Xem mẫu
- Quản lý nhà nước về thương mại
Quản lý nhà nước về thương
mại
1
Lớp 1008TECO0511 Nhóm : 02
- Quản lý nhà nước về thương mại
Đề tài: Hoàn thiện cơ chế chính sách thương mại, quản lý dịch vụ phân phối có
yếu tố nước ngoài ở Việt Nam phù hợp với cam kết hội nhập kinnh tế quốc tế.
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1 . Chính sách thương mại:
1.1.1 Chính sách thương mại.
Khái niệm chính sách thương mại: Chính sách thương mại là hẹ thống các
quan điểm, chuẩn mực, thể chế, biện pháp, thủ thuật mà nhà nước sử dụng, tác
động vào thị trường để điều chỉnh các hoạt động thương mại trong và ngoài nước
phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội trong từng giai đoạn nhất định.
Về thực chất, chính sách thương mại là một bộ phận của chính sách kinh tế
của Nhà nước, nó có quan hệ chặt chẽ và phục vụ cho sự phát triển kinh tế - xã hội
của đất nước.
1.1.2 Phân loại chính sách thương mại
- Theo phạm vi tác động
+ Chính sách thương mại nội địa ,
+ chính sách thương mại quốc tế
- Theo đối tượng tác động chính sách
+ Chính sách đối với thương nhân
+ Chính sách đặc thù đối với một số sản phẩm khu vực đặc biệt
- Theo cơ chế quản lý
+ chính sách bảo hộ mậu dịch
+ Chính sách tự do hóa thương mại
- Theo nội dung của chính sách thương mại
+ Chính sách thị trường
+ Chính sách thị trường
2
Lớp 1008TECO0511 Nhóm : 02
- Quản lý nhà nước về thương mại
+ Chính sách mặt hàng
+ Chính sách phát triển hạ tầng và công nghệ
+ Chính sách phát triển các dịch vụ hỗ trợ kinh doanh
1.1.3 Tầm quan trọng của chính sách thương mại
Chính sách thương mại có vai trò hết sức quan trọng, cụ thể là:
- Chính sách thương mại góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế có hiệu
quả. Chính sách thương mại tích cực là một tác nhân gắn sản xuất với thị trường,
gắn sản xuất trong nước với thị trường thế giới, dẫn dắt sản xuất đi theo tín hiệu
của thị trường từ đó thúc đẩy sự phân bố và sử dụng nguồn lực một cách hợp lý,
hình thành cơ cấu kinh tế có hiệu quả.
- Chính sách thương mại là một nhân tố quan trọng trong việc khai thác tiềm năng
và lợi thế so sánh của từng vùng, từng địa phương và của cả nước để phát triển sản
xuất, mở rộng thị trường trong nước và tham gia vào thị trường thế giới.
- Chính sách thương mại là công cụ hữu hiệu để Nhà nước thực hiện cân bằng cán
cân thanh toán quốc tế, tăng cường thu hút vốn đầu tư để phát triển kinh tế.
- Chính sách thương mại phù hợp sẽ có tác dụng khuyến khích các doanh nghiệp
đầu tư tiến bộ khoa và công nghệ vào sản xuất để nâng cao sức cạnh tranh của
hàng hóa sản xuất trong nước đối với các hàng hóa nhập khẩu từ nước ngoài.
-Chính sách thương mại còn góp phần mở rộng quan hệ hữu nghị, hợp tác với các
nước, nân cao vị thế nước ta trên thế giới, góp phần củng cố hòa bình hữu nghị
giữa các dân tộc…
1.2 Dịch vụ phân phối có yếu tố nước ngoài ở Việt nam
1.2.1 Dịch vụ phân phối
Theo phân loại của WTO, Việt Nam cam kết mở cửa các dịch vụ phân phối
sau:
3
Lớp 1008TECO0511 Nhóm : 02
- Quản lý nhà nước về thương mại
- Dịch vụ đại lý hoa hồng;
- Dịch vụ bán buôn;
- Dịch vụ bán lẻ;
- Dịch vụ nhượng quyền thương mại (dịch vụ này thực chất là một thỏa
thuận theo đó một nhà phân phối được phép sử dụng một hình thức bán lẻ hoặc
một thương hiệu nhất định).
1.2.2 Dịch vụ phân phối có yếu tố nước ngoài
Đối với các sản phẩm mà Việt Nam đã cam kết mở cửa Kể từ ngày gia nhập
(11 tháng 1 năm 2007), các nhà phân phối có vốn đầu tư nước ngoài được quyền
phân phối tất cả các sản phẩm sản xuất tại Việt Nam và các sản phẩm nhập khẩu
hợp pháp vào Việt Nam, ngoại trừ xi măng và clinke; lốp (trừ lốp máy bay); giấy;
máy kéo; phương tiện cơ giới; ô tô con và xe máy; sắt thép; thiết bị nghe nhìn;
rượu và phân bón.
Từ ngày 1 tháng 1 năm 2009, các nhà phân phối có vốn đầu tư nước ngoài sẽ
được phân phối (thông qua dịch vụ đại lý hoa hồng, bán buôn và bán lẻ) máy kéo,
phương tiện cơ giới, ô tô con và xe máy.
Kể từ ngày 11/1/2010, các nhà phân phối có vốn đầu tư nước ngoài sẽ được
phân phối tất cả các sản phẩm sản xuất tại Việt Nam và nhập khẩu hợp pháp vào
Việt Nam.
Ngoài ra, ta cũng cho phép việc bán hàng qua mạng từ nước ngoài vào Việt
Nam, việc bán hàng này liên quan tới việc phân phối qua phương thức 1 (cung cấp
qua biên giới). Việc phân phối qua phương thức này có thể được thực hiện dưới
dạng mua, bán hàng hóa qua mạng hoặc đặt hàng qua thư. Tuy nhiên, đối với
phương thức này, ta chỉ cam kết cho phép các nhà phân phối nước ngoài được bán
các loại hàng hoá sau:
- Các sản phẩm phục vụ nhu cầu cá nhân;
4
Lớp 1008TECO0511 Nhóm : 02
- Quản lý nhà nước về thương mại
- Các chương trình phần mềm máy tính hợp pháp phục vụ nhu cầu cá nhân
hoặc vì mục đích thương mại.
Đối với các sản phẩm khác, việc bán hàng qua mạng sẽ tuân thủ các quy định
hiện hành của pháp luật Việt Nam.
Cam kết của ta trong WTO là phù hợp với định hướng phát triển ngành phân
phối và thậm chí còn chặt hơn thực tiễn mở cửa ngành dịch vụ này ở trong nước.
Trước khi gia nhập WTO, trên thực tế ta đã cho phép các doanh nghiệp phân phối
nước ngoài được thiết lập liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài tại Việt
Nam. Ta đã cho phép một số tập đoàn phân phối lớn thành lập siêu thị 100% vốn
nước ngoài và mở hàng loạt các siêu thị tại các tỉnh, thành phố ở Việt Nam. Tới
cuối năm 2006 trên thị trường Việt Nam đã xuất hiện nhiều tập đoàn phân phối lớn
của thế giới như: Metro Cash & Carry (Đức) với 6 siêu thị hoạt động tại TP.HCM,
Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, Cần Thơ. BigC có các siêu thị đang hoạt động tại
TP.HCM, Hà Nội và Hải Phòng. Tập đoàn bán lẻ Parkson (Malaysia) ở TP.HCM.
Bên cạnh đó, Tập đoàn Dairy Farm (Singapore) cũng nộp đơn xin thành lập công
ty 100% vốn nước ngoài, Lotte (Hàn Quốc) cũng vào VN thông qua hình thức liên
doanh.
1.2.3 Quản lý dịch vụ phân phối có vốn nước ngoài:
Ta đã xây dựng quy định riêng trong lĩnh vực phân phối, đặc biệt chú ý đến
bán lẻ và quy hoạch bán lẻ để tạo khung pháp lý cần thiết, đảm bảo cạnh tranh lành
mạnh và tạo cơ chế hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển kinh doanh trong
lĩnh vực này.
Khi ta gia nhập WTO, các doanh nghiệp phân phối có vốn đầu tư nước ngoài
đã được cấp phép trước đó (kể cả các doanh nghiệp, siêu thị 100% vốn đầu tư nước
ngoài) sẽ tiếp tục được hoạt động với các điều kiện như đã quy định trong giấy
5
Lớp 1008TECO0511 Nhóm : 02
- Quản lý nhà nước về thương mại
phép. Tuy nhiên, các doanh nghiệp thành lập sau khi Việt Nam gia nhập WTO sẽ
phải tuân thủ các cam kết trong WTO đối với dịch vụ phân phối.
Về diện mặt hàng, Việt Nam mở cửa các dịch vụ phân phối cho tất cả các sản
phẩm nhập khẩu hợp pháp vào Việt Nam, trừ các mặt hàng sau đây:
- Thuốc lá và xì gà;
- Sách, báo và tạp chí, vật phẩm đã ghi hình;
- Kim loại quý và đá quý;
- Dược phẩm;
- Thuốc nổ;
- Dầu thô và dầu đã qua chế biến;
- Gạo, đường mía và đường củ cải.
Đối với các sản phẩm trên, Việt Nam có thể dành quyền phân phối cho các
doanh nghiệp trong nước, tức là các doanh nghiệp phân phối có vốn đầu tư nước
ngoài (được thành lập sau khi Việt Nam gia nhập WTO) có thể sẽ không được
quyền phân phối các sản phẩm này. Phạm vi chính xác (theo mã phân loại HS của
biểu thuế quan) của các mặt hàng này được quy định tại Quyết định 10/2007/QĐ-
BTM của Bộ Thương mại.
1.2.4 Thực trạng Việt Nam
Sau hơn 3 năm gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới WTO, Việt Nam đã có
nhiều chuyển biến mạnh mẽ trong lĩnh vực phân phối nói chung và lĩnh vực bán lẻ
nói riêng. Tuy là một thị trường quy mô nhỏ nhưng lại có tốc độ phát triển nhanh,
tiềm năng lớn, chính trị ổn định, cơ cấu dân số trẻ, Việt Nam có sức hấp dẫn mạnh
mẽ đối với các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài. Đến hết năm 2009, Việt Nam
có 446 siêu thị (tăng 62 siêu thị so với năm 2008) trong đó doanh nghiệp FDI có 21
siêu thị, doanh nghiệp trong nước có 425 siêu thị (Doanh thu FDI bán lẻ chỉ chiếm
4-5% doanh thu bản lẻ toàn quốc). Nhiều tập đoàn bán lẻ hàng đầu của nước ngoài
6
Lớp 1008TECO0511 Nhóm : 02
- Quản lý nhà nước về thương mại
như Metro Cash & Carry (Đức), Big C của Bourbon (Pháp), Parkson thuộc tập
đoàn Lion (Malaysia), Diamond Plaza (Hàn Quốc), Lotte (Hàn Quốc)... đã có mặt
ở nước ta. Mức lưu chuyển hàng hóa bán lẻ và dịch vụ của Việt Nam liên tục tăng
cao qua các thời kỳ: 1996-2000: 10,75%/năm, 2001-2005: 18,3%, 2006-2008:
25%. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ xã hội 6 tháng đầu năm
2010 đạt 747,4 nghìn tỷ đồng, tăng 26,7% so với cùng kỳ năm 2009. Đồng thời,
Việt Nam liên tục được xếp thứ hạng cao về chỉ số phát triển kinh doanh bán lẻ
(GRDI). Theo A.T. Kearney (hãng tư vấn Mỹ), năm 2007 Việt Nam xếp thứ 4/7
nước có thị trường bán lẻ hấp dẫn nhất thế giới, năm 2008 vượt lên đứng đầu.
1.3 Các cam kết hội nhập quốc tế
Phạm vi sản phẩm thuộc quyền phân phối
Các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài không được phép phân phối một số loại sản
phẩm tại Việt Nam. Những sản phẩm này có thể phân thành 2 nhóm: sản phẩm hạn
chế dài hạn (with long-term restrictions) và sản phẩm hạn chế theo từng giai đoạn
(with phased-in restrictions).Danh sách các sản phẩm hạn chế dài hạn nêu chi tiết
tại phần cam kết nền (horizontal) của biểu cam kết dịch vụ phân phối với tên gọi
“các biện pháp áp dụng đối với mọi phân ngành trong lĩnh vực dịch vụ phân phối”,
trong đó bao gồm thuốc lá và xì gà, sách, báo và tạp chí, vật phẩm đã ghi hình, kim
loại quý và đá quý, dược phẩm, thuốc nổ, dầu thô và dầu đã qua chế biến, gạo,
đường mía và đường củ cải. Đây là những sản phẩm nhạy cảm mà Chính phủ
không muốn cho phép nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài phân phối tại Việt Nam.
Nhà phân phối nước ngoài cũng không được phép làm đại lý hoa hồng, nhà
bán buôn, bán lẻ hoặc bên nhượng quyền cho tất cả những sản phẩm này. Ngoài ra,
họ không được phép bán những sản phẩm này ở cơ sở bán lẻ tại Việt Nam, chẳng
hạn như liên doanh hoặc doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài, và không
được phân phối những sản phẩm này trực tuyến hoặc bằng bất kỳ hình thức thương
7
Lớp 1008TECO0511 Nhóm : 02
- Quản lý nhà nước về thương mại
mại điện tử nào khác. Danh sách các sản phẩm hạn chế theo từng giai đoạn được
nêu cụ thể ở cột tiếp cận thị trường mà theo đó, nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài,
cụ thể là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài không được phép phân phối
tại Việt Nam trong một giai đoạn nhất định kể từ ngày Việt Nam gia nhập WTO.
Danh sách này bao gồm xi măng và clinke; lốp (trừ lốp máy bay); giấy; máy kéo;
phương tiện cơ giới; ôtô con và xe máy; sắt thép; thiết bị nghe nhìn; rượu; và phân
bón. Tuy nhiên, đến năm 2010 danh sách này sẽ bị bãi bỏ và doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài sẽ được phép phân phối tất cả các loại sản phẩm được sản xuất ở
Việt Nam và nhập khẩu vào Việt Nam (trừ các loại sản phẩm hạn chế dài hạn).
Điều cần lưu ý là danh sách này không áp dụng đối với dịch vụ nhượng quyền,
nghĩa là nhà phân phối nước ngoài có thể cung cấp dịch vụ nhượng quyền đối với
tất cả các sản phẩm hạn chế theo từng giai đoạn.
Phân phối trực tuyến và bằng hình thức thương mại điện tử khác (Phương thức 1)
Việt Nam không cho phép mua bán hàng hóa trực tuyến hoặc bằng bất kỳ hình
thức thương mại điện tử nào khác, ngoại trừ phân phối bằng phương thức điện tử
phục vụ nhu cầu sử dụng cá nhân hoặc phân phối bằng phương thức điện tử đối với
các phần mềm máy tính hợp pháp phục vụ nhu cầu sử dụng cá nhân và vì mục đích
thương mại. Điều này nghĩa là các tổ chức, cá nhân tại Việt Nam có thể mua mọi
loại sản phẩm (trừ các sản phẩm hạn chế dài hạn) trực tuyến hoặc bằng bất kỳ hình
thức thương mại điện tử nào khác phục vụ nhu cầu sử dụng cá nhân chứ không
phải vì mục đích thương mại. Đối với phần mềm máy tính hợp pháp, họ được phép
phân phối để tự sử dụng hoặc vì mục đích thương mại.
Sở hữu vốn của nước ngoài trong dịch vụ phân phối
8
Lớp 1008TECO0511 Nhóm : 02
- Quản lý nhà nước về thương mại
Các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài được phép thành lập liên doanh với vốn góp
không quá 49% ngay khi Việt Nam gia nhập WTO, tức là năm 2007. Kể từ ngày
1/1/2008, mức trần 49% về vốn góp bị bãi bỏ, nghĩa là phần vốn góp của nước
ngoài có thể lên tới 99,99%. Kể từ ngày 1/1/2009, doanh nghiệp 100% vốn đầu tư
nước ngoài được phép thành lập.
Kiểm tra nhu cầu kinh tế (ENT)
Các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài chỉ được phép thành lập một cơ sở bán lẻ tại
Việt Nam. Việc lập cơ sở bán lẻ thứ hai phải được sự phê duyệt của các cơ quan
hữu quan trên cơ sở kiểm tra nhu cầu kinh tế (ENT). Các tiêu chí phê duyệt bao
gồm nhưng không hạn chế ở số lượng nhà cung cấp dịch vụ đang hiện diện trong
một khu vực địa lý, sự ổn định của thị trường và quy mô địa lý. Điều quan trọng
cần lưu ý là các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài nghĩa là các doanh nghiệp 100%
vốn đầu tư nước ngoài, các liên doanh giữa nhà đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp
trong nước, và các doanh nghiệp Việt Nam có góp vốn của các cổ đông nước
ngoài. Trong một số trường hợp các doanh nghiệp 100% vốn trong nước được coi
là doanh nghiệp cung cấp dịch vụ nước ngoài nếu bán cổ phần hoặc cổ phiếu cho
nhà đầu tư nước ngoài. Khi đó họ sẽ là đối tượng của việc kiểm tra nhu cầu kinh tế
mặc dù họ không phải là đối tượng của biện pháp này trước khi bán cổ phiếu cho
nhà đầu tư nước ngoài.
Cuối năm 2007, nước ta chính thức trở thành thành viên WTO. Các cam kết
WTO của Việt Nam, tương tự như cam kết của các nước mới gia nhập khác, nhằm
xóa bỏ sự phân biệt đối xử giữa hàng nội địa và nhập khẩu hoặc giữa đầu tư trong
và ngoài nước và minh bạch hóa.
9
Lớp 1008TECO0511 Nhóm : 02
- Quản lý nhà nước về thương mại
Các lĩnh vực quan trọng nhất mà Việt Nam đã có cam kết gồm mở cửa thị
trường thông qua cắt giảm các hàng rào thuế quan; chính sách giá cả minh bạch,
không phân biệt đối xử và phù hợp với các quy định của WTO; giảm hoặc điều
chỉnh lại thuế xuất khẩu đối với một số hàng hóa; không áp dụng trợ cấp xuất khẩu
đối với nông sản từ thời điểm gia nhập; duy trì hỗ trợ nông nghiệp trong nước ở
mức không quá 10% giá trị sản lượng; bãi bỏ hoàn toàn các loại trợ cấp công
nghiệp bị cấm từ thời điểm gia nhập; các ưu đãi đầu tư đã cấp trước ngày gia nhập
WTO sẽ được bảo lưu trong 5 năm (trừ các ưu đãi xuất khẩu đối với ngành dệt
may); tuân thủ Hiệp định về Các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại
(TRIM) của WTO từ thời điểm gia nhập; áp dụng các loại phí và lệ phí theo quy
định của WTO; tuân thủ Hiệp định về xác định trị giá tính thuế hải quan của WTO
ngay từ khi gia nhập; tuân thủ Hiệp định về kiểm tra trước khi giao hàng cũng như
các Hiệp định có liên quan khác của WTO; duy trì hệ thống thủ tục hải quan thống
nhất, minh bạch, đơn giản và phù hợp với chuẩn mực quốc tế; các DNNN sẽ hoàn
toàn hoạt động theo tiêu chí thương mại, Nhà nước không can thiệp trực tiếp hay
gián tiếp vào hoạt động của DNNN; chấp nhận điều khoản về nền kinh tế phi thị
trường trong thời gian tối đa là 12 năm; tham gia vào một số Hiệp định tự do hóa
theo ngành; cam kết mở cửa thị trường dịch vụ tài chính, dịch vụ bảo hiểm, dịch vụ
kế toán, kiểm toán, dịch vụ thuế.
Các cơ hội thuận lợi chủ yếu là:
- Thứ nhất, có thể tiếp cận được những thị trường rộng lớn hơn với những ưu
đãi thương mại (giảm thuế quan và phi thuế, quy chế MFN, NT, GSP…) để tiêu
thụ sản phẩm, dịch vụ và cung ứng được nguồn nguyên,nhiên liệu, thiết bị với giá
cạnh tranh;
10
Lớp 1008TECO0511 Nhóm : 02
- Quản lý nhà nước về thương mại
- Thứ hai, cơ hội tiếp thu công nghệ mới, phương thức quản lý tiên tiến để
nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh;
- Thứ ba, cơ hội cho việc phát triển quan hệ đối tác với nước ngoài;
- Thứ tư, khả năng tiếp cận tốt hơn các nguồn tài chính, tín dụng đa dạng cả ở
trong lẫn ngoài nước để tăng đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh;
- Thứ năm, thông qua cọ xát, cạnh tranh, học hỏi và tích luỹ kinh nghiệm, tri
thức, rèn luyện nâng cao trình độ, năng lực của đội ngũ nhân lực;
- Thứ sáu, nhìn chung các doanh nghiệp được hưởng nhiều lợi ích quan trọng
từ quá trình tự do hoá và cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh theo hướng thuận
lợi và cạnh tranh bình đẳng hơn.
Các thách thức/rủi ro chính bao gồm:
- Thứ nhất, nguy cơ phá sản hoặc chuyển đổi sản xuất kinh doanh do năng lực
cạnh tranh kém. Nhiều doanh nghiệp của ta phải đối mặt với thách thức nghiêm
trọng này, bởi vì phải cạnh tranh trong điều kiện rất khó khăn cả từ phía bản thân
các doanh nghiệp (quy mô nhỏ, thiếu vốn, công nghệ lạc hậu, quản lý kém, hàng
hoá sản phẩm thiếu sức cạnh tranh…) lẫn từ phía nhà nước (môi trường chính sách
vĩ mô, hệ thống luật pháp, việc thực thi và năng lực của đội ngũ cán bộ còn nhiều
bất cập).
- Thứ hai, phải chịu nhiều phí tổn hơn về giao dịch, tư vấn, tiếp thị, quảng cáo,
đào tạo…
11
Lớp 1008TECO0511 Nhóm : 02
- Quản lý nhà nước về thương mại
- Thứ ba, có nhiều rủi ro khi hoạt động trên thị trường nước ngoài, nhất là trong
điều kiện không hiểu rõ chính sách, luật lệ, thủ tục và cách thức làm ăn tại thị
trường đó và các đối tác nước ngoài (khả năng bị lừa đảo, xử bất lợi trong các vụ
tranh chấp…).
Tóm lại, HNKTQT là cần thiết và tất yếu để phát triển trong một thế giới toàn
cầu hoá. Đây là một quá trình đan xen của những cơ hội và thách thức. Các doanh
nghiệp cần nhận thức rõ về quá trình này, nắm bắt kỹ các cam kết và lộ trình hội
nhập của ta để chuẩn bị vào cuộc một cách chủ động
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG
2.1 Quá trình hội nhập thương mại, quản lý dịch vụ phân phối có yếu tố nước
ngoài ở Việt Nam
2.1.2 Quá trình hội nhập thương mại
Hoạt động của các doanh nghiệp trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế
(HNKTQT) luôn luôn là một chủ đề nóng hổi bởi vì trước hết các doanh nghiệp là
nền tảng của nền kinh tế quốc gia và tiến trình HNKTQT trực tiếp tác động đến
hoạt động của các doanh nghiệp. Việc nắm vững các cam kết hội nhập hiện nay
của ta và nhìn thấy trước triển vọng của tiến trình này trong tương lai có ý nghĩa
quan trọng đối với các doanh nghiệp, bởi vì nó là cơ sở để các doanh nghiệp định
hướng chiến lược phát triển và kế hoạch hoạt động phù hợp với tình hình đan xen
giữa những cơ hội và thách thức, đặc biệt là sự cạnh canh ngày càng tăng từ nhiều
phía và ngay cả trên thị trường trong nước.
Có thể nói HNKTQT của Việt Nam thực sự bắt đầu cùng với sự nghiệp đổi mới
được Đại hội Đảng lần thứ 6 khởi xướng. Đây là quá trình từng bước tiến hành tự
12
Lớp 1008TECO0511 Nhóm : 02
- Quản lý nhà nước về thương mại
do hoá các hoạt động kinh tế, mở cửa thị trường và tham gia vào các tổ chức/thể
chế kinh tế khu vực và thế giới. Điều này có nghĩa là chúng ta từng bước tháo gỡ
những trói buộc và cản trở đối với các hoạt động sản xuất kinh doanh, xây dựng cơ
chế kinh tế mới dựa trên những nguyên tắc của thị trường có định hướng XHCN,
mở cửa và tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài vào làm ăn, giảm và đi đến
xoá bỏ các hàng rào thuế quan và phi quan thuế và các rào cản khác để việc trao
đổi hàng hoá, dịch vụ, vốn, công nghệ, nhân công… giữa Việt Nam và các nước
được dễ dàng, phù hợp với những quy định của các tổ chức/thể chế kinh tế khu vực
và thế giới mà Việt Nam tham gia.
Đồng thời việc đổi mới kinh tế trong nước, mở rộng và phát triển quan hệ kinh tế-
thương mại với các nước (đến nay, nước ta đã ký kết trên 70 hiệp định thương mại
song phương, trong đó đáng chú ý nhất và toàn diện nhất là Hiệp định Thương mại
Việt-Mỹ ký năm 2001), Việt Nam đã lần lượt tham gia vào nhiều tổ chức kinh tế,
thương mại quốc tế.
- Bước phát triển có tính đột phá của quá trình này là việc chúng ta chính thức gia
nhập ASEAN ngày 25/7/1995 và tham gia Khu vực Thương mại Tự do ASEAN
(AFTA) từ 1/1/1996. Từ đó đến nay, Việt Nam cũng lần lượt cùng các nước
ASEAN tham gia vào các cơ chế liên kết ASEAN trong các lĩnh vực dịch vụ, đầu
tư, sở hữu trí tuệ, công nghệ thông tin…
- Tháng 11/1998, Việt Nam trở thành thành viên chính thức của Diễn đàn Hợp tác
kinh tế Châu Á-Thái Bình Dương (APEC) – khối kinh tế khu vực lớn nhất thế giới,
chiếm hơn 80% kim ngạch buôn bán, gần 2/3 đầu tư và hơn 50% viện trợ nước
ngoài (ODA) của Việt Nam.
13
Lớp 1008TECO0511 Nhóm : 02
- Quản lý nhà nước về thương mại
- Tháng 12/1994, Việt Nam gửi đơn xin gia nhập tổ chức Hiệp định chung về
Thương mại và Thuế quan (GATT), tiền thân của Tổ chức Thương mại Thế giới
(WTO) và năm 1995 đã chính thức xin gia nhập WTO- một tổ chức thương mại
toàn cầu với 145 thành viên, hiện kiểm soát trên 90% tổng giá trị giao dịch thương
mại của thế giới. Cho đến nay, ta đã tiến hành nhiều bước chuẩn bị theo yêu cầu
của WTO, họp 5 phiên với Nhóm Công tác về việc Việt Nam gia nhập WTO, hoàn
thành giai đoạn diễn giải, minh bạch hoá chế độ thương mại của ta. Chúng ta đã
chuyển Ban thư ký WTO bản chào ban đầu về thuế quan và dịch vụ và bắt đầu tiến
hành giai đoạn đàm phán thực chất về mở cửa thị trường với các nước thành viên
WTO.
- Từ đầu năm 2002, chúng ta cùng các nước ASEAN tiến hành đàm phán với
Trung Quốc về thành lập Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc. Đầu tháng
11/2002 vừa qua, các nước ASEAN và Trung Quốc đã ký kết Hiệp định khung về
Hợp tác kinh tế hai bên, trong đó quy định những nguyên tác cơ bản của Khu vực
mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc sẽ hoàn thành vào năm 2010 đối với Trung
quốc và ASEAN-6, năm 2015 đối với ASEAN-4. Bắt đầu từ năm 2003, hai bên sẽ
đàm phán cụ thể hoá các nguyên tắc trên thành các quy định để thực hiện Khu vực
mậu dịch tự do này.
- Tháng 9/2002, tại Brunei, các nước ASEAN và CER (úc và Niudilân) đã ký
Tuyên bố chung thiết lập Đối tác kinh tế gần gũi (CEP) giữa hai bên. Các nhà đàm
phán của các nước ASEAN và CER sẽ tiếp tục đàm phán cụ thể hoá các cam kết
của đối tác kinh tế gần gũi này trong thời gian tới.
- Với Nhật, tại Hội nghị cấp cao ASEAN-Nhật ở Cămpuchia đầu tháng 11/2002,
các nhà lãnh đạo ASEAN và Nhật đã nhất trí thiết lập Đối tác kinh tế toàn diện,
14
Lớp 1008TECO0511 Nhóm : 02
- Quản lý nhà nước về thương mại
trong đó bao gồm cả một Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Nhật, dự kiến sẽ được
thành lập sớm, có thể là trước cả Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc.
- Với Mỹ, vừa qua tại Hội nghị cấp cao APEC ở Mêhicô (tháng 10/2002), Tổng
thống Mỹ đã đưa ra “Sáng kiến vì sự năng động ASEAN” nhằm thắt chặt quan hệ
hợp tác giữa Mỹ và ASEAN thông qua việc từng bước ký các hiệp định thương
mại tự do song phương với từng nước ASEAN.
- Bên cạnh việc tham gia liên kết kinh tế song phương và đa phương như đã nêu
trên, trong những năm qua, Việt Nam cũng đồng thời tham gia vào các liên kết
kinh tế tiểu vùng như Lưu vực Mêkông mở rộng (GMS), Hành lang Đông Tây
(WEC), Tam giác phát triển Việt Nam-Lào-Cămpuchia…
Như vậy, HNKTQT của Việt Nam là một tiến trình từng bước từ thấp đến cao diễn
ra trên cả phương diện đơn phương, song phương và đa phương, lồng gép các
phạm vi tiểu vùng, khu vực, liên khu vực và toàn cầu, diễn ra trên hầu hết các lĩnh
vực gồm hàng hoá, dịch vụ, đầu tư, sở hữu trí tuệ…
2.1.2 Quá trình quản lý dịch vụ phân phối có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam
Kể từ khi Việt Nam chính thức gia nhập WTO đầu năm 2007, Chính phủ Việt Nam
đã ban hành một số các văn bản pháp lý mới về dịch vụ phân phối để thực hiện các
cam kết WTO, cụ thể là:
Nghị định 23/2007/NĐ-CP ngày 12/2/2007 quy định chi tiết Luật Thương mại về
hoạt động mua bán hàng hoá và các hoạt động liên quan trực tiếp đến mua bán
hàng hoá của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Nghị định
cũng đề ra các điều kiện để các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại
Việt Nam (FDI) được cấp giấy phép kinh doanh mua bán hàng hóa và các hoạt
15
Lớp 1008TECO0511 Nhóm : 02
- Quản lý nhà nước về thương mại
động liên quan tại Việt Nam. Ngoài ra, Nghị định cũng quy định rõ thẩm quyền
cấp giấy phép kinh doanh và các thủ tục xin cấp phép liên quan.
Quyết định 10/2007/QĐ-BTM ngày 21/5/2007 công bố lộ trình thực hiện các cam
kết WTO về hoạt động mua bán hàng hoá và các hoạt động liên quan trực tiếp đến
mua bán hàng hoá.
Quyết định này đơn giản chỉ khẳng định các cam kết của Việt Nam về quyền
thương mại, dịch vụ phân phối và một số dịch vụ kinh doanh khác như quảng cáo,
kiểm tra thương mại.
Thông tư 09/2007/TT-BTM ngày 17/7/2007 hướng dẫn thực hiện Nghị định
23/NĐ-CP. Thông tư khẳng định thương nhân nước ngoài có quyền đầu tư để thực
hiện hoạt động liên quan đến mua bán hàng hoá và chỉ rõ mối quan hệ giữa các văn
bản pháp luật điều chỉnh hoạt động này.
Thông tư nêu rõ các nhà đầu tư nước ngoài hoặc doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài tại Việt Nam đáp ứng các điều kiện quy định tại Nghị định 23/2007/NĐ-CP
có quyền đầu tư để thực hiện hoạt động mua bán hàng hoá và các hoạt động liên
quan trực tiếp đến mua bán hàng hoá theo các hình thức và lộ trình quy định tại
Quyết định 10/QĐ-BTM.
Thông tư 05/2008/TT-BCT ngày 14/4/2008 sửa đổi và bổ sung Thông tư
09/2007/TT-BTM của Bộ Thương mại. Thông tư này sửa đổi, bổ sung một số
Khoản của Thông tư 09 như quyền nhập khẩu hàng hóa, sửa đổi và bổ sung giấy
phép lập cơ sở bán lẻ và cơ chế báo cáo.
2.2 Cơ chế chính sách quản lý nhà nước về thương mại của nước ta hiện nay.
16
Lớp 1008TECO0511 Nhóm : 02
- Quản lý nhà nước về thương mại
Sau hơn ba năm nước ta gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) và hơn
một năm mở cửa hoàn toàn thị trường bán lẻ, lĩnh vực phân phối nói chung và lĩnh
vực bán lẻ nói riêng đã và đang có những bước chuyển mình mạnh mẽ.
Dịch vụ phân phối ở Việt Nam đã có đủ loại các loại hình: bán buôn, bán lẻ,
đại lý và nhượng quyền với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế: Nhà nước,
tập thể, tư nhân và đầu tư nước ngoài (50 tập đoàn và công ty phân phối lớn đã có
mặt tại Việt Nam). Hệ thống phân phối hiện đại chiếm 19,4%, tuy còn thấp hơn
các nước trong khu vực nhưng chiếm tỷ trọng cao nhất và có tốc độ tăng trưởng
nhanh nhất trong số các mô hình phân phối ở Việt Nam.
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của thị trường phân phối, chính phủ Việt Nam
đã sửa đổi và ban hành mới nhiều chính sách và hệ thống văn bản quy phạm pháp
luật để điều chỉnh ngành dịch vụ phân phối.
Theo số liệu thống kê tại thời điểm cuối năm 2006 thì hàng hoá đến người
tiêu dùng chủ yếu vẫn qua hệ thống chợ (khoảng 40%) và qua hệ thống các cửa
hàng bán lẻ độc lập, cửa hàng truyền thống (khoảng 44%), qua hệ thống phân phối
hiện đại mới chỉ chiếm khoảng 10%, 6% là do nhà sản xuất trực tiếp bán thẳng.
Theo số liệu thống kê, đến hết năm 2009, Việt Nam có 446 siêu thị (tăng 62
siêu thị so với năm 2008) trong đó doanh nghiệp FDI có 31 siêu thị, doanh nghiệp
trong nước có 425 siêu thị (Doanh thu FDI bán lẻ chỉ chiếm 4-5% doanh thu bản lẻ
toàn quốc). Nhiều tập đoàn bán lẻ hàng đầu của nước ngoài như Metro Cash &
Carry (Đức), Big C của Bourbon (Pháp), Parkson thuộc tập đoàn Lion (Malaysia),
Diamond Plaza (Hàn Quốc), Lotte (Hàn Quốc)... cũng đã có mặt ở nước ta.
Nhờ sự phát triển này nên tổng mức lưu chuyển hàng hóa bán lẻ và dịch vụ
của Việt Nam liên tục tăng cao qua các thời kỳ, nếu giai đoạn 1996-2000 tăng
17
Lớp 1008TECO0511 Nhóm : 02
- Quản lý nhà nước về thương mại
10,75%/năm thì đến giai đoạn 2006-2008 tỷ lệ tăng trưởng là 25%. Chỉ trong 6
tháng đầu năm 2010, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ xã hội đã đạt
747,4 nghìn tỷ đồng, tăng 26,7% so với cùng kỳ năm 2009.
Với việc mở cửa hội nhập, với sự phát triển nhanh chóng của thị trường phân
phối, bán lẻ, đặc biệt với những chính sách ưu đãi, thu hút đầu tư vào lĩnh vực này,
nên liên tục trong nhiều năm, Việt Nam được xếp thứ hạng cao về chỉ số phát triển
kinh doanh bán lẻ (GRDI). Cụ thể, theo A.T. Kearney - hãng tư vấn Mỹ - thì năm
2007 Việt Nam xếp thứ 4/7 nước có thị trường bán lẻ hấp dẫn nhất thế giới, năm
2008 vươn lên đứng đầu.
Có thể nói chưa bao giờ hoạt động phân phối, đặc biệt là hoạt động bán lẻ trên thị
trường Việt Nam lại sôi động và phát triển như hiện nay, mở ra nhiều cơ hội mới
cho cả doanh nghiệp trong nước, nước ngoài và người tiêu dùng trong nước. Tuy
nhiên, ở một khía cạnh khác, việc mở cửa thị trường phân phối cũng sẽ tạo áp lực
rất lớn đến các nhà sản xuất (bao gồm cả những hộ nông dân) và nhất là các nhà
phân phối trong nước.
Đã có nhiều ý kiến cảnh bảo về nguy cơ khu vực phân phối bán lẻ bị lấn át
bởi các nhà đầu tư nước ngoài có thể lan rộng sang cả lĩnh vực bán buôn, từ đó gây
ảnh hưởng đến sự đảm bảo cân đối ổn định vĩ mô chung của toàn bộ mạng lưới sản
xuất của nền kinh tế.
Theo phân loại của WTO, ta đã cam kết mở cửa các dịch vụ phân phối sau
khi gia nhập WTO: dịch vụ đại lý hoa hồng, dịch vụ bán lẻ, dịch vụ bán buôn, dịch
vụ nhượng quyền thương mại.
Về hình thức hiện diện, ngay khi gia nhập WTO ta cam kết cho phép các nhà
phân phối nước ngoài được lập liên doanh với đối tác Việt Nam để cung cấp dịch
18
Lớp 1008TECO0511 Nhóm : 02
- Quản lý nhà nước về thương mại
vụ phân phối nhưng tỷ lệ vốn góp của phía nước ngoài không được vượt quá 49%,
kể từ ngày 1/1/2008, hạn chế 49% vốn góp sẽ được bãi bỏ. Kể từ ngày 1/1/2009, ta
cho phép lập doanh nghiệp phân phối 100% vốn nước ngoài tại Việt Nam. Ngoài
ra, đối với dịch vụ nhượng quyền thương mại, từ ngày 11/01/2007, các nhà đầu tư
nước ngoài có thể lập chi nhánh để cung cấp dịch vụ này. Tuy nhiên, trưởng chi
nhánh phải là người thường trú tại Việt Nam.
Tuy nhiên, Việt Nam hạn chế khả năng mở thêm điểm bán lẻ của doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thông qua việc kiểm tra nhu cầu kinh tế (ENT).
Các doanh nghiệp bán lẻ có vốn đầu tư nước ngoài muốn lập cơ sở bán lẻ ngoài cơ
sở bán lẻ thứ nhất sẽ được các cơ quan quản lý xem xét nhu cầu kinh tế. Tuy nhiên,
theo Thông tư 09/2007/TT-BTM (hướng dẫn thi hành Nghị định số 23/2007/NĐ-
CP ngày 12/2/2007 quy định chi tiết Luật Thương mại về hoạt động mua bán hàng
hóa và các hoạt động liên quan trực tiếp đến mua bán hàng hóa của doanh nghiệp
FDI tại Việt Nam) các tiêu chí để xem xét cho phép lập cơ sở bán lẻ ngoài cơ sở
bán lẻ thứ nhất bao gồm: số lượng các cơ sở bán lẻ đã có tại khu vực địa lý liên
quan; sự ổn định của thị trường; mật độ dân cư trên địa bàn tỉnh, thành phố nơi xin
phép đặt cơ sở bán lẻ; sự phù hợp của dự án đầu tư với quy hoạch của tỉnh, thành
phố đó.
Về diện mặt hàng, Việt Nam mở cửa các dịch vụ phân phối cho tất cả các sản
phẩm nhập khẩu hợp pháp vào Việt Nam, trừ các mặt hàng sau đây: thuốc lá và xì
gà; sách, báo, tạp chí, vật phẩm đã ghi hình; kim loại quý và đá quý; dược phẩm;
thuốc nổ; dầu thô và dầu đã qua chế biến; gạo, đường mía và đường củ cải.
Đối với các sản phẩm trên, Việt Nam có thể dành quyền phân phối cho các
doanh nghiệp trong nước, tức là các doanh nghiệp phân phối có vốn đầu tư nước
ngoài (được thành lập sau khi Việt Nam gia nhập WTO) có thể sẽ không được
19
Lớp 1008TECO0511 Nhóm : 02
- Quản lý nhà nước về thương mại
quyền phân phối các sản phẩm này. Phạm vi chính xác (theo mã phân loại HS của
biểu thuế quan) của các mặt hàng này được quy định tại Quyết định 10/2007/QĐ-
BTM của Bộ Thương mại
Đối với các sản phẩm mà Việt Nam đã cam kết mở cửa kể từ ngày gia nhập
(11 tháng 1 năm 2007), các nhà phân phối có vốn đầu tư nước ngoài được quyền
phân phối tất cả các sản phẩm sản xuất tại Việt Nam và các sản phẩm nhập khẩu
hợp pháp vào Việt Nam, ngoại trừ xi măng và clinke; lốp (trừ lốp máy bay); giấy;
máy kéo; phương tiện cơ giới; ô tô con và xe máy; sắt thép; thiết bị nghe nhìn;
rượu và phân bón.
Từ ngày 1 tháng 1 năm 2009, các nhà phân phối có vốn đầu tư nước ngoài sẽ
được phân phối (thông qua dịch vụ đại lý hoa hồng, bán buôn và bán lẻ) máy kéo,
phương tiện cơ giới, ô tô con và xe máy.
Kể từ ngày 11/1/2010, các nhà phân phối có vốn đầu tư nước ngoài sẽ được
phân phối tất cả các sản phẩm sản xuất tại Việt Nam và nhập khẩu hợp pháp vào
Việt Nam.
Ngoài ra, ta cũng cho phép việc bán hàng qua mạng từ nước ngoài vào Việt
Nam, việc bán hàng này liên quan tới việc phân phối qua phương thức 1 (cung cấp
qua biên giới). Việc phân phối qua phương thức này có thể được thực hiện dưới
dạng mua, bán hàng hóa qua mạng hoặc đặt hàng qua thư. Tuy nhiên, đối với
phương thức này, ta chỉ cam kết cho phép các nhà phân phối nước ngoài được bán
các loại hàng hoá sau: Các sản phẩm phục vụ nhu cầu cá nhân; các chương trình
phần mềm máy tính hợp pháp phục vụ nhu cầu cá nhân hoặc vì mục đích thương
mại; các sản phẩm khác thì việc bán hàng qua mạng sẽ tuân thủ các quy định hiện
hành của pháp luật Việt Nam.
20
Lớp 1008TECO0511 Nhóm : 02
nguon tai.lieu . vn