Xem mẫu

  1. JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE IER., 2011, Vol. 56, pp. 24-30 RÈN LUYỆN KỸ NĂNG HƯỚNG DẪN HỌC SINH PHÂN TÍCH NỘI DUNG TÁC PHẨM VĂN HỌC CHO SINH VIÊN KHOA NGỮ VĂN TRƯỜNG ĐHSP Trương Thị Bích Viện Nghiên cứu Sư phạm - Trường Đại học Sư phạm Hà Nội E-mail: bichnxbgd@gmail.com Tóm tắt. Bằng việc đưa ra một hệ thống các cách thức hướng dẫn học sinh phân tích nội dung TPVH, bài báo đã thực hiện một mục tiêu kép: vừa trang bị cho SV sư phạm, Khoa Ngữ văn các cách thức cần thiết trong tiếp nhận TPVH vừa góp phần rèn luyện kỹ năng hướng dẫn học sinh tiếp nhận TPVH một cách chủ động, tích cực. Đây là một kỹ năng đặc biệt quan trọng. Nó vừa đòi hỏi một khả năng chuyên môn sắc sảo kết hợp với năng lực sư phạm thuần thục, khả năng thấu hiểu tâm lý HS phổ thông, biết đánh giá tương đối chính xác năng lực tiếp nhận văn học của các em. 1. Đặt vấn đề Để trở thành một giáo viên (GV) dạy Văn trưởng thành, một sinh viên (SV) / giáo sinh (GS) cần phải được trang bị nhiều kiến thức, kỹ năng sư phạm cần thiết. Đó là hệ thống kiến thức về lịch sử văn học (văn học Việt Nam, văn học thế giới; văn học hiện đại, văn học trung đại; văn học dân gian, văn học viết); là vốn hiểu biết về tâm lý học sinh (HS) phổ thông; là sự am tường về công tác giáo dục. Đặc biệt, điều làm nên sự khác biệt giữa GV Văn với GV các bộ môn khác là các phương pháp giảng dạy bộ môn, trong đó, việc rèn luyện kỹ năng phân tích nội dung TPVH và triển khai vận dụng hướng dẫn HS là việc làm cần thiết trong Khoa, nhất là đối với tổ bộ môn Phương pháp dạy học. 2. Nội dung nghiên cứu Trong giờ đọc - hiểu, việc hướng dẫn học sinh phân tích nội dung TPVH là công việc khó khăn và cũng là quan trọng nhất để rèn luyện cho HS năng lực chủ động tiếp nhận TPVH. Công việc phân tích này sẽ quyết định điểm khác cơ bản giữa một bên GV là người cảm thụ và bình giảng TPVH, rồi truyền đạt lại cho HS, còn một bên là sự dẫn dắt, tổ chức, điều khiển để HS tự khám phá, tự cảm nhận, cùng cảm nhận tác phẩm. Chính vì vậy mà đây là lúc cần huy động cao nhất tính tích cực trong nhận thức của HS. Với sự quán xuyến, chi phối của chủ đề, của bố 24
  2. Rèn luyện kỹ năng hướng dẫn học sinh phân tích nội dung tác phẩm văn học... cục, GV phải xây dựng được một quy trình giải mã, tiếp nhận TPVH, phải cho HS biết cần bắt đầu công việc ấy từ đâu ? Triển khai như thế nào ? Để làm gì ? Dạy văn nhất thiết không phải chỉ nói cho thật hay, thật cảm động, HS không chỉ chăm chú ghi nhiều, nhớ nhiều. Nhấn mạnh điều này, cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã căn dặn: "Dạy làm văn chủ yếu là dạy cho HS diễn tả cái gì mình suy nghĩ, mình cần bày tỏ một cách trung thành, sáng tỏ, chính xác, làm nổi bật điều mình muốn nói". Và cố Thủ tướng kết luận: "Ngày nay, sự hiểu biết của con người luôn luôn đổi mới. Cho nên dù học được trong nhà trường bao nhiêu chăng nữa cũng chỉ là rất hạn chế. Thế thì cái gì là quan trọng ? Cái quan trọng là rèn luyện bộ óc, rèn luyện phương pháp suy nghĩ, phương pháp học tập, phải tìm tòi phương pháp vận dụng kiến thức, phải vận dụng tốt nhất bộ óc của mình..." [2]. Trước một áng văn chương, GV phải biết bắt đầu từ đâu, khai thác như thế nào để HS không những hiểu vấn đề mà còn tích luỹ một cách thức nhất định về tiếp nhận và khám phá TPVH. GV vừa truyền đạt kiến thức, lại vừa phải giới thiệu cho HS cách thức để hiểu, để lĩnh hội kiến thức đó. Từ kinh nghiệm bản thân, tác giả Trương Chính đã có những gợi ý: "lúc lập luận, tôi chỉ cho các em rõ tôi đang dùng thao tác gì của tư duy lô gích, xác định các luận điểm tăng tiến hay giảm lùi, muốn nối ý trên và ý dưới như thế nào cho liền mạch, rồi câu phức tạp này tôi dùng như thế nào, từ kia tôi dùng với dụng ý gì ?... Nghĩa là tôi huy động tất cả những thủ thuật tạo văn. Tôi có cảm giác tôi đang dạy võ, vừa múa chậm lại, vừa giải thích từng động tác. Mỗi động tác phải tập đi tập lại nhiều lần đến mức thành kỹ năng, kỹ xảo" [1]. Để làm được điều này, trong giờ đọc - hiểu TPVH, GV phải hướng dẫn HS thực hiện theo trình tự các thao tác sau: 2.1. Cách thức xác định các tín hiệu thẩm mỹ 2.1.1. Thế nào là tín hiệu thẩm mỹ ? "Tín hiệu thẩm mỹ là những nút động mà nếu nhấn vào thì cả bài văn sáng bừng lên. Những nút động đó là những từ, ngữ, cách dùng từ, cách đặt câu..." [3]. Tín hiệu thẩm mỹ là những từ, những câu, những hình ảnh, những chi tiết,... có khả năng bộc lộ một cách tập trung những khía cạnh cơ bản thuộc chủ đề và tư tưởng tác phẩm. Đó là nơi quy tụ nội dung tư tưởng và giá trị nghệ thuật của tác phẩm. Có thể so sánh các tín hiệu thẩm mỹ như là những chỗ xoáy của một dòng sông; những đỉnh cao từ đó có thể phóng tầm mắt nhìn chung quanh một cách bao quát; những cái nút bấm vào đấy cả một bộ máy phức tạp liền chuyển động; là những ngọn đèn nếu được thắp lên sẽ soi sáng lung linh cả một toà nhà. "TPVH là một thể thống nhất phức tạp của những thành tố tác động qua lại lẫn nhau, đồng thời cũng phụ thuộc lẫn nhau chứ không phải là tổng số đơn giản của những thành tố có giá trị ngang nhau và có chức năng như nhau". Giữa rất nhiều yếu tố tạo nên nội dung trực tiếp của tác phẩm, bao giờ cũng nổi lên vai trò then chốt của các tín hiệu thẩm mỹ. 25
  3. Trương Thị Bích 2.1.2. Cách thức xác định các tín hiệu thẩm mỹ - Giới hạn phạm vi văn bản có chứa các tín hiệu thẩm mỹ Khoanh vùng, giới hạn phạm vi TPVH có chứa các tín hiệu thẩm mỹ theo một tiêu đề, một nội dung nhất định là công việc hoàn toàn phù hợp với HS phổ thông. Phạm vi giới hạn này có thể theo chiều ngang (theo thứ tự từ đầu đến cuối tác phẩm). Hoặc có thể đan xen giữa chiều ngang và dọc tác phẩm (những tác phẩm có kết cấu phức tạp như tác phẩm Lão Hạc của Nam Cao). Với người tiếp nhận ngoài nhà trường thì không cần phải có thao tác này. Nhưng với bạn đọc - HS, với người tiếp nhận trong sự dẫn dắt của GV, GV cần phải có những thao tác định hướng như vậy để rèn luyện cho HS những hình dung ban đầu và sau đó là kỹ năng, là năng lực tự tiếp nhận, tự khám phá, chiếm lĩnh một TPVH. - Muốn giới hạn phạm vi văn bản có chứa các tín hiệu thẩm mỹ, phải luôn luôn nhìn vào chủ đề và dựa vào bố cục (đã xác định) để liên tưởng soi sáng. Dưới sự quán xuyến của chủ đề, bố cục, việc tìm hiểu các tín hiệu thẩm mỹ sẽ luôn đặt trong mối liên hệ chặt chẽ với nhau, đặt trong một chỉnh thể toàn vẹn. Như vậy, khi thực hiện thao tác xác định các tín hiệu thẩm mỹ, HS một lần nữa được đối chiếu, suy ngẫm, so sánh về chủ đề cũng như bố cục TPVH. Các tín hiệu thẩm mỹ nhất định phải được đặt trong mỗi phần, mỗi đoạn cụ thể của cấu trúc TPVH, phải luôn luôn được soi sáng, kiểm chứng trong sự định hướng của chủ đề, bố cục. - Các dấu hiệu giúp xác định các tín hiệu thẩm mỹ + Các biện pháp tu từ về từ: ẩn dụ, nhân hoá, so sánh, hoán dụ, điệp từ ngữ,... + Các biện pháp tu từ về câu: các phép liên kết: phép lặp, phép thế, phép đối, phép tương phản,... + Các chi tiết, hình ảnh lạ + Các loại câu đặc biệt: * Câu là một mệnh đề bỏ ngỏ: "Khi con tu hú" (Tên bài thơ Khi con tu hú của Tố Hữu). "Buổi hầu sáng hôm ấy" (Trong Đồng hào có ma của Nguyễn Công Hoan). * Câu văn, câu thơ gãy nhịp, ngắt đôi: "Đồng chí !" (Bài thơ Đồng chí của Chính Hữu). Sức nặng của bài thơ dường như dồn cả vào câu thơ đặc biệt này. Hay: Thôi rồi ! Lượm ơi ! (Trong bài Lượm của nhà thơ Tố Hữu). + Có khi tín hiệu thẩm mỹ cũng chính là nhịp điệu (nếu là tác phẩm trữ tình), hoặc là giọng văn (nếu là tác phẩm văn xuôi). Có khi là ngôi kể,... Tóm lại, tín hiệu thẩm mỹ thường được ẩn tàng dưới lớp vỏ "kỹ thuật" ngôn ngữ, người đọc phải khám phá được bản chất, cấu tạo cũng như tác dụng của các hình thức có tính chất kỹ thuật này để làm rõ chủ đề của tác phẩm. Tuy nhiên, không phải bất cứ biện pháp nghệ thuật nào cũng có tác dụng trong việc thể hiện 26
  4. Rèn luyện kỹ năng hướng dẫn học sinh phân tích nội dung tác phẩm văn học... nội dung. Người đọc cần phải biết chọn lọc những biện pháp, những "kỹ thuật" tiêu biểu, trọng tâm để phân tích, bình giá nhằm làm nổi rõ chủ đề của TPVH. - Những câu hỏi gợi ý của GV rất quan trọng trong việc hướng dẫn HS phát hiện các tín hiệu thẩm mỹ. GV không đưa ra những câu hỏi quá khái quát, quá xa để hỏi HS, phải biết hỏi từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp, từ tái hiện đến tái tạo và sáng tạo. 2.2. Cách thức phân tích các tín hiệu thẩm mỹ Thực ra khi HS xác định được các tín hiệu thẩm mỹ tức là đã bắt đầu thao tác cảm nhận và phân tích, cắt nghĩa các tín hiệu nghệ thuật. Thế nào là phân tích và cắt nghĩa ? Phân tích văn học thực chất là hoạt động chia nhỏ đối tượng để có cái nhìn cụ thể những yếu tố làm nên chỉnh thể đó. Hoạt động phân tích đã giúp người tiếp nhận nhìn nhận một cách thấu đáo, bản chất và có cơ sở nội dung ý nghĩa của TPVH. Cần phải tiến hành hoạt động phân tích trong mối quan hệ với chỉnh thể của tác phẩm. Khi phân tích phải biết lựa chọn đối tượng bởi TPVH không phải là sự ”cộng lại” các chi tiết văn học mà là sự sắp xếp có dụng ý của nhà văn, có chi tiết trọng tâm, có chi tiết phụ... Cắt nghĩa có nghĩa là giải thích có suy nghĩ. Cắt nghĩa được xem như là sự mô tả những thao tác, là điều kiện then chốt tạo khả năng dạy văn, học văn có hiệu quả, là để tìm ra ý nghĩa của văn bản. Thông qua việc cắt nghĩa, các yếu tố, các hình ảnh, các từ, câu, các bộ phận,... trong chỉnh thể của mạch văn, người đọc sẽ bộc lộ ý nghĩ riêng của mình. Trong quá trình cắt nghĩa phải luôn luôn đối chiếu các bộ phận, các thành phần được cắt nghĩa với chỉnh thể của văn bản để làm bộc lộ ý nghĩa chung. "Cắt nghĩa là một cách tìm ra câu trả lời của tác giả gửi đến bạn đọc thông qua văn bản". Giữa phân tích và cắt nghĩa có những điểm gần nhau, thậm chí giống nhau. Mặt khác, giữa chúng cũng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, hỗ trợ cho nhau. Cắt nghĩa để cho việc phân tích được sâu sắc hơn và phân tích để cho việc cắt nghĩa được nhìn nhận ở mức độ khái quát hơn, ”chỉnh thể" hơn. ở đây, tạm cho rằng hai khái niệm này đều thực hiện một nhiệm vụ quan trọng là cùng làm sáng rõ tác dụng của các chi tiết văn học quan trọng hay là các tín hiệu thẩm mỹ. Từ các giá trị rất cụ thể và chi tiết này, vẻ đẹp nội dung và hình thức của tác phẩm sẽ được gọi tên và đánh giá, sẽ trở thành những giá trị thẩm mỹ riêng của người tiếp nhận. Phân tích các tín hiệu thẩm mỹ phải thực hiện theo quy trình sau + Phân tích để làm rõ giá trị bản thân các tín hiệu thẩm mỹ. + Phân tích các tín hiệu thẩm mỹ trong sự soi sáng của chủ đề và trong tính chỉnh thể của TPVH. + Trong quá trình phân tích, người đọc phải sử dụng đến khả năng cảm, hiểu, khả năng liên tưởng, tưởng tượng, hình dung, sử dụng phép so sánh để nhận xét, bình giá. Định hướng tiến trình bài học, xác định các tín hiệu thẩm mỹ có thể nói là điều không khó đối với HS nếu được GV hướng dẫn có phương pháp. Điều khó ở 27
  5. Trương Thị Bích đây là làm sao giúp HS cảm và hiểu đúng các chi tiết nghệ thuật cũng như các tầng ý nghĩa thuộc về nội dung TPVH. Và điều quan trọng nữa là biết diễn đạt sự cảm, hiểu ấy bằng ngôn ngữ nói hoặc ngôn ngữ viết của mình. Với các thao tác sau, người GV có thể sẽ góp phần vào việc giúp HS phát triển khả năng rung cảm, hiểu đúng và biết diễn đạt hay một nội dung văn học: 2.2.1. Phải thiết lập được một bầu không khí văn chương trong giờ dạy học văn Bầu không khí văn chương theo như một số tác giả thì đó là sự bình đẳng của HS với GV, sự hoà nhập, sự tự tin của HS trong tiếp nhận TPVH. Theo chúng tôi, muốn thiết lập được một bầu không khí văn chương thực sự, ngoài không khí dân chủ, cởi mở trao đổi giữa GV và HS còn cần phải tạo được không khí văn chương, tức là phải tạo được chất văn, chất nghệ thuật trong giờ dạy học văn. Một giờ dạy học văn có sự mạn đàm, trao đổi, thảo luận rất sôi nổi của HS nhưng chỉ là những lời hỏi đáp cộc lốc, quá ngắn gọn, quá thiên về ý thì sẽ làm mất đi chất văn mềm mại đặc trưng trong khám phá, chiếm lĩnh TPVH. GV phải tạo được chất văn mềm mại này bằng lời bình của mình, bằng cách cảm, cách hiểu của mình hoặc cũng có thể đưa ra một lời bình của một người khác. GV cần hướng dẫn cho HS cách diễn đạt một nội dung văn học bằng cách diễn đạt văn chương, cách diễn đạt một bộ môn nghệ thuật. Đây chính là điểm riêng làm nên đặc trưng của bộ môn văn học. HS phải được "tắm mình" trong không khí văn chương, trong môi trường văn chương đó để tự mình rèn luyện cách cảm, cách hiểu và cách diễn đạt một TPVH, phải định hướng cho HS nhìn nhận văn học như một cái "thú" văn chương giàu tính văn hoá và thẩm mỹ chứ không phải là một môn học trừu tượng và khó khăn. 2.2.2. Phải dạy học tác phẩm theo đặc trưng thi pháp Tức là phải hướng dẫn HS biết khai thác, tìm hiểu tác phẩm ở góc độ hình thức nghệ thuật trong mối quan hệ với nội dung. Một giờ học văn không những giúp HS nắm được những kiến thức về nội dung, hiểu thêm về đời sống thực tế mà còn giúp các em hiểu sâu sắc hơn tác phẩm ở phương diện nghệ thuật. Như vậy, điều quan trọng sau khi học xong một giờ văn là HS sẽ nắm được kỹ năng phân tích, cắt nghĩa tác phẩm bên cạnh việc nắm được nội dung tác phẩm. 2.2.3. Hướng dẫn HS phân tích các điểm sáng thẩm mỹ Hướng dẫn HS phân tích các điểm sáng thẩm mỹ, phải luôn luôn đặt trong sự soi sáng của chủ đề. Chủ đề dẫn người đọc, người tiếp nhận đi đến tính hướng đích và trong quá trình tiếp nhận thẩm mỹ lại quay trở lại làm nổi lên, làm sáng rõ chủ đề. 2.2.4. Tìm ra nhiều ý nghĩa đa dạng phong phú tiềm ẩn trong tác phẩm Một cách thức để hướng dẫn HS cảm, hiểu đúng nội dung văn học là GV phải giúp HS hiểu rằng nhà văn khi xây dựng một TPVH đã "ký thác”, đã gửi gắm vào 28
  6. Rèn luyện kỹ năng hướng dẫn học sinh phân tích nội dung tác phẩm văn học... đó một nỗi lòng, một tâm sự, một bài học nhân sinh, một cách nhìn nhận về nhân tình, thế thái. Nhưng khi văn bản đến với người đọc (chủ thể tiếp nhận) nó lại được cộng hưởng với vốn sống, vốn văn hoá, với con người tinh thần của người đọc để tạo ra những ý nghĩa mới, đa dạng và phong phú, nhiều khi vượt ra ngoài ý đồ của tác giả. Trong tình huống này, GV cần khuyến khích và động viên HS liên hệ với chính bản thân mình để tìm ra nhiều ý nghĩa đa dạng phong phú tiềm ẩn trong tác phẩm một cách độc đáo và hợp lý. Ví dụ bài ca dao: Gió đưa cây cải về trời Rau răm ở lại chịu lời đắng cay. Khi đưa ra cho HS cảm, hiểu và phát biểu về nội dung, GV có thể gợi ý bằng nhiều cách hiểu khác nhau: Cách hiểu thứ nhất: Bài ca dao là lời than thở của đứa con bé bỏng phải ở với dì ghẻ khi người mẹ mất. Cách hiểu thứ hai: Bài ca dao là tâm sự của người vợ khi người chồng đã mất, tức là đã mất đi trụ cột gia đình, có thể bị người đời khinh thường. Cách hiểu thứ ba: Bài ca dao là lời than thở của một cô gái "trót" lỡ làng mà người yêu lại đã bỏ cô mà đi. Cô mang trong lòng một khối oan tình không thể thanh minh, phải chịu sự dè bỉu của người đời. Mỗi cách hiểu đều có những khía cạnh hợp lý. GV cho HS trao đổi, suy nghĩ và mỗi em tự rút ra một cách hiểu cho chính bản thân mình, không bó hẹp chỉ bằng 3 cách hiểu trên. HS có thể nêu lên cách hiểu khác, tất nhiên, phải có cơ sở, có lý, có "sức thuyết phục". Như vậy, qua những giờ hướng dẫn HS đọc - hiểu TPVH, GV dần dần hình thành cho HS một cách thức tiếp cận, một phương pháp đọc - hiểu theo hướng vận dụng tổng hợp hàng loạt các thao tác sau: - Xác định thể loại và vai trò tác dụng của thể loại đó trong việc biểu đạt nội dung. Cần chú ý câu hỏi: Tại sao tác giả dùng thể loại này mà không dùng thể loại khác ? - Xác định được bố cục và vai trò của bố cục trong việc làm nổi bật nội dung tác phẩm. - Xác định được chủ đề (cảm hứng, nội dung tư tưởng) của tác phẩm. - Tìm và chỉ ra được những tín hiệu thẩm mỹ, những điểm sáng của tác phẩm một cách cụ thể: từ việc xác định được các từ ngữ, hình ảnh, âm điệu, vần nhịp, tu từ, không gian, thời gian,... đến các câu văn, đoạn văn giàu ý nghĩa. Phân tích các yếu tố đó để chỉ ra vai trò và tác dụng của chúng trong việc làm nổi bật chủ đề đã xác định. - Liên hệ với chính bản thân để lý giải, phát hiện thêm những ý nghĩa mới, cách hiểu mới riêng biệt, độc đáo và có thể chấp nhận được. Ngoài ra, GV cũng cần lưu ý HS biết vận dụng những hiểu biết về tác giả, hoàn cảnh ra đời của tác phẩm,... để có thể giúp người đọc hiểu sâu hơn nội dung 29
  7. Trương Thị Bích của tác phẩm ấy. Kết quả là, sau nhiều giờ học đọc - hiểu, sau nhiều tiết tập phân tích theo quy trình trên, HS sẽ dần dần biết vận dụng quy trình ấy vào việc đọc - hiểu một tác phẩm tương tự, dù tác phẩm ấy các em chưa được học trên lớp. 3. Kết luận Thiết nghĩ, kết quả trên chính là mục đích của SV Ngữ văn trong những năm tháng học tập ở trường SP. Trong tương lai, muốn hướng dẫn được HS phân tích TPVH hiệu quả, bản thân SV phải nỗ lực rèn luyện, tự tích lũy và trang bị cho mình những kiến thức và kỹ năng về chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm. Đây cũng là trách nhiệm của giảng viên bộ môn Phương pháp dạy học. Trách nhiệm này chắc chắn sẽ rất nặng nề bởi hoạt động rèn luyện nghiệp vụ sư phạm cho SV, trong đó có kỹ năng phân tích tác phẩm văn học thực tế chưa phải là nhiệm vụ hàng đầu của giảng viên phương pháp trong trường SP. Các nhà quản lý, các nhà nghiên cứu xây dựng khung chương trình rèn luyện nghiệp vụ sư phạm, các giảng viên phương pháp cần có định hướng rõ ràng và những yêu cầu cụ thể cho hoạt động này. Đặc biệt, ở mỗi khoa đào tạo GV THPT, cần xây dựng một chương trình rèn luyện nghiệp vụ sư phạm riêng theo đặc trưng của từng khoa. Chắc chắn khi đó, khoa Ngữ văn sẽ có những yêu cầu cụ thể trong việc rèn luyện cho SV kỹ năng phân tích TPVH, điều mà hiện nay, SV Ngữ văn chưa được rèn luyện với dung lượng và chất lượng thích hợp. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Trương Chính, 1981. Kỷ niệm... kinh nghiệm dạy Văn. Tạp chí Nghiên cứu Giáo dục, 1/1981. [2] Phạm Văn Đồng, 1973. Dạy Văn là một quá trình rèn luyện toàn diện. Tạp chí Nghiên cứu Giáo dục, số 28, 11/1973. [3] Vũ Anh Tuấn, 1970. Về rèn luyện cho học sinh năng lực cảm thụ văn học. Tạp chí Nghiên cứu Giáo dục, 3/1970. ABSTRACT Guiding student teachers how to analyze the content of a literary work – a skill needed for students literature in the University of Education By putting forth a system of methods to guide student teachers how to analyze a literary work, the article can achieve a double objective, i.e. both equipping student teachers in the Faculty of Philology with necessary methods to perceive a literary work and contributing to helping make them active in perceiving the literary work. This skill is of special importance, requiring a good perceiving skill and competence and the ability to understand school children and evaluate their ability to perceive a literary work. 30
nguon tai.lieu . vn