Xem mẫu
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN SAIGON UNIVERSITY
TẠP CHÍ KHOA HỌC SCIENTIFIC JOURNAL
ĐẠI HỌC SÀI GÒN OF SAIGON UNIVERSITY
Số 76 (04/2021) No. 76 (04/2021)
Email: tcdhsg@sgu.edu.vn ; Website: http://sj.sgu.edu.vn/
QUAN NIỆM CỦA TRẦN ĐỨC THẢO VỀ NGUỒN GỐC
CỦA NGÔN NGỮ VÀ Ý THỨC
Trần Đức Thảo’s view on the origin of language and consciousness
TS. Bùi Lan Hương
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2
TÓM TẮT
Bài viết đã khảo cứu và trình bày một cách toàn diện, có hệ thống quan niệm của Trần Đức Thảo về
nguồn gốc của ngôn ngữ và ý thức, góp phần làm phong phú thêm hiểu biết của chúng ta về vấn đề mà
triết gia của Việt Nam hằng trăn trở. Trần Đức Thảo đã tìm hiểu quá trình hình thành ngôn ngữ và ý
thức ở giai đoạn dự thành nhân của loài người bằng cách sử dụng tư liệu về người tiền sử. Ông chỉ ra
rằng, động tác chỉ dẫn chính là hình thức đầu tiên của ngôn ngữ biểu đạt ý thức con người.
Từ khóa: động tác chỉ dẫn, lao động sản xuất, ngôn ngữ, ý thức khởi nguyên
ABSTRACT
The article has studied and presented, in a comprehensive and systematic manner, Trần Đức Thảo’s
view on the origin of language and consciousness, contributing to enriching our understanding of the
problem that the Vietnamese philosopher is constantly concerned. Trần Đức Thảo studied the process of
forming language and consciousness in the human formations by using documents about prehistoric
people. He points out that instructional gestures are the first form of language to express human
consciousness.
Keywords: instructional gestures, productive labor, language, original consciousness
1. Đặt vấn đề nhận và đánh giá cao của giới trí thức trong
Trần Đức Thảo là một trong những và ngoài nước. Từ điển triết gia thế giới đã
nhà tư tưởng Việt Nam được giới triết học dành cho Trần Đức Thảo gần 3 trang viết.
nhiều nước mến mộ. Ông đã có những Nhiều học giả có uy tín trong nước khi
cống hiến độc đáo cho sự phát triển của nghiên cứu về tư tưởng của ông đã không
triết học Việt Nam cũng như cho sự phát khỏi cúi đầu thán phục, coi “Trần Đức
triển của tư tưởng triết học thế giới. Những Thảo là nhà triết học lỗi lạc của Việt Nam
công trình nghiên cứu của ông đề cập đến và thế giới” (Vũ Khiêu), là “người tư duy
nhiều vấn đề quan trọng của triết học và không biết mệt” (Hà Xuân Trường). Những
đối với mỗi lĩnh vực ông đều để lại những công trình nghiên cứu của Trần Đức Thảo
dấu ấn độc đáo trong nhiều quan niệm có ý là di sản khoa học có giá trị của dân tộc cần
nghĩa triết học sâu sắc. Với những đóng phải được khai thác. Trong hội thảo khoa
góp của mình, ông đã nhận được sự công học quốc tế: “Tư tưởng triết học và giáo
Email: builanhuong@hpu2.edu.vn
20
- BÙI LAN HƯƠNG TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN
dục của Trần Đức Thảo”, Giáo sư Nguyễn thức sơ đẳng nhất mà phải tìm bước khởi
Đình Chú khi cho rằng: “Một đất nước đầu của ý thức trong một giai đoạn trung
muốn bề thế, phát triển bền vững, phải có gian trước khi xuất hiện con người cổ xưa
một nền tảng triết học với hệ thống tư duy nhất - giai đoạn dự thành nhân (chuẩn bị
riêng của dân tộc” (Phạm Mỹ, 2013) đã tiến hóa thành người). Đó là giai đoạn mà
đồng thời khẳng định: Nghiên cứu, khám chủ thể đã được nâng một cách đúng nghĩa
phá toàn diện và thấu đáo giá trị tư tưởng lên trên tính thú vật, bằng cách có thói quen
triết học Trần Đức Thảo, là việc làm cần lao động thích nghi, nhưng vẫn chưa đạt tới
thiết nhằm thúc đẩy triết học Việt Nam hình thức sản xuất đặc thù như ở xã hội
phát triển. người sau này. Theo ông, nhà nghiên cứu
Con người là thực thể sinh học - xã hội phải tìm hình thức nguyên thủy của ý thức
ở trình độ phát triển cao nhất của giới tự ở trình độ đó như nó nảy sinh lúc khởi đầu
nhiên, dấu hiệu căn bản để phân biệt con sự phát triển của hoạt động lao động có sự
người với tất cả các loài động vật khác hỗ trợ của công cụ, là cái vốn đã có gốc rễ
chính là thuộc tính có ý thức. Nhưng ý thức trong sự tiến hóa động vật, và được cải biến
bắt nguồn từ đâu và có từ bao giờ đó là một trong quá trình chuyển sang loài người.
điều băn khoăn lớn của nhân loại và cũng Theo Trần Đức Thảo, hình thức ngôn
là câu hỏi mà Trần Đức Thảo muốn trả lời ngữ đầu tiên được con người sử dụng là
trong cuốn Tìm cội nguồn của ngôn ngữ và ngôn ngữ cử chỉ. Ngôn ngữ cử chỉ được tạo
ý thức. Việc khảo cứu một cách toàn diện thành ngay trên bản thân động tác lao động
nội dung cùng những giá trị trong quan thích nghi bắt đầu từ trình độ Người vượn.
điểm của ông về nguồn gốc của ngôn ngữ Khi đi nghiên cứu sự phát sinh của ý
và ý thức sẽ góp phần làm phong phú thêm thức, ông đã quy giản (so sánh) những giai
những hiểu biết của chúng ta về vấn đề mà đoạn đầu tiên hình thành ý thức của loài
ông hằng trăn trở. người về giai đoạn phát triển trí óc của trẻ
2. Nội dung em hiện đại. Từ đó, Trần Đức Thảo đi tìm
2.1. Động tác chỉ dẫn - hình thức đầu nguồn gốc của ý thức thông qua việc
tiên của ngôn ngữ nghiên cứu về cử chỉ và ngôn ngữ ở trẻ em
Một trong những khó khăn chính của kết hợp với những tư liệu về người tiền sử.
vấn đề tìm cội nguồn của ý thức là biết tìm Triết gia cho rằng có thể làm được như vậy
chính xác những bước khởi đầu của nó ở là vì ông đã dựa vào tính quy luật về sự
đâu. “Hẳn sẽ là tự nhiên khi định niên đại trùng lặp: sự phát sinh cá thể luôn luôn lặp
của ý thức ngay ở chính bước đầu của nhân lại sự phát sinh loài dưới dạng kết tinh, rút
loại với sự xuất hiện của những công cụ gọn trên những nét lớn, chính yếu nhất.
(outils) đầu tiên mà sự sản xuất chúng đã Trần Đức Thảo cho rằng, sự thông
bao hàm sự biểu hiện tiên dự hình dạng minh của động vật không thể đạt tới trình
chúng trong đầu óc chủ thể đã sản xuất nên độ của ý thức. Nhận định này thống nhất
chúng” (Trần Đức Thảo, 1996, tr.19). Như với quan điểm của các nhà sáng lập chủ
vậy, những người đầu tiên xuất hiện ở thời nghĩa Mác - Lênin, mặc dù, ở một số loài
tiền sử với hoạt động sản xuất đã có một động vật bậc cao đã bước đầu có trí khôn
hình thức sơ đẳng của ý thức. Tuy nhiên, và trí nhớ, nhưng theo triết học Mác -
theo Trần Đức Thảo đó không phải là hình Lênin đó mới chỉ là trình độ phản ánh tâm
21
- SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 76 (04/2021)
lý động vật, mang tính bản năng, ví dụ nổi được thực hiện hoàn toàn theo đường
tiếng của C. Mác về sự khác nhau giữa một thẳng, nhưng hình thức đường cánh cung
con ong khéo léo nhất với một người kiến cũng có thể diễn ra trong những lúc xúc
trúc sư tồi nhất đã nói lên điều đó. Để động. Như khi tôi chỉ cho ai cái cửa, cố
chứng minh cho sự khác biệt căn bản giữa nhiên ngón tay tôi sẽ rọi vào cái cửa. Song
tâm lý động vật và ý thức sơ khai của khi tôi đang tức giận có thể tôi bắt đầu
người tiền sử, Trần Đức Thảo đã chọn xuất bằng chỉ ngón tay vào người đương sự, sau
phát điểm nghiên cứu là “cử chỉ chỉ dẫn” đó chỉ ra cửa. Chúng ta biết rằng những
bởi theo ông đây là hoạt động đánh dấu hình thức sơ khai của ứng xử tái xuất hiện
quan hệ sơ đẳng nhất của ý thức chủ thể trong xúc động nên ta có thể nghĩ là động
với đối tượng bên ngoài. Ông phân tích, tác hình cánh cung ấy đã xuất hiện trước
cùng một động tác chỉ trỏ song sự khác tiên trong sự phát sinh loài. Mặt khác, hình
nhau giữa con người và con vật là ở chỗ, ở thức ấy tiếp tục đóng vai trò của nó phối
con người động tác chỉ dẫn có thể được xác hợp với cử chỉ đường thẳng. Khi tôi chỉ
định trong hình thức nguyên thủy của nó thẳng ngón tay trỏ vào đối tượng cái nhìn
như là một sự hướng dẫn từ xa bao hàm ít của tôi thường nhằm vào người mà tôi đặt
nhất hai chủ thể, một hướng dẫn và một sự chỉ dẫn ấy. Nếu khi làm động tác trong
chịu hướng dẫn tách rời nhau bởi một hình thức hoàn tất của nó mắt ta phải nhằm
khoảng cách nào đó, song ở Vượn người vào đối tượng được chỉ bằng cách lướt qua
vẫn là sự hướng dẫn bằng tiếp xúc. Khi khoảng không gian đến nó. Đó chính là
hành động chỉ trỏ giả thiết nhất định phải “chỉ dẫn bằng mắt” (Trần Đức Thảo, 1996,
có khoảng cách, vậy khoảng cách là bản tr.18).
chất của hành động chỉ trỏ và khoảng cách Khi xác định nhân tố dẫn tới sự phát
của con người với đối tượng được chỉ là ở triển của động tác chỉ dẫn từ tiếp giáp ở
ngoài con người. Con vật tuy tri giác sự vật Vượn người sang hướng dẫn từ xa ở Người
là ở bên ngoài, nhưng đối tượng với nó là vượn, Trần Đức Thảo khẳng định sự phát
cái có thể đụng tới, trực tiếp hay qua một triển của lao động giữ vai trò quyết định.
trung gian, nếu như “con khỉ đột cầm bàn Sự tiến hóa diễn ra khi những con
tay người đặt vào chỗ thịt nó muốn” (Trần Vượn người sống thành nhóm và lao động
Đức Thảo, 1996, tr.25) tức phải có tiếp xúc tập thể, điều đó đòi hỏi một sự phối hợp tối
trực tiếp vào đối tượng thì cử chỉ chỉ dẫn thiểu hướng vào đối tượng lao động. Trong
ở con người được biểu hiện ra với hình quá trình lao động, do sử dụng công cụ nên
thức kép, bao gồm hành động chỉ tay và mỗi chủ thể lao động phải cách nhau một
hướng dẫn bằng ánh mắt nhưng ở khoảng khoảng cách để không gây trở ngại lẫn
cách xa, không cần chạm vào người được nhau. Cho nên sự tiếp giáp bị phá vỡ và
hướng dẫn. động tác hướng dẫn tất yếu phải được thực
Ông đưa ra một ví dụ: hiện từ xa. Ban đầu sự phối hợp không tốt,
Đứa trẻ chỉ vào lọ mứt với mẹ nó, nó những cử chỉ hướng dẫn được thực hiện ở
có thể hoặc lấy ngón trỏ chỉ thẳng vào đối khoảng cách nhỏ, rồi động tác bàn tay mở
tượng, hoặc làm một động tác hình cánh rộng dần. Cử chỉ dài rộng hình cánh cung
cung, trước tiên bàn tay giơ về phía mẹ sau nảy sinh như thế trong đó ta đã nhận biết
đó chỉ vào đối tượng. Ở người lớn, cử chỉ hình thức sơ khai của động tác chỉ dẫn.
22
- BÙI LAN HƯƠNG TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN
“Một hoạch đắc như thế tạo thành một tiến hình ảnh của hình ảnh ấy hoặc hình ảnh
bộ về chất, chắc là đã được thực hiện trong của chính nó trong chính nó” (Trần Đức
bước chuyển tiếp từ Vượn người sang Thảo, 1996, tr.34-35). Giống như C. Mác
Người vượn” (Trần Đức Thảo, 1996, tr.26). đã từng nói, ý thức không bao giờ có thể là
Như vậy, cử chỉ chỉ dẫn từ xa với tư gì khác cái tồn tại được ý thức và tồn tại
cách là kết quả của sự tiến hóa động tác của người là quá trình đời sống hiện thực
hướng dẫn bằng tiếp giáp trực tiếp đã bắt của họ. Mà quá trình đời sống hiện thực
đầu hình thành từ trình độ Người vượn. Ở của người chỉ có thể là ứng xử vật chất của
giai đoạn này, xuất phát từ hình thức khách họ: không thể chia tách tư tưởng với cái
quan của sự chỉ dẫn đã hình thành mà hình chất liệu đang suy nghĩ. Nó là chủ thể của
thức chủ quan mới được cấu thành, hình mọi biến đổi.
thức chủ quan sẽ xác định quan hệ định ý Động tác chỉ dẫn - hình thức đầu tiên
đầu tiên giữa chủ thể với đối tượng, với tư biểu hiện ý thức của con người, theo Trần
cách là ý thức nguyên thủy về đối tượng. Đức Thảo, không chỉ thể hiện qua hoạt
Như vậy, với tư cách là phương thức tồn động của tay mà còn có sự kết hợp với
tại cơ bản của con người, lao động mang động tác nhìn của mắt. Mắt người có một
tính xã hội đã làm nảy sinh nhu cầu giao sự diễn đạt mà ta không thấy ở con vật, con
tiếp giữa các thành viên. Từ nhu cầu đó, vật hướng mắt nó vào đối tượng, còn cái
ngôn ngữ của con người mới được hình nhìn của người chỉ dẫn: nó tự chỉ dẫn
thành và hoàn thiện dần, với hình thức ban khách thể cho chính nó cũng như cho
đầu là cử chỉ chỉ dẫn. những người khác.
Động tác chỉ dẫn ở trình độ người Sự hướng dẫn từ xa được thực hiện
nguyên thuỷ (tương ứng đứa trẻ dưới 1 bằng liên hiệp động tác của mắt nhìn và cử
tuổi) theo ông bao hàm hai yếu tố: yếu tố chỉ của bàn tay, không chỉ nhằm truyền tải
cử chỉ và yếu tố cảm thán, và khi lao động thông tin tới khách thể mà còn là sự cảm
tập thể những người lao động gọi nhau vào thán ở bên trong với chính mình của chủ
đối tượng của lao động bằng cử chỉ và thể: chủ thể có cảm giác về nó trong động
thanh âm, và mỗi người tự nhìn thấy chính tác phác thảo của cổ họng và lưỡi: “A!”,
mình như trong một tấm gương và tự nghe hay “Thế đấy”. Chính về điều này, C. Mác
chính mình trong những người khác như cũng viết: “nhờ hoạt động phối hợp của bàn
trong một dội hưởng. Con người, C. Mác tay, của các khí quan phát âm và của bộ óc,
viết: soi mình và tự nhận ra mình thoạt tiên chẳng những ở mỗi cá nhân mà cả trong xã
chỉ trong một người khác. hội nữa, loài người đã có đủ những khả
Theo Trần Đức Thảo, khi mỗi chủ thể năng hoàn thành những công việc ngày
vẫn chỉ làm công việc trao đổi dấu hiệu cho càng phức tạp, có đủ khả năng tự đề ra
nhau, mà chưa trao dấu hiệu cho chính bản những mục đích ngày càng cao hơn” (C.
thân mình thì vẫn chưa đạt tới bình diện Mác & Ph. Ăngghen, 2004, tập 20, tr.646).
của ý thức. Ý thức được biểu hiện ra đồng Sự có ý thức bắt đầu từ động tác rời
thời là ý thức về đối tượng và ý thức về rạc sau đó phát triển thành một sự có ý
chính mình. “Là ý thức về đối tượng, nó là thức tập thể trong đó tất cả các cá nhân của
hình ảnh của đối tượng được đặt như là ở nhóm, người này tự nhận ra mình trong
bên ngoài nó. Như là ý thức về mình, nó là người khác. Sự hình thành ý thức sẽ hoàn
23
- SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 76 (04/2021)
tất khi hành vi của nhóm có thể được quy cộng đồng hiển nhiên là hệ thống các mối
giản thành chính hình ảnh dư tồn của nhóm quan hệ giữa chủ thể với cộng đồng mà
trong cá nhân, khiến cho dấu hiệu được trước hết cũng như chủ yếu là trong lao
nhập vào bên trong cho bản thân cá nhân, động chung: “Trong sự vận động của sản
với tư cách cá nhân, cá thể người sẽ thu xuất thành nhóm cử chỉ của mỗi người lao
nhận vào chính bản thân mình hình thức động hiệp tác với nhau dựa trực tiếp vào
đồng nhất hóa của tính tương hỗ xã hội. lao động cùng những người khác với bản
Trần Đức Thảo chỉ ra rằng, sự có ý thân mình, với chính mình” (Trần Đức
thức trong vận động nguyên thủy của nó Thảo, 2004, tr.52).
được thực hiện trong ba dịp. Kỳ thủy, trong Ban đầu khi sự tồn tại của các cá nhân
một tình thế chậm chạp, đột hiện sự có ý chưa mang tính xã hội (tức là khi hoạt động
thức rời rạc như một lóe sáng ý thức. Nó có của con người chưa phải là lao động sản
nhiệm vụ kích thích chủ thể vượt khỏi sự xuất) thì nhu cầu khẳng định sự tồn tại của
chậm trễ của mình để đặt mình vào trình độ mình thông qua các cá thể khác chưa được
của động tác xã hội. Rồi đến sự hình thành đặt ra và vì thế ngôn ngữ khởi nguyên nhất
ý thức tập thể, cho phép sự phổ thông hóa theo nghĩa là các cử chỉ tự bản thân nó
lần đầu tiên dấu hiệu bằng cách làm nó trở không có ý nghĩa gì cả. Dần dần thông qua
thành khả dụng đối với nhóm ngoài những hoạt động sản xuất vật chất (hoạt động căn
tình thế lao động khẩn cấp. Cuối cùng là sự bản nhất của con người), tính xã hội của con
có ý thức cá thể, nó hoàn tất sự phổ thông người phát sinh thông qua các quan hệ xã
hóa dấu hiệu bằng cách làm cho dấu hiệu là hội được tạo lập trên cơ sở của lao động,
khả dụng thường xuyên đối với cá nhân. làm nảy sinh nhu cầu của sự hợp tác, trao
Tóm lại, ý thức được hình thành trên đổi giữa các quá trình và quan hệ vật chất
cở sở của hành vi, cử chỉ chỉ dẫn của chủ của tập thể những người lao động, sự vận
thể bước đầu cho việc ngôn ngữ ra đời, động sản xuất có tính xã hội chung đó tự nó
đánh dấu sự phát triển vượt bậc của con đã thành ngôn ngữ của đời sống hiện thực.
người khác hẳn với động vật. Ý thức ở đây Đây là thứ ngôn ngữ: “tạo nên hành vi vật
ra đời trên cơ sở phát triển của chủ thể chất của con người” (Trần Đức Thảo, 2004,
nhận thức và sự phát triển của cử chỉ chỉ tr.53). Quan điểm này chính là sự kế thừa
dẫn của mỗi chủ thể và tạo tiền đề cho việc quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện
hình thành ngôn ngữ hiện thực. chứng về nguồn gốc xã hội của ý thức,
2.2. Ngôn ngữ của đời sống hiện thực trong Biện chứng của tự nhiên, Ph.
và ý thức khởi nguyên Ăngghen viết: “Đem so sánh con người với
Thông qua cử chỉ chỉ dẫn, chúng ta các loài vật, người ta sẽ thấy rõ ràng ngôn
thấy ngôn ngữ đã dần xuất hiện trong quá ngữ bắt nguồn từ lao động và cùng phát
trình con người phản ánh hiện thực cuộc triển với lao động, đó là cách giải thích duy
sống của họ, đặc biệt là sự tác động với đối nhất đúng về nguồn gốc của ngôn ngữ” (C.
tượng xung quanh. Chính cái ngôn ngữ ban Mác & Ph. Ăngghen, 2004, tr.645). Thứ
đầu - hành vi cử chỉ đó, trong khi đảm bảo ngôn ngữ này vừa là công cụ để con người
mối liên hệ giữa người lao động và cộng tiến hành giao tiếp vừa là cái để con người
đồng đã đồng thời sinh ra ngôn ngữ khởi thể hiện chính mình và sự hiện hữu của
nguyên cho cộng đồng người. Tồn tại của mình. Chính sự ra đời và tồn tại thứ ngôn
24
- BÙI LAN HƯƠNG TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN
ngữ đặc thù này trong quá trình lao động mà ngôn ngữ”. Trần Đức Thảo xác định “chất
ý thức của con người về hiện thực trước hết xã hội của ngôn ngữ” là toàn thể những
được hiện ra như một sự “toát tỏa trực tiếp”, hành vi biểu đạt, cử chỉ và âm thanh trong
chưa hề thông qua những khâu trung gian cấu trúc của sự tương tác qua lại. Cấu trúc
hay những quy ước chủ quan của con người này được biểu hiện ra trong dòng chảy của
trong hoạt động nhận thức. Nói cách khác, lịch sử bằng những hình thức vô cùng đa
đây chính là ý thức hiện thực với tư cách là dạng và tính phức tạp luôn tăng thêm,
sản phẩm xã hội khi nó tồn tại cho những nhưng tất cả chúng đều được cấu thành
người khác đồng thời là tồn tại cho chính cá trên nền của hình thức cơ bản của sự lặp lại
thể sử dụng nó. Vậy là bản chất xã hội của ý hay hình thức của dội hưởng, mà Trần Đức
thức con người ở giai đoạn đầu tiên được Thảo đã miêu tả ở sự vận động chỉ dẫn.
thể hiện thông qua ngôn ngữ cử chỉ. Thông qua quá trình hoạt động thực
Hành vi, cử chỉ chỉ dẫn với tư cách là tiễn trong cộng đồng, những hình ảnh về
dấu hiệu nguyên thủy của ngôn ngữ, trình cử chỉ và âm thanh tiếng nói của người
ra đặc điểm hoàn toàn đơn lẻ là nó sản sinh khác đã được phản ánh vào trong bộ não
ra ý nghĩa riêng của nó bằng chính bản của mỗi cá nhân, được cá nhân sử dụng và
thân nó, bằng những hình thức đơn lẻ của tiếp tục hoàn thiện trong quá trình tự nói và
nó, chủ thể bằng cử chỉ hình cung, truyền tự làm dấu hiệu với chính mình. Sau đó, cá
thông tin cho người khác bằng một vận nhân tiếp tục sử dụng để giao tiếp với tập
động dưới hình thức một hình ảnh điều thể, ngôn ngữ lại tiếp tục phát triển và
khiển người ấy về phía đối tượng: “điệu bộ được phổ thông hóa. Quá trình phát triển
làm thành hình ảnh”. Hình ảnh ấy xác định ngôn ngữ của loài người cứ diễn ra như
ngay ý nghĩa của cử chỉ chỉ dẫn, với tư vậy trong sự tác động qua lại giữa cá nhân
cách là sự hướng dẫn từ xa, hàm chứa một và tập thể đã làm nên bản chất xã hội của
thiên hướng của chủ thể là đi tới tận nơi kẻ ngôn ngữ và ý thức.
khác để hướng dẫn hắn đến đối tượng. Trần Đức Thảo đã đưa ra những lý giải
Ngôn ngữ của đời sống hiện thực được độc đáo về quá trình vận hành của ngôn
Trần Đức Thảo trình bày như là vận động ngữ đời sống hiện thực. Ở quá trình thứ
vật chất của sản xuất xã hội khi nó làm nhất, khi bản thân các thao tác lao động tự
trung gian cho ý thức, ở đây chứa đựng hình nó phát sinh ra ý nghĩa riêng của hoạt động
thức tiếng gọi. Hoạt động vật chất và các khi chủ thể tác động vào đối tượng lao
quan hệ vật chất của mỗi người lao động động sẽ đồng thời làm phát sinh hai biểu
kêu gọi những người khác có quan hệ với tượng. Một mặt: “ký hiệu ấy được truyền
nhau; họ đã gọi nhau cùng lao động, cùng đạt tới nhóm cùng tương tác của chủ thể
hợp tác theo phương hướng được chỉ ra và người lao động”; mặt khác “cũng ký hiệu
do tình hình lao động đòi hỏi trong quá trình ấy biểu hiện trước hết dưới hình thức hình
hình thành nhiệm vụ xã hội chung. ảnh bên trong” (Trần Đức Thảo, 2004,
Sự phát triển của ngôn ngữ không chỉ tr.54) của chính chủ thể lao động với đối
là sự phát triển đơn độc của nó mà còn có tượng. Tức là trong quá trình lao động,
sự tác động của rất nhiều yếu tố liên quan không chỉ có đối tượng được con người tác
trong đó có sự đóng góp của cả xã hội mà động bộc lộ các thuộc tính của nó mà bản
Trần Đức Thảo gọi là “chất xã hội của thân con người cũng bộc lộ chính mình
25
- SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 76 (04/2021)
trong quá trình đó. Cho nên con người ý thức và ngôn ngữ đã làm cho sự phát
không chỉ nhận thức được về đối tượng và triển của con người trong việc cải tạo và
còn nhận thức được về chính mình. Ở quá phát triển xã hội ngày càng phong phú và
trình thứ hai, trong giao tiếp với nhóm đa dạng hơn.
cùng hợp tác, cái hình ảnh bên trong đó 2.3. Giá trị tư tưởng trong quan niệm
được kéo ra bên ngoài và được phóng của Trần Đức Thảo về nguồn gốc của
chiếu tới những người khác thể hiện qua ngôn ngữ và ý thức
những động tác lao động của họ sao cho Trước hết cần phải thấy rằng, Trần
chủ thể lao động đầu tiên tự nhận thấy Đức Thảo là một chuyên gia nghiên cứu về
mình trong lao động của những người cùng hiện tượng học vì vậy rất dễ hiểu khi trong
hợp tác. Sự hợp tác lao động chỉ có thể quan niệm triết học của Trần Đức Thảo, ý
thực hiện được thông qua sự đối chiếu như thức luôn là đề tài được ông quan tâm và
một hình ảnh điển hình vào chính thời trăn trở nhiều hơn cả. Vì khi Trần Đức
điểm chủ thể có thể chiếm hữu được đối Thảo xác định nhiệm vụ của nghiên cứu
tượng cũng là lúc ý thức khởi nguyên được triết học là: phải phát triển nhận thức của
hình thành, hay theo cách nói của Trần con người và tái thực hiện sự thống nhất
Đức Thảo đó là ý thức sống trải. biện chứng giữa lý thuyết và thực tiễn
Như vậy, ngôn ngữ của đời sống hiện trong một sự hiểu biết toàn cầu về lịch sử
thực ra đời như là sự tín hiệu hoá các cử thế giới, phải có mối liên hệ gắn bó với
chỉ lao động của mỗi người và của tất cả cuộc đấu tranh giai cấp của quần chúng với
mọi người nhằm phối hợp sự tham gia khác mặt tích cực của quan hệ xã hội cũ, và các
nhau của người lao động trong quá trình yêu cầu của sự tiến bộ con người; triết học
sản xuất. Nó là sự phản ánh mới ở dạng sơ chỉ có ý nghĩa khi nó hướng vào thực tiễn,
khai chưa qua những tầng bậc trung gian vì mục đích đem lại tự do và hạnh phúc
gián tiếp. Nhưng nó là sự phản ánh có chủ cho con người nên Trần Đức Thảo đã
định về đối tượng; là hình ảnh của cá nhân hướng suy tư của mình vào nghiên cứu lý
con người trong quá trình tác động vào đối luận về con người, mà trước hết là vấn đề ý
tượng lao động và giao tiếp với những thức. Chính vì thế, ý thức đã trở thành xuất
người khác. phát điểm, trọng tâm trong suy tư triết học
Ngôn ngữ của đời sống hiện thực ra của ông.
đời chứng tỏ rằng loài người đã bước sang Là một nhà triết học Việt Nam được
nấc thang mới có một ngôn ngữ thông đào tạo có hệ thống về triết học phương
dụng trong hoạt động thực tiễn để trao đổi Tây, tác phẩm của ông giải quyết vấn đề ý
những kinh nghiệm, lối sống, phong tục thức trên cơ sở kế thừa những thành tựu
cũng như góp phần vào việc hoàn thiện ý của triết học phương Tây thế kỷ XX. Các
thức của mỗi chủ thể trong hoạt động và nghiên cứu của Trần Đức Thảo về nguồn
cải tạo thực tiễn xã hội. Tư tưởng này của gốc của ngôn ngữ và ý thức được trình bày
Trần Đức Thảo giống với tư tưởng của tập trung trong cuốn Tìm cội nguồn của
những nhà kinh điển Mác - Lênin, ngôn ngôn ngữ và ý thức.
ngữ là tín hiệu thứ hai cho việc hoàn thiện Trong Hội thảo khoa học quốc tế: “Tư
ý thức của con người, nó phân biệt giữa tưởng triết học và giáo dục của Trần Đức
con người và động vật ở chỗ con người có Thảo” diễn ra ngày 7/5/2013 tại Đại học Sư
26
- BÙI LAN HƯƠNG TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN
phạm Hà Nội, nhiều học giả đã nhắc lại lời thành ý thức của con người gắn liền với sự
của Giáo sư Trần Văn Giàu lúc sinh thời: phát triển của hoạt động sản xuất vật chất.
“Trên đất nước này nếu có một triết gia thì Nhà nghiên cứu Nguyễn Thúy Vân đã
đó chính là Trần Đức Thảo. Giàu này chỉ là từng nhận xét: “… xuất phát từ một luận
người nghiên cứu triết học. Triết gia là điểm rất căn bản của triết học Mác: ngôn
người kiến tạo ra một hệ thống riêng và tạo ngữ là ý thức về hiện thực, về thực tiễn,
tầm ảnh hưởng lớn trên thế giới. Hệ thống Trần Đức Thảo đã đưa ra những cách lý
triết học Trần Đức Thảo đã làm được điều giải rất độc đáo và đầy hình tượng thông
đó” (Trần Văn Giàu, 1993). Có thể nói tư qua ngôn ngữ triết học của mình những vấn
tưởng của Trần Đức Thảo về nguồn gốc đề liên quan đến nguồn gốc và quá trình
của ngôn ngữ và ý thức cũng góp phần làm hình thành ngôn ngữ cũng như sự thể hiện
nên tên tuổi của ông. nó trong mối quan hệ với khách thể.
Với quan niệm duy vật biện chứng về Những lập luận đưa ra mặc dù rất trừu
ngôn ngữ và ý thức, Trần Đức Thảo đã tượng và khó xác định tính hệ thống,
khẳng định nguồn gốc của ý thức và ngôn nhưng lấp lánh trong nó là những tư tưởng
ngữ của đời sống hiện thực được hình hàn lâm sâu sắc trong sự suy tư đến tận
thành đầu tiên dựa vào sự phát triển hành cùng với một sự trung thành phương pháp
vi cử chỉ chỉ dẫn của con người thông qua luận của Mác để chỉ ra những cơ sở khoa
hoạt động sản xuất và sinh hoạt cộng đồng. học nhất đảm bảo cho sự tồn tại và phát
Khi nghiên cứu về ngôn ngữ và ý thức triển các ưu thế trong quan điểm duy vật
của con người các nhà sáng lập chủ nghĩa của triết học C. Mác trước sự tấn công của
Mác - Lênin đã chỉ ra nguồn gốc, bản chất, triết học phương Tây hiện đại đồng thời
kết cấu của ngôn ngữ và ý thức, tuy nhiên vạch mở theo hướng những suy tư triết học
quá trình tiến hóa từ tâm lý động vật sang ý rất độc đáo: sử dụng phương pháp luận của
thức của con người chưa được các nhà Mác để chứng minh tính đúng đắn của
sáng lập đề cập trong các tác phẩm của chính nội dung của nó thông qua kết quả
mình. Với tư cách là nhà triết học mác xít phát triển của các khoa học cụ thể”
trung kiên, ông đã sử dụng phương pháp (Nguyễn Thúy Vân, 2009, tr.46).
luận duy vật biện chứng kết hợp với tư liệu 3. Kết luận
khoa học về người tiền sử để vạch ra quá Triết học Trần Đức Thảo là một di sản
trình hình thành ngôn ngữ và ý thức ở lớn của tinh hoa trí tuệ dân tộc. Việc tiến
những bước tiến hóa đầu tiên từ Vượn hành nghiên cứu tư tưởng của ông có ý
người thành Người vượn. Kết quả của nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của
nghiên cứu này góp phần bổ sung, phát tư duy triết học nói riêng và tư tưởng
triển và khẳng định tính đúng đắn của quan người Việt nói chung. Ý thức, ngôn ngữ là
niệm triết học Mác - Lênin về nguồn gốc chủ đề chính của triết học Trần Đức Thảo.
của ngôn ngữ và ý thức. Qua đó chúng ta Với quan niệm duy vật về nguồn gốc của
thấy, sự xuất hiện của ý thức trải qua một ngôn ngữ và ý thức triết gia đã khẳng định
quá trình lâu dài và phức tạp của con người tính đúng đắn của triết học Mác - Lênin
từ thời nguyên thủy thông qua cử chỉ chỉ trong quan niệm về nguồn gốc xã hội của ý
dẫn - dấu hiệu đầu tiên cho việc hình thành thức, đồng thời bổ sung cho học thuyết
ngôn ngữ đã tạo bước tiến cho sự hình này về giai đoạn chuyển biến từ Vượn
27
- SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 76 (04/2021)
người thành Người vượn thông qua cử chỉ con người bắt đầu tiến hành lao động và
chỉ dẫn được hình thành trong quá trình giao tiếp xã hội.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Trần Văn Giàu (2013, ngày 7 tháng 5). Trần Đức Thảo - nhà triết học. Truy xuất từ
http://triethoc.edu.vn/vi/chuyen-de-triet-hoc/tran-duc-thao/tran-duc-thao-nha-triet-
hoc_106.html.
C. Mác & Ph. Ăngghen (2004). Toàn tập, tập 20. Hà Nội: NXB Chính trị Quốc gia.
Phạm Mỹ (2013, ngày 8 tháng 5). Hội thảo về GS Trần Đức Thảo: Triết gia giữa núi rừng
Việt Bắc. Truy xuất từ https://thethaovanhoa.vn/van-hoa/hoi-thao-ve-gs-tran-duc-
thao-triet-gia-giua-nui-rung-viet-bac-n20130508051229571.htm.
Trần Đức Thảo (1996). Tìm cội nguồn của ngôn ngữ và ý thức. Hà Nội: NXB Văn hóa
Thông tin.
Trần Đức Thảo (2004). Sự hình thành con người. Hà Nội: NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
Nguyễn Thúy Vân (2009). Vấn đề ngôn ngữ của tư duy theo quan niệm của Trần Đức
Thảo. Tạp chí Giáo dục lý luận, số 148, tr.41-46.
Ngày nhận bài: 15/6/2020 Biên tập xong: 15/4/2021 Duyệt đăng: 20/4/2021
28
nguon tai.lieu . vn