Xem mẫu

Xã hội học, số 3 - 2007 47 Quyền lực của vợ chồng trong gia đình nông thôn Việt Nam Phạm Thị Huệ 1. Khái niệm quyền lực từ lý thuyết nữ quyền Trong lý thuyết nữ quyền, quyền lực là một khái niệm trung tâm. Tuy còn nhiều tranh luận khác nhau về quyền lực, nhiều nhà nữ quyền thống nhất với nhau là quyền lực là sự thống trị (power as domination), bao gồm cả sự áp bức, nam trị, hay sự khuất phục. Họ đặc biệt nhấn mạnh đến sự mất cân bằng quyền lực giữa nam và nữ. Các nhà nữ quyền triệt để xem xét quyền lực trong mối quan hệ giữa sự thống trị và sự lệ thuộc, tương tự như quan hệ giữa ông chủ và nô lệ mà ở đây hầu hết ông chủ - nam giới, nô lệ - phụ nữ. Trong quan hệ gia đình thì “chồng chúa, vợ tôi”. Các nhà nữ quyền xã hội chủ nghĩa nhìn nhận quyền lực từ góc độ nam trị và áp bức phụ nữ. Sự áp bức này được thể hiện ở 5 mặt: bóc lột về kinh tế, cách ly khỏi phát triển kinh tế xã hội, thiếu quyền tự chủ, bá quyền về văn hoá và bạo lực có hệ thống (Young 1992). Phát triển quan niệm quyền lực của M. Foulcault, các nhà nữ quyền hậu cấu trúc xem xét quyền lực từ góc độ khuất phục. Họ lấy khái niệm “quyền lực kỷ luật/disciplinary power” của Foulcault để phân tích nữ tính và nhận thấy cơ thể phụ nữ dễ bị sai khiến hơn cơ thể nam giới như chế độ ăn kiêng, điệu bộ, đi lại, trang điểm (đại loại như tiêu chuẩn “công - dung -ngôn - hạnh” đối với phụ nữ Việt Nam). Theo Bartly (1990), sự tự giám sát này là một kiểu phục tùng chế độ nam trị. Không đồng ý với định nghĩa quyền lực là sự thống trị, một số nhà nữ quyền đã phê phán rằng quan niệm quyền lực là sự thống trị là theo quan điểm của nam giới. Theo họ, quyền lực là khả năng thực hiện một việc hay một lựa chọn hay quyền lực là sự tạo quyền (power as empowerment). Phụ nữ không muốn người khác phải tuân theo ý chí của mình như nam giới đã và đang làm mà “phụ nữ muốn có quyền lực theo cách đồng thời nâng cao chứ không hạn chế quyền lực của người khác” (Miller 1992). Như vậy, ngay trong nữ quyền, quan niệm về quyền lực khác nhau, thậm chí trái ngược nhau. 2. Quyền lực của vợ chồng trong gia đình Quan hệ quyền lực của vợ chồng trong gia đình được xem xét thông qua quyền quyết định của vợ chồng trong những vấn đề của gia đình như chi tiêu, cơ hội lựa chọn nghề nghiệp, sinh con, giáo dục, nuôi dưỡng dạy bảo con cái, v.v... French và Raven (1959) đã chỉ ra cơ sở của 6 kiểu quyền lực trong gia đình. Đó là: quyền lực hợp pháp được thừa nhận bởi hệ thống niềm tin trong gia đình; quyền lực thông tin có được nhờ kiến thức và khả năng diễn thuyết; quyền lực tham khảo có được nhờ sự yêu mến và lôi cuốn; quyền lực cưỡng bức có được nhờ sử dụng sức mạnh thể chất hoặc tâm lý đối với thành viên khác trong gia đình; quyền lực chuyên môn dựa trên học vấn, đào tạo hoặc kinh nghiệm thích hợp cho việc giải quyết các vấn đề trong gia đình; quyền lực thưởng công là khả năng gây ảnh hưởng đối với thành viên khác trong gia đình bằng việc mang lại cho họ lợi ích mà họ mong muốn. Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org 48 Quyền lực của vợ chồng trong gia đình nông thôn Việt Nam Khác với French và Raven, Robert Blood và Donald Wolfe đã nghiên cứu mối quan hệ giữa quyền lực bên trong và bên ngoài gia đình và chỉ ra quyền lực giữa vợ và chồng được dựa trên nguồn lực mà mỗi bên đóng góp cho gia đình. Theo họ, có ba nguồn lực quan trọng quyết định cán cân quyền lực của vợ và chồng trong gia đình. Đó là nguồn thu nhập, ưu thế nghề nghiệp và trình độ học vấn. Trong hầu hết các nền văn hoá, nam giới thường có lợi thế hơn phụ nữ trong việc tiếp cận ba nguồn lực này và kết quả là họ thường có quyền hơn trong gia đình. 3. Kết quả nghiên cứu về quyền lực của vợ chồng trong gia đình nông thôn Việt Nam Quyền lực của vợ chồng trong gia đình nông thôn Việt Nam qua nghiên cứu ở Yên Bái, Tiền Giang và Thừa Thiên Huế được xem xét thông qua quyền quyết định của vợ chồng trong mối quan hệ với đóng góp của mỗi bên cho thu nhập gia đình, trình độ học vấn, độ tuổi và tộc người của vợ chồng trong các lĩnh vực: sản xuất, mua sắm đồ đạc đắt tiền, quan hệ gia đình họ hàng và những hoạt động xã hội chung của hai vợ chồng. Dữ liệu định lượng được sử dụng trong nghiên cứu này chỉ đề cập đến những người trả lời hiện đang có vợ có chồng. Niềm tin và lý tưởng giới cũng được tính đến trong phân tích. 3.1 Quyền quyết định của vợ chồng trong sản xuất Nghiên cứu cho thấy người chồng vẫn là người quyết định chính trong công việc sản xuất của gia đình với một tỷ lệ cao nhất tới 51.9%, chiếm hơn một nửa tổng số người trả lời. Người vợ là người quyết định chính chiếm tỷ lệ thấp nhất 16.4%, chỉ bằng một phần ba so với người chồng. Tỷ lệ hai vợ chồng quyết định bằng nhau là 31.7%. Nếu nhìn vào giới tính của người trả lời ta thấy người chồng trả lời họ là người quyết định chính nhiều hơn và trả lời vợ của họ là người quyết định chính thấp hơn so với câu trả lời tương tự của người vợ về chồng của họ. Cho dù câu trả lời của người vợ và người chồng có khác nhau thì người chồng vẫn là người quyết định chính trong lĩnh vực sản xuất trong các gia đình nông thôn Việt Nam. Tương quan với đóng góp kinh tế, quyền quyết định của vợ chồng trong gia đình có liên quan chặt chẽ với đóng góp của mỗi bên cho kinh tế gia đình. Nhiều nghiên cứu cho thấy đóng góp cho thu nhập gia đình càng nhiều thì quyền quyết định của người đóng góp càng lớn. Bên cạnh đó, các nhà nữ quyền cũng nhận định phụ nữ càng độc lập hơn về kinh tế thì họ càng ít lệ thuộc vào nam giới và họ có quyền tự chủ hơn. Bảng 1: Quyền quyết định của vợ chồng trong sản xuất (%) Chồng quyết định nhiều hơn Vợ quyết định nhiều hơn Vợ chồng quyết định Tổng bằng nhau Chung 51.9 16.4 Chồng 62.3 8.0 Vợ 41.1 25.1 31.7 100 29.7 100 33.9 100 Trong nghiên cứu này, dữ liệu cho thấy quyền quyết định của người chồng phụ thuộc rất ít và hầu như không liên quan nhiều đến đóng góp của họ cho kinh tế gia đình. Cho dù đóng góp của người chồng nhiều hay ít, người chồng vẫn là người chiếm ưu thế trong việc ra các quyết định liên quan đến sản xuất. Nếu người chồng là người đóng góp kinh tế thứ nhất cho gia đình thì 62.7% người chồng nói rằng họ là người quyết định chính và nếu người chồng là người đóng góp kinh tế thứ hai thì tỷ lệ này là 60%, giảm 2,7%, một tỷ lệ rất nhỏ. Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org Phạm Thị Huệ 49 Nhìn chung, kinh tế không phải là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến quyền quyết định của người chồng trong công việc sản xuất của gia đình. Có cái gì đó hơn cả yếu tố kinh tế khiến cho người chồng trở thành người quyết định chính liên quan đến sản xuất của gia đình trong các nghiên cứu trước đây cũng như trong nghiên cứu này. Bảng 2: Đóng góp kinh tế và quyền quyết định của vợ chồng trong sản xuất (%) Chồng quyết định nhiều hơn Vợ quyết định nhiều hơn Vợ chồng quyết định bằng nhau đ/góp thứ 1 Chồng 62.7 Vợ 38.2 đ/góp thứ 2 60.0 44.6 đ/góp thứ 1 5.9 31.3 đ/góp thứ 2 15.0 22.8 đ/góp thứ 1 31.5 30.5 đ/góp thứ 2 25.0 32.6 Dữ liệu từ phỏng vấn sâu và thảo luận nhóm cho thấy trong gia đình tồn tại niềm tin là người chồng, người cha là người có quyền nhất trong gia đình, người vợ và con cái phải nghe theo người cha như người ta vẫn thường nói: “muốn nói ngoa làm cha mà nói”, kể cả trong trường hợp người chồng, người cha là người ốm yếu và họ không phải người kiếm cơm chính cho gia đình. French và Raven gọi nó là quyền lực hợp pháp. Trích đoạn thảo luận nhóm sau đây cho thấy điều này. ”Như ông nhà tui không làm nặng được thì có cái gì thì tôi hay con tôi cũng phải nói với ông ấy, ông ấy đồng ý thì mới dám làm, chứ đâu phải ông ấy bệnh hoạn rồi mình cãi ông ấy đâu, cũng hỏi ông ấy tỉ ông ấy đồng ý thì mình mới làm”. (Thảo luận nhóm nữ nông dân, Thừa Thiên - Huế) Tuy đóng góp kinh tế của người chồng cho gia đình ảnh hưởng rất ít đến quyền quyết định của họ trong lĩnh vực sản xuất nhưng nó lại ảnh hưởng đáng kể đến quyền quyết định của người vợ. Quyền quyết định của người vợ trong sản xuất tăng lên đáng kể khi đóng góp của họ cho kinh tế của gia đình tăng. Nếu người vợ là người đóng góp kinh tế thứ nhất cho gia đình thì họ nói rằng họ là người quyết định chính trong sản xuất chiếm tỷ lệ 31.3%, nhưng nếu người vợ là người đóng góp kinh tế thứ hai thì tỷ lệ này giảm xuống còn 22.8%, giảm đến 8.5%. Bản thân người chồng cũng công nhận một điều tương tự như vậy đối với vợ của họ. Nếu người chồng là người số 1 trong việc tạo lập kinh tế của gia đình thì họ nói rằng vợ của họ là người quyết định chính chỉ chiếm tỷ lệ 5.9% nhưng nếu người chồng là người số 2 thì họ nói rằng vợ của họ là người quyết định chính chiếm tỷ lệ lên đến 15%, tăng 9%. Như vậy, thu nhập của người vợ và đóng góp của họ cho kinh tế gia đình đã cải thiện đáng kể tiếng nói của họ trong công việc sản xuất của gia đình. Tuy nhiên, vị thế của vợ trong lĩnh vực này còn phụ thuộc vào các yếu tố khác như tuổi tác, học vấn và tộc người. Tương quan với độ tuổi, dữ liệu cho thấy tuổi của người chồng hoặc trẻ (dưới 30 tuổi) hoặc già (trên 60 tuổi) thì người chồng nói rằng họ là người quyết định chính trong công việc sản xuất của gia đình chiếm tỷ lệ cao nhất (58.3% và 59.8%). Trong khi đó, chiếm tỷ lệ cao nhất trong các nhóm tuổi của người vợ nói rằng họ là người quyết định chính trong công việc sản xuất của gia đình thuộc về nhóm người vợ trên 60 tuổi. Nhìn chung, cả vợ lẫn chồng trên 60 tuổi đều nói rằng họ là người quyết định chính trong sản xuất chiếm tỷ lệ cao nhất (chồng: 59.8% và vợ: 21.3%). Như vậy, vợ chồng ở nhóm tuổi trên 60 là người có tiếng nói quan trọng trong công việc sản xuất của gia đình nông thôn Việt Nam. Điều này có thể phù hợp với Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org 50 Quyền lực của vợ chồng trong gia đình nông thôn Việt Nam văn hoá ở vùng nông thôn Việt Nam, người già là người có kinh nghiệm trong sản xuất nông nghiệp và là người thường được hỏi ý kiến và ra những quyết định quan trọng trong sản xuất. Vấn đề tại sao mà người chồng trẻ (dưới 30 tuổi) lại nằm trong những nhóm người chồng có tỷ lệ quyết định cao nhất trong sản xuất. Nguyên nhân có thể là trong văn hoá Việt Nam, nam thanh niên đã lấy vợ được coi là đã trưởng thành và đủ độ chín trong con mắt cha mẹ để ra các quyết định trong gia đình và đây cũng là thời kỳ cha mẹ nhường quyền quyết định của họ cho con trai đã cưới vợ để người con trai học làm người chồng, người cha trong gia đình. Dữ liệu cho thấy có đến 69.7% cặp vợ chồng ở với bố mẹ chồng ngay sau khi cưới. Có tới 62.5% cặp vợ chồng mới cưới sống chung với bố mẹ chồng từ 1 đến 5 năm. Bên cạnh đó, cô dâu mới về nhà chồng thường giữ im lặng để tìm hiểu gia phong nhà chồng. Đây là thời kỳ học làm vợ trong gia đình chồng cho nên họ không có tiếng nói quyết định. Một nữ nông dân đã tâm sự: “ở riêng thì mình có cái quyền của mình còn ở chung thì cái quyền của mình nó không bằng ở riêng. Tại vì ở riêng thì có em, còn ở chung với cha mẹ nữa, quyền quyết định là ở cha mẹ”. (PVS, nữ nông dân, 29 tuổi, Tiền Giang) Tương quan với học vấn, dữ liệu cho thấy ở các cấp học phổ thông và mù chữ, quyền quyết định của người chồng trong sản xuất hầu như tỷ lệ nghịch với trình độ học vấn của họ. Trình độ học vấn của người chồng càng thấp thì quyền quyết định của họ càng cao. Ví dụ, có đến 64.5% người chồng mù chữ nói rằng họ là người quyết định chính trong công việc sản xuất của gia đình, chiếm tỷ lệ cao nhất; trong khi đó, tỷ lệ này của người chồng ở nhóm học vấn từ lớp 1-5 là 56.2%, lớp 6-9 là 48.7%. Học vấn không phải là yếu tố mang lại quyền lực cho người chồng trong lĩnh vực sản xuất của gia đình nông thôn Việt Nam. Ngược lại, quyền quyết định của người vợ lại tỷ lệ thuận với trình độ học vấn của họ. Học vấn của người vợ càng cao thì quyền quyết định của họ trong lĩnh vực sản xuất càng lớn. Ví dụ, chỉ có 5.8% người vợ mù chữ nói rằng họ là người quyết định chính trong sản xuất. Tuy nhiên, ở nhóm học vấn từ lớp 1-5 tỷ lệ này tăng lên đến 17.2% và ở nhóm lớp 10 trở lên tăng đến 22.2%. Bên cạnh đó, trình độ học vấn của hai vợ chồng càng cao thì tỷ lệ vợ chồng cùng nhau quyết định càng tăng. Như vậy, trình độ học vấn là một trong những yếu tố quan trọng làm tăng quyền quyết định của người vợ cũng như làm tăng việc cả hai vợ chồng cùng nhau bàn bạc và cùng nhau ra các quyết định liên quan đến sản xuất. Biểu đồ: Học vấn và quyền quyết định của của vợ chồng trong sản xuất 70 60 50 40 30 20 10 0 Mï ch÷ Líp 1 Líp 6 >=10 ®Õn 5 ®Õn 9 Chång Vî Chång nãi q/®Þnh = Vî nãi q/®Þnh = Tương quan với tộc người, dữ liệu cho thấy không có sự khác biệt trong việc vợ chồng cùng nhau bàn bạc quyết định công việc sản xuất giữa các nhóm dân tộc khác nhau. Tuy Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org Phạm Thị Huệ 51 nhiên, người chồng dân tộc Kinh có quyền quyết định nhiều hơn người chồng các dân tộc khác trong lĩnh vực sản xuất. Ngược lại, người vợ các dân tộc khác lại có lại có nhiều quyền hơn người vợ dân tộc Kinh trong lĩnh vực này. Có đến 53.9% người chồng và 53.9% người vợ dân tộc Kinh nói rằng người chồng là người quyết định nhiều hơn trong công việc sản xuất so với 45.1% người chồng và 43.4% người vợ các dân tộc khác nói điều tương tự. Trong khi đó, có 23.5% người chồng và 23.2% người vợ các dân tộc khác nói rằng người vợ là người quyết định chính trong lĩnh vực sản xuất so với 14.5% người chồng và 15.1% người vợ dân tộc Kinh. Có thể, gia trưởng đã tác động đến các gia đình người Kinh nhiều hơn gia đình các dân tộc khác. 3.2. Quyền quyết định của vợ chồng trong mua sắm đồ đạc đắt tiền Tương tự như kết quả của các nghiên cứu trước đây, nghiên cứu này cho thấy thứ bậc về quyền quyết định của vợ chồng trong lĩnh vực mua sắm đồ đạc đắt tiền không thay đổi. Vị trí thứ nhất vẫn thuộc về vợ chồng cùng nhau bàn bạc và cùng nhau quyết định (44.9%). Vị trí thứ hai thuộc về người chồng (38.9%). Vị trí cuối cùng thuộc về người vợ (16.2%). Cho dù người vợ là người quyết định chính trong các khoản chi tiêu nhỏ hàng ngày và kể cả họ là người giữ hầu bao của gia đình thì trong mua sắm đồ đạc đắt tiền họ vẫn là người có ít quyền quyết định nhất. Bảng 3: Quyền quyết định của vợ chồng trong mua sắm đồ đạc đắt tiền (%) Chồng quyết định nhiều hơn Chung 38.9 Chồng 44.2 Vợ 33.2 Vợ quyết định nhiều hơn 16.2 12.2 20.4 Vợ chồng quyết định Tổng bằng nhau 44.9 100 43.5 100 46.4 100 Đối với nhiều người chồng, người vợ được coi như “hòm giữ tiền” hay là “cái ống giữ tiền” khá an toàn. Bên cạnh đó, việc quản lý tiền nong trong gia đình vẫn được coi là trách nhiệm của phụ nữ: “vai trò giữ tiền của đàn bà nó vẫn như vậy từ ngày xưa”, “đàn ông ai lại giữ tiền”. Nhiều người chồng cũng thừa nhận sự phụ thuộc của họ vào việc người vợ quản lý tiền và việc người vợ có quyền quyết định trong chi tiêu hàng ngày, đại loại như: “bà ấy cho ăn gì thì biết thế thôi”. Tuy nhiên, trong những khoản chi tiêu lớn quyền quyết định vẫn thuộc về người chồng. Nhiều khi, người vợ được hỏi ý kiến thì vẫn mang tính hình thức. Theo người chồng, người vợ chưa đủ “trình độ sáng suốt” để ra quyết định. “Theo em thì đa số các hộ gia đình khác ở đây đều do người chồng quyết định những công việc lớn trong gia đình, kể cả việc chi tiêu hay đường lối làm ăn kinh tế, đối xử với họ hàng, làng xóm xung quanh. Còn người vợ chắc sẽ thường là người giữ tiền cho cả gia đình và chi tiêu các công việc ăn uống thường ngày cho cả gia đình. Người vợ chỉ như là cái ống giữ tiền của người chồng thôi”. (PVS nam nông dân, 29 tuổi, Thừa Thiên - Huế) Tuy nhiên, trong mua sắm đồ đạc đắt tiền người chồng không giữ vai trò quyết định nhiều như trong lĩnh vực sản xuất. So với công việc sản xuất, tỷ lệ người chồng là người quyết định chính trong mua sắm đồ đạc đắt tiền giảm đáng kể: từ 51.9% giảm xuống còn 38.9%, giảm 13%; trong khi đó, cả hai vợ chồng cùng quyền định tăng đáng kể: từ 31.7% lên 44.9%, tăng 13.2%; còn quyền quyết định của người vợ không có gì thay đổi, khoảng 16% như trong lĩnh vực sản xuất. Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org ... - tailieumienphi.vn
nguon tai.lieu . vn