giữa khoảng 4.035 đến 12.475 đô la
Mỹ, và thu nhập cao là có GNI trên 12.475 đô la Mỹ. Năm 2008, Việt Nam mới gia nhập nhóm thứ 2:
thu nhập trung bình thấp. Theo số liệu World Bank, GNI của Việt Nam năm 2014 là 1.890 USD.
6
Được đánh giá bởi các tổ chức đánh giá tín nhiệm như Standard & Poor hay Moody.
528
- Khi lãi suất vay nợ có xu hướng tăng lên thì việc vay mới càng làm tăng gánh
nặng trả lãi trong tương lai, điều này lại dẫn đến việc vay thêm nợ mới và vòng quay
cứ thế lặp lại. Nói cách khác, việc vay nợ mới để trả nợ cũ sẽ rất nguy hiểm khi các
khoản nợ mới không tăng kịp với tốc độ tăng nhanh hơn của lãi vay phải trả. Hành
động vay nợ mới chỉ để thanh toán cho nợ lãi cũ của Chính phủ tương tự trò chơi
Ponzi đầy rủi ro và nguy hiểm trên thị trường tài chính. Và đến lúc Chính phủ không
thể vay được nữa (do uy tín giảm, do áp lực chính trị…) thì chỉ còn cách in thêm tiền
để trả nợ và duy trì tỷ lệ nợ/GDP.
4. Kết luận
Những phân tích trên đây cho thấy dù ngưỡng an toàn nợ công nói chung và nợ
nước ngoài của Việt Nam có là bao nhiêu đi nữa thì với hiện trạng và xu hướng bội chi
ngân sách kéo dài như hiện nay thì Việt Nan sẽ nhanh chóng chạm các ngưỡng này. Để
nền kinh tế tránh được những việc những nguy cơ trên xảy ra trong một sớm một chiều
thì có rất nhiều việc mà cả Chính phủ và người dân Việt Nam cần làm ngay. Quan
trọng và cấp bách hơn cả là (1) minh bạch trong cách tính và các số liệu về dư nợ, cơ
cấu nợ và kế hoạch trả nợ nước ngoài; (2) đánh giá và sàng lọc các khoản chi tiêu của
NSNN theo tính hiệu quả của chúng để làm cơ sở thực hiện cắt giảm chi thường
xuyên, đồng thời tăng chi đầu tư phát triển; (3) cải cách hệ thống thuế để đảm bảo duy
trì và tạo các nguồn thu bền vững.
Tài liệu tham khảo
1. An Huy (2016), Thu ngân sách nhà nước: thuế thu nhập cá nhân sẽ vượt hơn
dầu thô, http://cafef.vn/vi-mo-dau-tu/thu-ngan-sach-nha-nuoc-thue-thu-nhap-
ca-nhan-se-vuot-hon-dau-tho-20160115092944658.chn, truy cập tháng
1/2016.
2. Anh Vũ (2016), Lo ngại nợ công vì yên Nhật tăng giá, tạp chí Thanh Niên
online, http://thanhnien.vn/kinh-doanh/lo-ngai-no-cong-vi-yen-nhat-tang-gia-
699855.html, truy cập tháng 5/2016.
3. Bích Diệp (2015), Nợ công có thể tăng thêm 20.000 tỷ đồng sau biến động tỷ
giá, báo Dân trí, http://dantri.com.vn/kinh-doanh/no-cong-co-the-tang-them-
20-000-ty-dong-sau-bien-dong-ty-gia-20150909071120567.htm, truy cập
tháng 9/2015.
4. Đỗ Thiên Anh Tuấn (2014), Các mô thức quản lý nợ công và vấn đề của Việt
Nam, Chương trình giảng dạy kinh tế Fullbright.
529
- 5. Kỳ Anh (2014), Các chủ nợ nước ngoài của Việt Nam là ai?,
http://cafef.vn/thi-truong/bizchart-cac-chu-no-nuoc-ngoai-cua-viet-nam-la-ai-
2014062614591892017.chn, truy cập tháng 6/2014
6. Lan Nhi (2015), Nợ nước ngoài - nỗi lo sau năm 2016, tạp chí Saigontimes
online, http://www.thesaigontimes.vn/137681/No-nuoc-ngoai-moi-lo-sau-
nam-2016.html, truy cập tháng 12/2015
7. Krugman, Paul, 1988, ‘‘Financing vs. Forgiving a Debt Overhang,’’ Journal
of Development Economics, Vol. 29 (November), pp. 253–68.
8. Mehmet Caner, Thomas Grennes và Friederike Köhler-Geib (2010), "Finding
the Tipping Point: When Sovereign Debt Turns Bad", truy cập tại
http://papers.ssrn.com/sol3/papers.cfm?abstract_id=1651432
9. Nguyễn Hữu Tuấn (2012), Mối quan hệ giữa nợ nước ngoài và tăng trưởng
kinh tế Việt Nam, Tạp chí Phát triển và hội nhập số 4 (14), từ trang 21 đến
trang 25.
10. Pattillo, Hélène Poirson and Luca Ricci (2002), “Finance & Development- A
quarterly magazine of the IMF June 2002”, Volume 39, Number 2
11. Phạm Thế Anh (2014), Nợ công Việt Nam: Nguồn hình thành và rủi ro vĩ mô,
Hội thảo Kinh tế Việt Nam do Ủy ban kinh tế Quốc hội, Ban Kinh tế trung
ương và Đại học Kinh tế Quốc dân đồng tổ chức vào tháng 1/2014.
12. Phạm Thế Anh (2015), Không thể dùng dự trữ ngoại hối để cho vay đầu tư,
tạp chí Saigontimes Online, http://www.thesaigontimes.vn/129925/Khong-
the-dung-du-tru-ngoai-hoi-de-cho-vay-dau-tu.html, truy cập tháng 5/2015.
13. Phạm Thế Anh (2015), Không thể dùng dự trữ ngoại hối để cho vay đầu tư,
tạp chí Saigontimes Online, http://www.thesaigontimes.vn/129925/Khong-
the-dung-du-tru-ngoai-hoi-de-cho-vay-dau-tu.html, truy cập tháng 5/2015.
14. Tokunbo Osinubi, T.S. & Olaleru, O.E. (2006), "Budget Deficits, External
Debt And Economic Growth In Nigeria," Applied Econometrics and
International Development, Euro-American Association of Economic
Development, vol. 6(3).
15. Tokunbo Osinubi, T.S. & Olaleru, O.E. (2006), "Budget Deficits, External
Debt And Economic Growth In Nigeria," Applied Econometrics and
International Development, Euro-American Association of Economic
Development, vol. 6(3).
16. VEPR (2015), Những đặc điểm của nợ công ở Việt Nam.
530
nguon tai.lieu . vn