Xem mẫu

  1. RAU SẮNG
  2. Công dụng: Chồi non, lá, cụm hoa và quả non được dùng phổ biến làm rau ăn (nấu chín). Rau sắng có vị đậm đà đặc biệt, có thể dùng nấu canh nông, nhưng vẫn ngọt như canh thịt cá, hàm lượng dinh dưỡng cao. Trong thời gian chiến tranh, bộ đội hái rau sắng trong rừng rất nhiều để nấu canh và gọi tên chúng là " rau mỳ chính"; vì nó có vị ngọt như loại gia vị nổi tiếng này. Cụm hoa non được gọi là "rong rồng" lại có vị ngọt hơn cả lá; chúng thường được hái riêng để bán. Quả chín có thể ăn được (phần vỏ quả mọng), nhưng ăn nhiều dễ bị say. Ở Việt Nam, hạt dùng để ăn như lạc sau khi luộc hoặc rang chín. Rau sắng là nguồn cung cấp protein và vitamin C. Trong 100 g ăn được của phần chồi và lá tươi chứa: 76,6 g nước; 8,2 g protein; 10,0 g carbohydrat; 3,4 g chất xơ; 115 mg vitamin C. Giá trị năng lượng khoảng 300 kj/100 g. Riêng lá rau sắng có 82,4% nước; 5,5-6,5% protit; 5,3-5,5% glucid; 2,2% cellulose, có đủ các loại acid min cần thiết cho cơ thể như: lysin, methionin, tryptophan, phenylalanin, threonin, valin, leucin và isoleucin. Hình thái:
  3. Cây gỗ nhỏ, cao 4-8 m, có khi đến 13 m, thân thường hình trụ, nhẵn, các cành mảnh ở ngọn cây, vỏ màu lục, khi già có màu lốm đốm trắng và hoá bần. Lá mọc so le hình ngọn giáo, thu hẹp tù lại cả hai đầu, rất nhẵn, dày, dài 7-12 cm, rộng 3-6 cm, gân phụ 4-5 đôi, mảnh, cuống dài 4-5 mm. Cụm hoa hình chùy, chia nhánh không đều, phần lớn tập trung thành từng nhóm ở những nốt phồng trên thân chính, nhưng c ũng có ở cành bên và cả ở nách các tầng trên; cuống hoa dài tới 15 cm, vào giai đoạn tạo quả dài tới 20 cm; hoa đơn tính, mẫu 4 hoặc 5. Hoa đực không cuống, mọc đơn độc hoặc trong nhóm 3-5 (chủ yếu ở cuối cuống) trong nách lá bắc nhỏ; cánh hoa cong; chỉ nhị rất ngắn, đính liền với gốc cánh hoa; bao phấn khá lớn; thùy đĩa mật nạc, rộng bằng bầu thoái hoá. Hoa cái đơn độc trong mỗi lá bắc, đôi khi mọc thành cụm 3-4 cái; cuống hoa dài 3-7 mm, cánh hoa dính liền với bầu; các nhị lép nhỏ đính so le với thùy đĩa mật rộng. Quả hạch, hình elip tới gần hình trứng hoặc trứng ngược, 2,3-4 cm x 1,5-2 cm, khi non màu lục, khi chín màu vàng da cam. Vỏ quả mỏng, chỉ dày 1,5-2 mm, cùi giữa nạc-mọng nước, vỏ trong cùng dạng gỗ. Hạt 1, phôi hạt có 3-4 lá mầm, dạng dải đính trong nội nhũ dầu. Phân bố:
  4. - Việt Nam: Rau sắng mọc phổ biến ở nhiều tỉnh: Lào Cai, Cao Bằng, Lạng Sơn, Quảng Ninh, Bắc Kinh, Bắc Giang, Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Hoà Bình, Hà Tây (Ba Vì, Chùa Hương), Ninh Bình (Cúc Phương), Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế, Quảng Nam, Kon Tum, Gia Lai, Lâm Đồng, Khánh Hòa (Vọng Phu), Đồng Nai, Bà Rịa- Vũng Tàu (Núi Dinh). - Thế giới: Rau sắng phân bố ở các nước thái Lan, bán đảo Malaysia, Lào, Campuchia, và Philippin. Ở những vùng này rau sắng mọc hoang dại và thường được gây trồng. Đây là loài hiếm ở Malaysia và Philippin. Đặc điểm sinh học: Cây mọc rải rác trong rừng nguyên sinh hoặc thứ sinh, chân các núi đá vôi hay núi đất. Rau sắng mọc tự nhiên trong các rừng kín thường xanh mưa mùa; rất ít gặp trong các rừng nửa rụng lá và hầu như không gặp trong các rừng khô rụng lá. Cây mọc trên nhiều loại đất như feralít đỏ vàng, đất phù sa cổ hoặc phù sa; đất phong hoá từ nhiều loại đá: đá vôi, đá granít, phiến thạch.... ở độ cao 300-900(1.500) m. Sinh cảnh ưa thích nhất của rau sắng là các rừng thứ
  5. sinh, có độ tàn che 0,4-0,6; dưới chân núi đá vôi hoặc ở nơi đất sâu dày, nhiều mùn, có độ ẩm tốt ven sông suối. Ở Việt Nam, loài này thường thấy ở vùng chân núi đá vôi, nơi có địa hình thoai thoải, thoát nước tốt. Rau sắng thường mọc cùng may tèo, teo nòng, thôi ba hoặc bưởi bung, ở tầng cây gỗ thứ 2 của rừng. Tầng trên là các loài sấu, sâng, gội nếp, chò xanh... Vùng chân núi đá vôi của các tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng, Hoà Bình, Phú Thọ, Hà Tây, Ninh Bình là nơi tập trung nhieu rau sắng nhất. Khu núi đá vôi của chùa Hương Tích (Hà Tây) là một địa danh nổi tiếng với loài rau sắng đặc biệt này. Cây thụ phấn nhờ côn trùng. Phát tán tự nhiên nhờ chim, nước và động vật hoang dại. Chúng đến ăn quả rau sắng và phát tán hạt đi khắp nơi. Cây ra hoa tháng 4-5, quả chín tháng 6-8.
nguon tai.lieu . vn