Xem mẫu

  1. QUẢN LÝ TÀI SẢN TRÍ TUỆ TRONG CÁC DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA PGS,TS. Nguyễn Quốc Thịnh, ThS. Nguyễn Thị Vân Quỳnh Trường Đại học Thương mại Tóm tắt: Tài sản trí tuệ là loại tài sản vô hình, ngày càng được đánh giá cao và chiếm tỷ trọng ngày càng lớn về giá trị trong số các tài sản của doanh nghiệp. Hoạt động quản lý tài sản trí tuệ là thực sự cần thiết, song dường như vẫn chưa thực sự được chú trọng ở nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa của Việt Nam. Bài viết tập trung làm rõ những tiếp cận pháp lý, quản trị về tài sản trí tuệ và nội dung chính quản lý tài sản trí tuệ trong doanh nghiệp. Nghiên cứu thực trạng các nội dung quản lý tài sản trí tuệ tại 245 doanh nghiệp để đưa ra những nhận định và đánh giá về nhận thức cũng như năng lực triển khai quản lý tài sản trí tuệ của các doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Việt Nam. Dù còn hạn chế về quy mô mẫu và phạm vi, đối tượng doanh nghiệp được nghiên cứu, nhưng kết quả đã phần nào cho thấy những điểm cần khắc phục trong các doanh nghiệp về quản lý tài sản trí tuệ. Từ khoá: Tài sản trí tuệ, Quản lý tài sản trí tuệ, Sở hữu trí tuệ, Thương hiệu, Nhãn hiệu INTELLECTUAL PROPERTY ASSETS MANAGEMENT IN SMALL AND MEDIUM ENTERPRISES Abstract: Intellectual property (IP) assets is an intangible asset, which is increasingly appreciated and accounts for an increasing proportion of the value of the assets of the enterprise. IP assets management is really necessary, but it seems that it is still not really focused in many small and medium enterprises in Vietnam. The article focuses on clarifying the legal and administrative approaches to IP and the main content of IP assets management in enterprises. Research on the current status of IP assets management contents at 245 enterprises to make judgments and assessments about the awareness and capacity of implementing IP management of small and medium enterprises in Vietnam. Although there are limitations in the sample size and scope and subjects of the businesses studied, the results have partly shown the points that need to be overcome in enterprises in terms of intellectual property management. Keywords: Intellectual Property Assests, Intellectual Property Assets Management, Intellectual Property (IP), Trademark, Brand 1. Đặt vấn đề Tài sản trí tuệ (TSTT) là loại tài sản vô hình dưới dạng quyền tài sản, mặc dù đang ngày càng thể hiện vai trò của chúng trong đóng góp cho sự phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, nhưng dường như lại ít được chú ý trong phát triển và bảo vệ chúng. Trong số các nguyên nhân của hạn chế trên, ngoài tính vô hình dẫn đến khó nhận diện và đo đếm của tài sản trí tuệ, còn có nguyên nhân từ chính nhận 533
  2. thức của lãnh đạo doanh nghiệp (DN). Từ thực tế hoạt động của các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV), có thể nhận thấy, phần nhiều các doanh nghiệp nhìn nhận về TSTT như là một loại tài sản quý, khó hình dung và thường chỉ xuất hiện ở những doanh nghiệp khoa học công nghệ, doanh nghiệp quy mô lớn, bởi đa phần chúng thường được nhắc đến là các sáng chế (SC), nhãn hiệu (NH), kiểu dáng công nghiệp (KDCN). Tuy nhiên, bên cạnh những đối tượng như được nêu trên, TSTT còn là rất nhiều những đối tượng khác như các sáng kiến, cải tiến, các tác phẩm văn học nghệ thuật, các bí mật kinh doanh … do chính các thành viên trong doanh nghiệp tạo ra từ quá trình lao động sáng tạo của họ cũng như những tài sản được doanh nghiệp tiếp nhận hoặc liên kết tạo ra từ các bên khác nhau. Chính vì vậy, việc quản lý tốt TSTT để vừa bảo vệ được quyền lợi hợp pháp của các cá nhân và tổ chức, vừa khai thác chúng cho những mục đích khác nhau là việc làm rất cần thiết, góp phần tạo dựng hình ảnh thương hiệu (TH) và nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Bài viết, bên cạnh nhận diện rõ các loại tài sản và nội dung quản lý TSTT trong doanh nghiệp nói chung và đặc biệt là DNNVV nói riêng, sẽ phân tích thực trạng hoạt động quản lý TSTT (dựa trên nghiên cứu điển hình tại một số DNNVV) trên các khía cạnh như nhận thức của doanh nghiệp, các hành động tạo nguồn tài sản, thực hiện bảo vệ tài sản và tổ chức khai thác TSTT để từ đó tìm ra được những hạn chế mà các DNNVV cần khắc phục để có thể quản lý tốt hơn nữa TSTT của mình, góp phần phát triển thương hiệu của doanh nghiệp cũng như thương hiệu sản phẩm mà doanh nghiệp cung ứng ra thị trường. Phương pháp nghiên cứu định tính được sử dụng để xác định các vấn đề thực trạng quản lý TSTT (thông qua phỏng vấn 30 lãnh đạo và khảo sát 215 đối tượng quản lý trong doanh nghiệp thương mại, dịch vụ ăn uống, sản xuất đồ gỗ, gia công cơ khí, công nghệ thông tin, may mặc, chế biến thực phẩm). Với những doanh nghiệp vừa sản xuất, vừa kinh doanh dịch vụ đã gợi ý cho đáp viên chọn về nhóm DN sản xuất hay dịch vụ tuỳ theo giá trị thu nhập cao hay thấp. Thời gian thu thập dữ liệu sơ cấp trong khoảng tháng 6, 7 và 8 năm 2019 và tháng 6, 7 năm 2020 tại Hà Nội, Nghệ An, Sơn La, Thanh Hoá, Lào Cai. Các dữ liệu được xử lý qua Excel và sử dụng phương pháp quy nạp để đưa ra những nhận định và đánh giá chung về hoạt động quản lý TSTT trong doanh nghiệp. 2. Một số vấn đề lý luận về quản lý tài sản trí tuệ trong doanh nghiệp 2.1. Tiếp cận về tài sản trí tuệ Theo Luật Dân sự Việt Nam 2015, Điều 105, tài sản có thể là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản. Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền tài sản khác. Các đối tượng quyền sở hữu trí tuệ là loại tài sản vô hình, không hiện hữu dưới hình thái vật chất nhưng lại có trị giá bằng tiền. Theo Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO), tài sản trí tuệ (Intellectual Assets) là loại tài sản được hình thành từ kết quả của quá trình lao động trí óc, sáng tạo của con người, gồm những nhân tố trí tuệ mà cá nhân hoặc tổ chức có thể kiểm soát hoặc xác lập quyền sở hữu, (Cục SHTT, 2013) chẳng hạn như: các cơ sở dữ liệu, các quy trình tác nghiệp, các bí mật kinh doanh, các bí quyết công nghệ, ... Như vậy, mặc dù không được khái niệm trong Luật SHTT 2005 và Luật sửa đổi Luật SHTT 2009, nhưng 534
  3. từ tiếp cận của Luật Dân sự và WIPO, tài sản trí tuệ được hiểu là quyền tài sản đối với các đối tượng SHTT (Cục SHTT, 2005). Trong một tổ chức, bằng cách này hay cách khác, từng cá nhân hoặc tập thể qua quá trình lao động và cuộc sống hàng ngày, luôn có những sáng tạo, tư duy để thay đổi cuộc sống, hoạt động sản xuất, kinh doanh và kết quả là hình thành những tài sản trí tuệ (rất đa dạng với quy mô và mức độ sáng tạo khác nhau) nhằm thoả mãn những nhu cầu của cá nhân cũng như tổ chức. Một bài thơ, một bản nhạc, một sự cải tiến quy trình, một sáng kiến trong marketing, cung ứng sản phẩm, một kiểu dáng cho sản phẩm, một bản vẽ thiết kế mẫu hàng hoá… đều là những TSTT (Ma Lianyuan, 2000). Trong số những TSTT được tạo ra, có thể có những tài sản thoả mãn yêu cầu bảo hộ theo quy định của pháp luật, chúng được gọi tên là các đối tượng sở hữu trí tuệ (Intellectual Property - IP), chẳng hạn: Nhãn hiệu, Kiểu dáng công nghiệp, sáng chế, bí mật kinh doanh, quyền tác giả, chỉ dẫn địa lý, giống cây trồng... Khi tổ chức hoặc cá nhân thực hiện các thủ tục hoặc biện pháp bảo hộ thích ứng cho các đối tượng sở hữu trí tuệ theo quy định, sẽ phát sinh quyền của tổ chức đối với các đối tượng này và lúc đó, khái niệm quyền sở hữu trí tuệ được nhắc đến (IP Right). Một cách khái quát nhất, có thể hình dung, TSTT trong một tổ chức sẽ bao gồm những đối tượng SHTT được quy định cụ thể trong các văn bản luật và những tài sản khác chưa được bao quát bởi quy định pháp luật (chẳng hạn, ý tưởng kinh doanh, những sản phẩm chưa hoàn chỉnh của quá trình lao động sáng tạo… Những tài sản này, trong giới hạn nhất định có thể hiểu chúng thuộc nhóm đối tượng sở hữu công nghiệp là các bí mật kinh doanh). Từ đây, có thể thấy các TSTT trong một tổ chức sẽ bao gồm rất nhiều những tài sản cụ thể với mức độ đa dạng và quy mô rất khác nhau và tất cả chúng đều được tạo ra nhằm thoả mãn những nhu cầu nhất định của cá nhân và tổ chức gồm cả nhu cầu về vật chất và tinh thần. Vì thế, việc tăng cường quản lý đối với TSTT là việc làm rất cần thiết, nhất là trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu ngày càng khốc liệt hơn. 2.2. Các nội dung quản lý tài sản trí tuệ Quản lý tài sản trí tuệ là tập hợp các định hướng, quyết định và hành động hướng đến hình thành, kiểm soát, xác lập quyền sở hữu, khai thác và bảo vệ quyền lợi hợp pháp đối với các tài sản trí tuệ của tổ chức và cá nhân (Nguyễn Quốc Thịnh, 2020). Quản lý tài sản trí tuệ cần được tiếp cận cả ở cấp độ tư duy chiến lược và thực tiễn triển khai, gồm hoạch định sở hữu trí tuệ, tổ chức triển khai các hoạt động liên quan đến tài sản trí tuệ và giám sát, đánh giá hoạt động sở hữu trí tuệ cũng như quá trình khai thác các TSTT (Cục SHTT, 2013). Quản lý TSTT hoàn toàn không chỉ là quản lý việc xác lập quyền bảo hộ đối với các TSTT mà doanh nghiệp đang sở hữu mà quan trọng hơn cả là phải hoạch định được chiến lược phát triển nguồn tài sản từ cả bên trong và bên ngoài tổ chức, quản lý được các quyền liên quan đến tài sản (gồm cả quyền định đoạt/chiếm hữu đến quyền sử dụng, khai thác và quyền nhân thân của các bên có liên quan), hoạch định chiến lược khai thác hợp lý nhất, hiệu quả cao nhất các tài sản hiện có và tài sản tương lai. Quản lý TSTT gồm 3 nhóm nội dung chủ yếu: Quản lý nguồn tài sản, Quản lý quyền tài sản và Quản lý khai thác tài sản (Cục SHTT, 2013, Nguyễn Quốc Thịnh, 2014, 2019, 2020). 535
  4. 2.2.1. Quản lý nguồn tài sản Quản lý nguồn tài sản trí tuệ là quản lý quá trình hình thành các tài sản trí tuệ từ các nguồn khác nhau, gồm cả bên trong và bên ngoài doanh nghiệp. TSTT được hình thành từ quá trình lao động trí óc, sáng tạo của đội ngũ - đó là nguồn lực sáng tạo và thường được gọi tên là nguồn vốn trí tuệ. Từ nguồn vốn trí tuệ, nếu được kích thích, tạo điều kiện sẽ hình thành các TSTT. Vì vậy, vấn đề rất quan trọng để hình thành TSTT là phải tạo được môi trường làm việc nhân văn, cởi mở, năng động và kich thích được các nguồn sáng tạo thông qua các chính sách, ưu đãi, đầu tư nhất định từ tổ chức. Quản lý nguồn tài sản sẽ tập trung vào các nội dung cụ thể như: - Nhận diện các TSTT trong doanh nghiệp. Quá trình nhận diện cần bao quát hết tất cả các loại tài sản đã và đang có với những thông tin chi tiết nhất có thể về tài sản như: Tên gọi và nhóm tài sản, nguồn gốc tài sản, tình trạng hiện tại của tài sản, tình trạng bảo hộ, phạm vi sử dụng và khai thác, nguy cơ bị xâm phạm và tình hình xử lý xâm phạm (nếu có)… - Chính sách kích thích sáng tạo của doanh nghiệp nhằm tạo môi trường tốt nhất cho hình thành các TSTT cả bên trong và thu hút các nguồn lực từ bên ngoài của doanh nghiệp. Các tài sản có thể có nguồn từ những hoạt động có tổ chức của doanh nghiệp cũng như nguồn từ các hoạt động tự phát của các cá nhân. Các hoạt động có tổ chức của doanh nghiệp, thường là: Quá trình tự thiết kế sáng tạo mới cho sản phẩm và quy trình; Quá trình tự cải tiến, đổi mới sản phẩm, thiết bị và quy trình hiện có; Quá trình đặt hàng, nhận chuyển giao, nhận chuyển nhượng từ các tổ chức và cá nhân bên ngoài… Các hoạt động tự phát của các cá nhân có thể là: Những cải tiến sản phẩm, quy trình gắn với hoạt động của doanh nghiệp; Các sáng chế liên quan hoặc không liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp; Các tác phẩm văn học nghệ thuật, thiết kế đồ học, mỹ thuật ứng dụng, chương trình máy tính… Mặc dù những hoạt động tự phát cá nhân có thể không liên quan trực tiếp đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, nhưng khi được khuyến khích sẽ tạo những động lực nhất định cho quá trình tư duy sáng tạo của người lao động và trong nhiều trường hợp sẽ tác động đến đội ngũ, động lực hình thành nguồn TSTT. 2.2.2. Quản lý quyền tài sản Theo quy định pháp luật của Việt Nam cũng như hầu hết các quốc gia trên thế giới, quyền tài sản đối với các đối tượng SHTT có thể được phát sinh một cách tự động hoặc phát sinh có điều kiện thông qua các thủ tục đăng ký xác lập tại các cơ quan có thẩm quyền. Với các đối tượng như quyền tác giả và các quyền liên quan đến quyền tác giả, quyền sở hữu được phát sinh tự động mà không cần bất kỳ một thủ tục xác lập nào, nghĩa là khi một bài thơ, một tác phẩm âm nhạc được sáng tác, một công trình khoa học, một cuốn sách được công bố, một chương trình máy tính được thiết kế, một tác phẩm hội hoạ được hình thành… thì ngay lập tức quyền tài sản đã được xác lập. Chính vì quyền được phát sinh tự động không cần thủ tục đăng ký bảo hộ (Trần Văn Nam, 2016) nên quản lý đối với các quyền tác giả và quyền liên quan đến quyền tác giả có khá nhiều phức tạp hơn. 536
  5. Với các đối tượng SHTT như tên thương mại, bí mật kinh doanh, nhãn hiệu nổi tiếng, quyền sở hữu cũng được phát sinh tự động (không cần làm thủ tục đăng ký bảo hộ) nhưng có điều kiện kèm theo. Cụ thể, với tên thương mại, điều kiện đặt ra là doanh nghiệp phải sử dụng hợp pháp tên thương mại đó; với bí mật kinh doanh, điều kiện là phải có được một cách hợp pháp và thực hiện các biện pháp bảo mật các bí mật kinh doanh đó; với nhãn hiệu nổi tiếng, quyền sở hữu được xác lập trên cơ sở sử dụng, không phụ thuộc vào thủ tục đăng ký. Với các đối tượng SHTT còn lại như nhãn hiệu (gồm nhãn hiệu thông thường, nhãn hiệu tập thể, nhãn hiệu liên kết, nhãn hiệu chứng nhận), sáng chế, KDCN, thiết kế bố trí mạch tích hợp, chỉ dẫn địa lý, giống cây trồng thì quyền sở hữu chỉ được phát sinh trên cơ sở cấp văn bằng bảo hộ của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền theo thủ tục xác lập. Quản lý quyền tài sản thường tập trung vào các nội dung như (Nguyễn Quốc Thịnh, 2020): - Quản lý quá trình xác lập quyền. Với những đối tượng mà quyền được phát sinh tự động thì chúng cần được thể hiện dưới một hình thức vật chất nhất định (như các vật phẩm lưu trữ, thể hiện). Bên cạnh đó, cũng có thể cũng tiến hành các thủ tục đăng ký bảo hộ, hoặc công bố tác phẩm. Với những đối tượng mà quyền phải được tiến hành các thủ tục xác lập thì phải khẩn trương làm các thủ tục đăng ký bảo hộ (vì luật Việt Nam và hầu hết các quốc gia trên thế giới đều áp dụng quy tắc first to file - ưu tiên xác lập trước). Với các đối tượng mà quyền phát sinh tự động có điều kiện thì vấn đề quan trọng là phải áp dụng các điều kiện để được pháp luật bảo hộ. - Quản lý phân định quyền. Để hình thành tài sản, có thể có sự tham gia của nhiều bên cả về vật chất và tư duy, vì vậy, việc phân định quyền tài sản cho các bên liên quan được xem là khá quan trọng. Bên cạnh đó, cần phân định rõ về quyền nhân thân (như đối với quyền tác giả, quyền đối với KDCN, sáng chế…), quyền sử dụng và khai thác đối với các tài sản khác nhau cho các tổ chức và cá nhân cả bên trong và bên ngoài doanh nghiệp. Tranh chấp rất dễ xảy ra và khả năng sáng tạo có thể bị suy giảm trầm trọng nếu không phân định được rõ về các quyền đối với TSTT. - Quản lý bảo vệ tài sản và xử lý các tình huống xâm phạm, tranh chấp đối với TSTT. Đây là những nội dung liên quan đến công tác bảo mật tài sản, dự báo rủi ro, chống sa sút thương hiệu và xử lý các tình huống xâm phạm, tranh chấp (nếu có). 2.2.3. Quản lý khai thác tài sản Tài sản trí tuệ nếu không được khai thác thương mại sẽ không kích thích được quá trình sáng tạo. Vì vậy quản lý khai thác tài sản đóng vai trò rất quan trọng. Tuỳ theo loại tài sản, tính hữu dụng của tài sản và điều kiện của doanh nghiệp cũng như nhu cầu thị trường mà TSTT có thể được khai thác ở các quy mô và cấp độ, hình thức khác nhau. Về phạm vi khai thác, có thể là tự khai thác hoặc các hoạt động chuyển giao, chuyển nhượng. - Tự khai thác TSTT là đưa các tài sản hiện có (từ nguồn tự có của doanh nghiệp hoặc nhận chuyển giao, chuyển nhượng) vào ứng dụng thực tế sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Đây là hoạt động thường xuyên của doanh nghiệp đối với rất nhiều loại tài sản khác nhau. Vấn đề đặt ra là làm sao để có thể khai thác tối đa các TSTT mà doanh nghiệp 537
  6. đang có, theo đó, một quy trình gợi ý thường là: Đánh giá sơ bộ về khả năng áp dụng tài sản (nhóm chuyên gia và tác giả tham gia)  Triển khai ứng dụng thử (lựa chọn đơn vị, quy trình, đối tượng ứng dụng thử) Đánh giá kết quả thử nghiệm (nhóm chuyên gia, tác giả, đơn vị ứng dụng tham gia)  Hiệu chỉnh (nếu có) và tổ chức áp dụng chính thức. - Thực hiện chuyển giao và chuyển nhượng TSTT. Doanh nghiệp có thể lựa chọn chuyển giao qua các hợp đồng nhượng quyền thương mại, li-xăng nhãn hiệu, kiểu dáng công nghiệp, sáng chế, bí mật kinh doanh …hoặc có thể chuyển nhượng cho các đơn vị có nhu cầu. Để phát triển khai thác qua hình thức này thì doanh nghiệp cần tham gia các sàn giao dịch công nghiệp, tiếp cận thị trường chuyển giao SHTT… Các nội dung quản lý TSTT mặc dù có tính độc lập với nhau nhưng chúng có mối liên hệ và tương tác qua lại với nhau rất chặt chẽ. Hoạt động quản lý quyền sẽ được tiến hành và gắn với tất cả các hoạt động trong quá trình hình thành nguồn tài sản và khai thác tài sản. Ngược lại, quá trình hình thành tài sản có động lực mạnh từ khai thác tài sản và hoạt động bảo vệ quyền tài sản. 3. Thực trạng quản lý tài sản trí tuệ trong các doanh nghiệp nhỏ và vừa Các DNNVV, với đặc điểm của mình cả về quy mô, tiềm lực tài chính và năng lực sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ thường có tâm lý coi TSTT và hoạt động SHTT là "sa sỉ", đặc biệt là những doanh nghiệp thương mại, cung ứng dịch vụ. 3.1. Thực trạng nhận diện và phát triển nguồn tài sản trí tuệ Khi đề cập đến hoạt động SHTT, từ kết quả khảo sát của nhóm tác giả với 245 doanh nghiệp, cho thấy, có đến gần 92% (225/245) số doanh nghiệp không có định hướng cho hoạt động này (với các doanh nghiệp thương mại và dịch vụ, tỷ lệ này là 100% - 188/188 DN). Nhận thức của nhiều lãnh đạo doanh nghiệp cho rằng, hoạt động SHTT nói chung và vấn đề quản lý TSTT nói riêng chỉ thích hợp với những doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp khoa học công nghệ hoặc những doanh nghiệp trực tiếp sản xuất hàng hoá với công nghệ hiện đại. 98% (240/245) doanh nghiệp không có nhân sự trực tiếp phụ trách hoặc theo dõi về hoạt động SHTT. Hầu hết các vấn đề liên quan đến SHTT nếu có phát sinh sẽ được thuê một đơn vị tư vấn bên ngoài để giải quyết, trợ giúp (như đăng ký bảo hộ, tư vấn chuyển giao công nghệ hoặc xử lý tranh chấp…). Chính nhận thức chưa đầy đủ về SHTT đã dẫn đến rất nhiều doanh nghiệp thiếu quan tâm đến hoạt động quản lý TSTT và chưa khai thác tốt những tiềm năng của mình để phát triển nguồn tài sản, chưa phát huy được sức mạnh của nguồn vốn trí tuệ trong doanh nghiệp. Có 67/245 doanh nghiệp (gồm 57 DN sản xuất hàng hoá và 10 DN kinh doanh dịch vụ) có chế độ thưởng cho các cá nhân có sáng kiến, cải tiến trong công việc. Rõ ràng tỷ lệ này còn quá thấp trong các DN thương mại và dịch vụ, trong khi có thể có rất nhiều những cải tiến về quy trình, sáng tạo về nội dung các hoạt động marketing, truyền thông, đặc biệt là hoạt động bán hàng online, sáng tạo nội dung trong các quảng cáo. Thực tế thì các doanh nghiệp, dù là nhỏ và thậm chí là siêu nhỏ, dù danh mục TSTT có thể không nhiều, nhưng không có nghĩa là họ không có (như nhận thức của một số lãnh đạo doanh nghiệp). Vấn đề là họ có nhận diện được các tài sản mà mình đang có hay không? 538
  7. Khi được yêu cầu tự liệt kê các tài sản trí tuệ của doanh nghiệp, thì có chỉ có khoảng 70% (trong tổng số 112) người được hỏi (là lãnh đạo hoặc cán bộ quản lý) liệt kê được một số tài sản như: Nhãn hiệu, Thương hiệu (78/112), Kiểu dáng sản phẩm (73/112), Nguồn nhân lực (67/112), Danh mục khách hàng (54/112). Các tài sản khác gần như không được liệt kê. Trong khi đó, nếu dùng bảng hỏi và liệt kê sẵn một loạt các TSTT để đáp viên đánh dấu lựa chọn thì kết quả là: a). Nhãn hiệu/logo (222/245); b). Kiểu dáng sản phẩm (215/245); c). Sáng chế (113/245); d). Bí mật kinh doanh (239/245); e). Chương trình máy tính (22/245); f). Nguồn nhân lực (16/245); g). Thương hiệu (143/245); h). Bản quyền với tác phẩm hội hoạ (95/245); i). Bản quyền âm nhạc (112/245)… Rõ ràng, từ đây có thể nhận thấy là bản thân các doanh nghiệp cũng chưa nhận diện được một cách tương đối các TSTT của mình. Phỏng vấn trực tiếp một số lãnh đạo doanh nghiệp, cho thấy, đa phần các DNNVV cho rằng SHTT là lĩnh vực chuyên ngành, khó hiểu và ít thiết thực đối với các đối tượng này nên họ chưa có sự đầu tư thích hợp. Kết quả khảo sát các doanh nghiệp về hoạt động SHTT đã và đáng triển khai được thể hiện trong bảng 1. Bảng 1: Số lượng các doanh nghiệp có thực hiện một số hoạt động để phát triển nguồn tài sản trí tuệ ĐVT DN sản TT Nội dung DN dịch vụ xuất 1 Định hướng cho hoạt động SHTT DN 20 0 2 Nhân sự trực tiếp phụ trách, theo dõi về SHTT - 5 0 3 Chính sách khuyến khích đổi mới, sáng tạo - 3 2 Tự phát triển công nghệ/quy trình/sản phẩm/dịch - 14 8 4 vụ Liên kết phát triển công nghệ/quy trình/sản - 26 98 5 phẩm/dịch vụ Vinh danh cá nhân, tập thể có thành tích, sáng - 57 124 6 kiến Hỗ trợ kinh phí/vật tư cho các nghiên cứu, cải - 4 2 7 tiến Chế độ thưởng cá nhân/tập thể có sáng kiến, cải - 57 10 8 tiến Số lượng sáng kiến, cải tiến công nhận hàng DN*/Sáng 9 57*/324** 76*/198** năm kiến** Số lượng công nghệ mới phát triển hàng năm, 3*/3** 0 trong đó: * DN /Công 1*/1** 0 10 - Tự phát triển nghệ** 2*/2** 0 - Đến từ bên ngoài Số lượng sản phẩm mới phát triển hàng năm, 43*/96** 14*/23** trong đó: DN*/Sản 26*/56** 9*/18** 11 - Tự phát triển phẩm** 17*/40** 5*/5** - Đến từ bên ngoài 539
  8. Số lượng quy trình mới phát triển hàng năm, 2*/2** 43*/45** trong đó: DN*/Quy 1*/1** 11*/13** 12 - Tự phát triển trình** 1*/1** 32*/32** - Đến từ bên ngoài Nguồn: Khảo sát 245 DN (57 DN sản xuất, 188 DN dịch vụ) tại Hà Nội, Nghệ An, Sơn La, Thanh Hoá, Lào Cai Từ kết quả trong bảng 1 và kết quả khảo sát nhận diện TSTT của doanh nghiệp, có thể nhận thấy là chỉ có một tỷ lệ rất nhỏ các doanh nghiệp có triển khai các hoạt động để thúc đẩy quá trình sáng tạo, hướng đến tạo nguồn và phát triển các TSTT phục vụ hoạt động kinh doanh, trong khi hàng năm họ vẫn phải đầu tư và tìm cách phát triển sản phẩm mới hoặc quy trình mới để cạnh tranh. Việc nhận diện TSTT vẫn còn là một thách thức đối với nhiều doanh nghiệp. Dường như có mâu thuẫn nhất định giữa hành động và nhận thức của họ về hoạt động SHTT nói chung và quản lý TSTT nói riêng. 3.2. Thực trạng các hoạt động bảo vệ quyền tài sản đối với TSTT Từ thực tế nhận thức chưa đầy đủ và rõ ràng về SHTT mà không ít doanh nghiệp chưa nhận diện được đầy đủ về TSTT và cũng chưa có những hành động cụ thể để quản lý nguồn tài sản (như bố trí nhân sự theo dõi, quản lý, hoạch định chiến lược và triển khai các hành động tương ứng), kể cả việc bảo vệ tài sản - vấn đề thường được quan tâm nhiều nhất ở các doanh nghiệp. Như đã đề cập ở trên, quản lý quyền tài sản sẽ bao gồm 3 nhóm nghiệp vụ chính là: Xác lập quyền, phân chia quyền và bảo vệ, xử lý tranh chấp quyền đối với TSTT (nếu có). Thực trạng quản lý xác lập quyền cho các TSTT của doanh nghiệp Thực tế khảo sát tại 245 doanh nghiệp nhỏ và vừa cho thấy, vẫn còn 87 doanh nghiệp (chiếm 35,5%) chưa hề thực hiện việc đăng ký bảo hộ cho bất kỳ đối tượng SHTT nào của mình, mặc dù tỷ lệ này đã giảm nhiều so với các nghiên cứu cũng của nhóm tác giả bài viết này năm 2018 và 2017 (tương ứng là 51% và 44,5%). Đối tượng SHTT được đăng ký chủ yếu vẫn là nhãn hiệu (nhãn hiệu thông thường và nhãn hiệu liên kết) (Bảng 2). Bảng 2: Số lượng các doanh nghiệp đã đăng ký SHTT và số lượng các đối tượng SHTT đã được đăng ký bảo hộ Số DN đã đăng ký/Số đối Số DN chưa T tượng SHTT đã đăng ký (không) đăng ký Tên đối tượng SHTT T DN DN DN DN sản xuất dịch vụ sản xuất dịch vụ 1 Nhãn hiệu 44/67 114/116 13 74 2 Kiểu dáng công nghiệp 2/3 0 55 188 3 Sáng chế 0 0 57 188 4 Giải pháp hữu ích 1/1 0 57 187 5 Giống cây trồng 0 0 57 188 6 Thiết kế bố trí mạch tích hợp 0 0 57 188 7 Quyền tác giả 5/11 12/12 52 176 Nguồn: Khảo sát 245 DN (57 DN sản xuất, 188 DN dịch vụ) tại Hà Nội, Nghệ An, Sơn La, Thanh Hoá, Lào Cai 540
  9. Từ số liệu bảng 2 cho thấy, tỷ lệ các doanh nghiệp sản xuất đăng ký bảo hộ các đối tượng SHTT cao hơn (77,2%) so với các doanh nghiệp dịch vụ (60,6%), số nhãn hiệu bình quân đã đăng ký của doanh nghiệp sản xuất là 1,52, trong đó của doanh nghiệp dịch vụ là 1,02. Tất nhiên, điều này xuất phát từ đặc điểm của doanh nghiệp sản xuất, nhưng cũng cho thấy sự quan tâm của các doanh nghiệp này cao hơn so với doanh nghiệp dịch vụ. Một số doanh nghiệp sản xuất đăng ký 4 hoặc 5 nhãn hiệu cho các sản phẩm của mình. Không có doanh nghiệp nào có sáng chế được đăng ký bảo hộ và chỉ có 1 giải pháp hữu ích đã được đăng ký. Thực tế khảo sát cũng chỉ ra rằng, tỷ lệ các doanh nghiệp chưa hiểu về thủ tục đăng ký bảo hộ SHTT là trên 70%. Chỉ có một số rất ít các DN tự mình tiến hành các thủ tục đăng ký còn lại đều thuê khoán cho một đơn vị tư vấn. Trong số các DN tự nhận là hiểu về thủ tục đăng ký bảo hộ SHTT thì có đến 13 DN chưa tiến hành đăng ký cho bất kỳ đối tượng SHTT nào. Điều này cho thấy mức độ quan tâm và nhận thức của một số DN về bảo hộ SHTT còn khá hạn chế. Thực tế quản lý phân quyền và xử lý xâm phạm, tranh chấp SHTT của các doanh nghiệp Khái niệm về phân định quyền tài sản đối với các TSTT dường như còn khá xa lạ đối với hầu hết các DNNVV. Chỉ có 5/245 doanh nghiệp có chính sách khuyến khích đổi mới sáng tạo và các quy định về phân quyền đối với TSTT được sáng tạo bởi các thành viên trong tổ chức. Tuy nhiên, vấn đề xác định tỷ lệ thu nhập cho cá nhân và tổ chức đối với những TSTT chưa được quy định, chủ yếu vẫn chỉ là tiền thưởng khi các TSTT được ứng dụng (thường là các sáng kiến, kiểu dáng mới cho sản phẩm). Hàng loạt các TSTT khác như quy trình, sáng tạo nội dung truyền thông, sáng kiến phát triển hệ thống kênh, phần mềm quản lý khách hàng, trả lời tự động… đều được các doanh nghiệp xem như là hoạt động chức năng của cá nhân hoặc bộ phận nên không có những chế độ thưởng riêng (ngoại trừ thưởng doanh số). Vấn đề bảo mật thông tin, TSTT trong doanh nghiệp vẫn chưa thực sự được chú trọng. Đối tượng Bí mật kinh doanh, theo quy định của Luật SHTT, muốn được bảo hộ thì chúng phải có được một cách hợp pháp và DN phải có những biện pháp bảo mật. Tuy nhiên, chỉ có 14/245 DN được khảo sát có áp dụng những biện pháp bảo mật như: Quy chế bảo mật tài liệu, thông tin; Các quy định về quay phim, chụp ảnh, truy cập tài liệu nội bộ, tiếp cận hồ sơ lưu trữ. Có 5/245 DN đưa vào hoạt động lao động điều khoản về bảo mật thông tin, bí quyết kinh doanh. Rõ ràng là vẫn còn quá nhiều doanh nghiệp chưa quan tâm đến vấn đề bảo mật đối với các bí mật kinh doanh. Điều này, một phần là bản thân các doanh nghiệp cũng chưa nhận diện được hết các bí mật kinh doanh của doanh nghiệp, mặt khác tư tưởng xem nhẹ, chủ quan vẫn được bộ lộ rất rõ ở nhiều doanh nghiệp. Bí mật kinh doanh là một đối tượng SHTT gồm rất nhiều các tài sản khác nhau, từ chiến lược, kế hoạch sản xuất, kinh doanh đến các bí quyết trong quy trình; các cải tiến, sáng kiến; các mẫu thiết kế (kể cả các mẫu thiết kế dang dở); các ý tưởng và sơ đồ mô tả cho ý tưởng; các giao diện tiếp xúc thương hiệu (website, facebook, zalo…); các tác phẩm đồ hoạ, mẫu nhãn hiệu, bao bì… Khi vấn đề bảo mật không được thực hiện, những bí mật 541
  10. này có thể sẽ bị lộ ra ngoài và làm mất đi lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp. Thực tế công tác bảo mật, phân định quyền tài sản và chống xâm phạm TSTT của doanh nghiệp được mô tả trong bản 3 dưới đây (số liệu trong bảng thể hiện số doanh nghiệp nhận thức thực hiện): Bảng 3: Thực tế quản lý quyền SHTT trong các doanh nghiệp qua kết quả khảo sát Mức độ cần thiết Thực tế tại DN T Tên tài sản Cần thiết Không cần thiết Đang có Không có T SX DV SX DV SX DV SX DV 1 Quy định về phân định quyền TSTT 46 109 11 79 6 2 51 186 2 Khen thưởng cho hoạt động sáng tạo 57 188 0 0 57 10 0 178 3 Quy định về bảo mật thông tin 57 188 0 0 21 34 36 154 4 Quy định về phạm vi tiếp cận TSTT 9 24 48 164 2 4 55 184 5 Quy định về sử dụng TSTT 46 112 11 76 2 4 55 184 6 Thực hiện các biện pháp bảo mật cụ 57 188 0 0 35 76 22 112 thể Biện pháp kỹ thuật chống xâm phạm TH 7 57 56 0 132 32 0 25 188 (đánh dấu, dán tem nhãn, gắn mã…) 8 Rà soát thị trường phát hiện xâm phạm 57 62 0 126 39 12 18 176 Ghi chú: SX*, DV*: Doanh nghiệp sản xuất, doanh nghiệp dịch vụ Nguồn: Khảo sát 245 DN (57 DN sản xuất, 188 DN dịch vụ) tại Hà Nội, Nghệ An, Sơn La, Thanh Hoá, Lào Cai Từ số liệu bảng 3, nhận thấy, số doanh nghiệp nhận thấy sự cần thiết của các hoạt động phân quyền SHTT, bảo mật và chống xâm phạm khá lớn, trong khi thực tế triển khai tại doanh nghiệp lại còn khá thấp, nghĩa là khoảng cách giữa nhận thức và hành động triển khai vẫn khá lớn. Giải thích cho điều này, một số doanh nghiệp cho biết là khi được hỏi thì họ mới thực sự nhận ra sự cần thiết triển khai các hoạt động như vậy, còn trong thực tế, do nhiều lý do, họ chưa có điều kiện để triển khai. Chẳng hạn, ở khối dịch vụ, có 109 DN cho rằng cần có quy định về phân quyền đối với TSTT, nhưng chỉ có 2 DN đang thực hiện, 188 DN cho rằng cần có khen thưởng cho các cá nhâ, đơn vị có sáng kiến cải tiến, nhưng chỉ có 10 DN thực hiện. Tương tự 188 DN thấy cần thiết phải có quy định về bảo mật thông tin, và áp dụng các biện pháp cụ thể để bảo mật, nhưng chỉ có 76 DN có áp dụng các biện pháp bảo mật và cũng chỉ có 34 DN ban hành các quy định. Với các hoạt động xử lý trong các xâm phạm và tranh chấp liên quan đến TSTT và thương hiệu của doanh nghiệp, tỷ lệ các doanh nghiệp còn lúng túng trong xử lý (chưa hiểu rõ phải làm gì, liên hệ với các cơ quan chức năng nào, chưa có kịch bản xử lý, xác định ngay là sẽ kiện tụng) chiếm khá cao (hơn 82%). Có lẽ xuất phát từ thực tế, nhiều doanh nghiệp sản xuất chưa chủ động rà soát thị trường và nhiều dn dịch vụ ít bị xâm phạm nên các DN chưa có thực tiễn nhiều về vấn đề này, ngoại trừ một số rất ít DN đã trực tiếp xử lý đối với hàng giả, xâm phạm thương hiệu. 542
  11. 3.3. Thực trạng hoạt động khai thác quyền TSTT Từ kết quả khảo sát, cho thấy, tỷ lệ áp dụng các sáng kiến, cải tiến vào hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp khá cao (gần 93% - với 485 sáng kiến được áp dụng tại 133 DN, trong tổng số 522 sáng kiến), cho thấy, dù chưa có chiến lược SHTT, chưa có nhận thức đầy đủ về phát triển nguồn TSTT nhưng các doanh nghiệp đã rất biết tận dụng các tài sản hiện có phục vụ cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của mình. Các cải tiến trong quy trình, các công nghệ được mua về và các bí quyết kinh doanh được khai thác tốt và thường xuyên cho hoạt động sản xuất kinh doanh, mang lại hiệu quả cao cho doanh nghiệp. Có những sáng kiến được đánh giá là mang lại giá trị hàng năm lên đến cả tỷ đồng (như trường hợp của 1 doanh nghiệp sản xuất sữa). Hầu hết các doanh nghiệp đều thực hiện tự khai thác các TSTT phục vụ cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của mình. Chỉ có một số rất ít doanh nghiệp tiến hành chuyển giao TSTT cho các đối tác khác (5 doanh nghiệp) và đều là các doanh nghiệp dịch vụ ăn uống (quán phở, quán trà sữa, cà phê) thông qua các hợp đồng nhượng quyền trong nước. Với các hợp đồng nhượng quyền, các doanh nghiệp đã chuyển giao quyền sử dụng các loại tài sản như nhãn hiệu, bí quyết và công thức chế biến, quy trình cung ứng dịch vụ, quy trình truyền thông thương hiệu, bài trí không gian nhà hàng và nhận diện thương hiệu. 100% các doanh nghiệp được khảo sát đều không biết và tiếp cận được với các sàn giao dịch công nghệ, hội chợ chuyên ngành về SHTT. Điều này cho thấy các mức độ quan tâm của các doanh nghiệp vẫn còn rất hạn chế trong việc tìm đầu ra cho các TSTT cũng như tìm kiếm các cơ hội cho tiếp cận và nhận chuyển giao các công nghệ mới, các sáng chế và các phương án trong sản xuất kinh doanh hiện đại để có thể nâng cao năng lực cạnh tranh cho sản phẩm và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Tóm lại, có thể thấy, hoạt động quản lý TSTT trong các doanh nghiệp nhỏ và vừa, mặc dù đã có được những kết quả đáng ghi nhận như: Nỗ lực kích thích các nguồn sáng tạo để có được nguồn tài sản phục vụ hoạt động kinh doanh, sử dụng tối đa và có hiệu quả các TSTT hiện có và đã có nhận thức rõ hơn, nỗ lực nhiều hơn trong thực thi quyền và bảo vệ quyền đối với các TSTT của mình, song vẫn còn khá nhiều những hạn chế cần khắc phục, cụ thể: - Còn một tỷ lệ khá lớn DN chưa có nhận thức đầy đủ về vai trò của TSTT và chưa thể nhận diện chính xác, bao quát được các TSTT mà DN hiện có. Vì thế, chưa có những định hướng cho hoạt động SHTT nói chung và quản lý TSTT nói riêng, chưa có nhân sự trực tiếp theo dõi hoạt động này. - Vấn đề tạo và phát triển nguồn TSTT còn chưa thật sự được chú trọng. Nhiều doanh nghiệp chưa có chính sách cụ thể cho việc phát triển nguồn tài sản, kể cả việc tra cứu thông tin sáng chế, thiết lập bộ phận nghiên cứu hoặc kích thích cá nhân sáng tạo. - Việc thực thi quyền tài sản, phân định quyền đối với tài sản và bảo vệ tài sản vẫn còn bị xem nhẹ ở rất nhiều doanh nghiệp. Còn rất nhiều doanh nghiệp chưa có chính sách bảo mật đối với các bí mật kinh doanh, chưa xác định cơ chế phân chia lợi ích từ TSTT cho các đối tượng leien quan một cách hợp lý, dẫn đến chưa kích thích sáng tạo, làm mất đi cơ hội bảo hộ và tình trạng thất thoát tài sản diễn ra khá phổ biến. 543
  12. Từ những hạn chế được nêu ra qua nghiên cứu thực tiễn tại các doanh nghiệp, để hoạt động quản lý TSTT đi vào thực chất, có thể mang lại những hiệu quả lớn hơn cho doanh nghiệp trong sản xuất và kinh doanh, một số giải pháp sau được đề xuất: - Các lãnh đạo doanh nghiệp cần nhận thức rõ hơn, đầy đủ hơn về TSTT và sự cần thiết quản lý tốt các TSTT của mình. Việc nhận diện chính xác các TSTT sẽ giúp các nhà quản trị nắm bắt được rõ nhất không chỉ danh mục mà còn về hiện trạng và những thông tin khác của tài sản trí tuệ trong doanh nghiệp. Gợi ý biểu mẫu cho nhận diện TSTT như bảng 4 dưới đây. Biểu mẫu này chỉ mang tính chất gợi ý trực quan, doanh nghiệp nên thiết kế biểu mẫu trên Excel (với các link kết nối nguồn thông tin cụ thể của từng tài sản) hoặc tạo bảng liệt kê chi tiết hơn với phần mềm riêng để có thể truy cập từ xa và thuận tiện hơn trong quản lý cũng như hỗ trợ ra các quyết định quản trị của lãnh đạo. Bảng 4: Gợi ý mẫu Bảng nhận diện TSTT trong doanh nghiệp Tình trạng bảo Thực thi quyền Tình trạng Nguồn Chủ sở hộ (Văn (Phân định khai thác TT Tên tài sản gốc tài hữu/Đơn vị Ghi chú bằng/Quốc quyền/Tình trạng (Quy mô, sản quản lý gia) tranh chấp…) giá trị) 1 Nhãn hiệu: - Nhãn hiệu 1 - Nhãn hiệu 2 … 2 Kiểu dáng CN - KDCN 1 - KDCN 2 … 3 Các chiến lược - Chiến lược KD - CL marketing … 4 Các sáng kiến - Sáng kiến… …. … ….. - Xây dựng những quy định về bảo mật trong doanh nghiệp, khẩn trương xác lập quyền cho các đối tượng SHTT đủ điều kiện đăng ký bảo hộ, nhất là nhãn hiệu. Luôn ghi nhớ rằng, Việt Nam và rất nhiều quốc gia trên thế giới áp dụng quy tắc first to file (nghĩa là ai đăng ký bảo hộ trước, người đó giành được quyền ưu tiên). Chậm đăng ký bảo hộ cũng đồng nghĩa nguy cơ bị tranh chấp, mất quyền sử dụng đối với nhãn hiệu là rất cao. Pháp luật cũng cho phép đăng ký trước và sử dụng sau đối với nhãn hiệu và một số đối tượng SHTT khác, doanh nghiệp nên quan tâm vấn đề này. Mỗi đối tượng SHTT lại có những quy định về đăng ký bảo hộ khác nhau, vì vậy cần quan tâm tìm hiểu, tra cứu thông tin từ website của Cục SHTT. - Doanh nghiệp cần có quy định cụ thể về phân định quyền cho các đối tượng khác nhau, đặc biệt trong trường hợp những sáng tạo của cá nhân người lao động trong doanh nghiệp. Khuyến khích từng cá nhân tích cực nghiên cứu sáng tạo trong công việc, có chế 544
  13. độ khen thưởng hợp lý và luôn tích cực tìm kiếm các nguồn sáng tạo đến từ bên ngoài, nhất là từ các trường đại học, viện nghiên cứu. Thực tế đã chứng minh, khi doanh nghiệp chưa chú trọng quản lý TSTT thì nguy cơ bị thất thoát, bị chiếm dụng TSTT dẫn đến mất đi cơ hội và năng lực cạnh tranh là rất cao, vì vậy các doanh nghiệp cần tập trung nhiều hơn cho hoạt động này. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Quốc Hội CHXHCNVN (2015). Luật dân sự. NXB Chính trị quốc gia 2. Cục sở hữu trí tuệ (2013). Tài liệu tập huấn về sở hữu trí tuệ dành cho các nhà sản xuất, kinh doanh. NXB Khoa học kỹ thuật 3. Cục sở hữu trí tuệ (2013). Công cụ kiểm toán sở hữu trí tuệ. Bản dịch từ tài liệu gốc WIPO (2005) - ebook 4. Đặng Nguyên, Thu Hà (2002). Quản lý công nghệ trong nền kinh tế tri thức. NXB Hà Nội. 5. Kevin L. Keller (2004). Brand Strategy Management. Free Press, N.Y 6. Hồ Thúy Ngọc (2015), Đánh giá hoạt động thương mại hóa quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế ở Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, số 499. 7. Ma Lianyuan (2000), Valuation of Intellectual Property Assets: Valuation Techniques, Parameters, Methodologies and Limitations. Innovation Parnership Program (IPP), Hanoi. 8. Trần Văn Nam, Nguyễn Thị Hồng Hạnh (2016). Giáo trình pháp luật sở hữu trí tuệ. NXB Đại học Kinh tế quốc dân. 9. Nguyễn Quốc Thịnh (2014). Bảo hộ sở hữu trí tuệ - Góc nhìn rào cản trong phát triển kinh tế xanh. Kỷ yểu HT quốc tế, Trường Đại học Thương mại. 10. Nguyễn Quốc Thịnh (2019). Phát triển tài sản trí tuệ trong các doanh nghiệp. Kỷ yếu HT quốc tế, Đại học thương mại. 11. Nguyễn Quốc Thịnh (2014). Phát triển khai thác thương mại các chỉ dẫn địa lý tại Việt Nam. Tạp chí Khoa học Thương mại số 71, tháng 7/2014. 12. Nguyễn Quốc Thịnh, Khúc Đại Long, Nguyễn Thu Hương (2020). Quản trị tài sản trí tuệ trong doanh nghiệp Việt Nam - Động lực cho sự khác biệt hóa. Tạp chí Khoa học Thương mại Số 143, tháng 7. 13. Nguyễn Quốc Thịnh (2018). Giáo trình Quản trị thương hiệu. NXB Thống Kê 14. Nhâm Phong Tuân, Nguyễn Thị Tuyết Mai (2021). Chia sẻ tri thức và đổi mới sáng tạo trong các doanh nghiệp Việt Nam. NXB Đại học quốc gia. http://www.ipvietnam.gov.vn 545
nguon tai.lieu . vn