Xem mẫu

  1. Phần A: mở đầu Đạo Phật là một trong những học thuyết Triết học - tôn giáo lớn nhất trên th ế giới, tồn tại rất lâu đ ời. Hệ thống giáo lý của nó rất đồ sộ và số lượng phật tử đông đảo được phân bố rộng khắp. Đạo phật được truyền bá vào nước ta khoảng th ế k ỷ II sau công nguyên và đ ã nhanh chóng trở th ành m ột tôn giáo có ảnh hư ởng sâu sắc đến đời sống tinh thần của con người Việt Nam, b ên cạnhđó đ ạo Nho, đ ạo Lão, đ ạo Thiên chúa. Tu ỳ từng giai đoạn lịch sử dân tộc ta đ ều có một học thuyết tư tưởng hoặc một tôn giáo nắm vai trò chủ đ ạo, có tác động mạnh nhất đ ến nếp sống, thói quen, suy nghĩ của con người, nh ư Ph ật giáo ở thế kỷ thứ X - XIV, Nho giáo thế kỷ thứ XV - XIX, học thuyết Mác - Lênin từ giữa thập kỷ 40 của thế kỷ XX cho đến nay. Tuy nhiên, những học thuyết n ày không được ở vị trí độc tôn mà song song tồn tại với nó vẫn có các học thuyết, tôn giáo khác tác động vào các hu vực khác nhau của đời sống xã hội, đồng thời cũng tác động trở lại các học thuyết chủ đ ạo. Ngày nay dù đã trải qua các cuộc cách mạng xã hội và các cuộc cách m ạng trong hệ ý thức, tình hình vẫn như vậy. Trong công cuộc xây dựng đất nước quá độ lên CNXH, chủ nghĩa Mác - Lênin là tư tưởng chủ đ ạo, là vũ khí lý luận của chúng ta nhưng bên cạnh đó, bộ phận kiến trúc thượng tầng của xã hội cũ vẫn có sức sống dai dẳng, trong đó giáo lý nhà Phật đ ã ít nhiều in sâu vào tư tưởng tình cảm của một số bộ phận lớn dân cư Việt Nam. Việc xoá bỏ hoàn toàn ảng hưởng của nó là không thể thực hiện được n ên chúng ta cần vận dụng nó một cách hợp lý để góp phần đạt được mục đích của thời kỳ quá độ cũng như sau này. Vi vậy, vịc nghiên cứu lịch sử, giáo lý, và sự tác động của đ ạo Phật đối với thế giới quan, nhân sinh quan của con người là h ết sức cần thiết. Việc đi sâu nghiên cứu, đ ánh giá những mặt hạn chế cũng như tiến bộ, nhân đ ạo 1
  2. của Phật giáo giúp ta hiểu rõ tâm lý người dân hơn và qua đó tìm ra được một phương cách để hướng đ ạo cho họ một nhân cách chính, đúng đắn. Theo đạo để làm đ iều thiện, tránh cái ác, hình thành nhân cách con người tốt hơn chứ không trở n ên mê tín d ị đoan, cúng bái, lên đồng, gây ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ, niềm tin của quần chúng nhân dân.. Lĩnh vực nghiên cứu Phật giáo hiện nay tương đối được mở rộng, ngoài việc n ghiên cứu giáo lý, kinh điển, lịch sử ... của Phật giáo ra còn đề cập đến các lĩnh vực Triết học, Sử học, Tâm lý học, Khảo cổ học, Xã hội học, Dân tộc học, Văn học, Nghệ thuật ... Phật học đ ã trở thành một trong những khoa học tương đối quan trọng trong khoa học xã hội, trước mắt có quan hệ mật thiết với xã hội học. Hơn nữa quá trình, Ph ật giáo phát triển, truyền bá ở Việt Nam gắn liền với quá trình hình thành, phát triển tư tưởng, đ ạo đức của con người. Vì vậy khi nghiên cứu lịch sử, tư tư ởng, đạo đức Việt Nam không thể không đề cập đến Phật giáo và những mối quan hệ, tác động qua lại giữa chúng. Tóm lại, nghiên cứu Phật giáo và ảnh hưởng của nó đ ến xã hội và con người Việt Nam là một nội dung quan trọng nhằm tìm hiểu lịch sử cũng như định hướng cho sự phát triển nhân cách, tư duy con người Việt Nam trong tương lai. Phần B: Nội dung I. Khái quát về Phật giáo 1 .1 Nguồn gốc ra đời Đạo Phật mang tên người sáng lập là Đà ( hay buddha ). Đạo phật chính là giáo lý m à Phật Đà đ ã thuyết giảng. Sau khi ra đời ở ấn Độ vào thế kỷ thứ 9 đ ến thế kỷ thứ 6 trước Công nguyên, đạo Phật được lưu h ành rộng rãi ở các quốc gia trong khu vực á - Phi, gần đ ây được truyền tới các n ước Âu - Mỹ. Trong quá trình truyền bá 2
  3. của minh, đạo Phật đ • kết hợp với tín ngưỡng, tập tục, dân gian, văn hoá bản địa để h ình thành rất nhiều tông phái và học phái, có tác động vô cùng quan trọng với đời sống x• hội và văn hoá của rất nhiều quốc gia. Buddha vốn là một thái tử tên là Tất Đạt Đa ( Siddharta), con trai của Trịnh Phạn Vương ( Suđhodana) vua nước Trịnh Phạn, một nước nhỏ thuộc Bắc ấn Độ ( nay thuộc đất Nê Pan ) ông sinh ra vào khoảng năm 623 trước công nguyên. Cuộc đời của Phật Thích Ca đ ược kể lại ở trong truyền thuyết như sau: “ Vào một đêm Mahamaia, người vợ chính của Suđhodana, Vua của người Saia m ơ thấy mình được đưa tới hồ thiêng Anavatápta ở Himalaya. Sau khi các thiên th ần tắm rửa cho b à ở trong hồ thiêng, thì có một con voi trắng khổng lồ có đoá hoa sen ở vòi bước tới và chui vào sườn b à. Ngày hôm sau các nhà thông thái được vời tới đ ể giải m ơ của Hoàng h ậu. Các nhà thông thái cho rằng giấc mơ là đ iềm Hoàng h ậu đang có mang và sẽ sinh hạ được một Hoàng tử tuyệt vời, người sau n ày sẽ trở thành vị chúa tể của thế giới hoặc ngư ời thầy của thế giới. Đến ngày, đ ến tháng, Ho àng hậu Mahamaia trở về nhà cha mình để sinh con. Thế nh ưng vừa đ ến khu vườn Lumbini, cách thủ đô Capilavastu của người Sakia không xa, Hoàng h ậu trở dạ và vị Hoàng tử đ• ra đời. Vừa ra đời, vị Ho àng tử tí hon đ• đứng ngay d ậy, đi b ảy bước và nói: “ Đây là kiếp cuối cùng của ta, từ nay ta không phải luôn hồi một kiếp nào nữa!”. Đến ngày thứ n ăm một nghi thức trọng thể được tổ chức và Hoàng tử được đặt tên là Siđhartha. Để ngăn cản Hoàng tử không nghĩ tới việc tu hành, đức vua cha đ• tìm mọi cách tạo ra quanh người con trai m ình một cuộc sống vương giả. Hoàng tử được học mọi kiến thức để sau này trở thành một vị vua tài ba anh minh trị vì một đ ất nước ấn Độ bao la. Thế rồi, nhà vua và quần thần đ• kén cho Hoàng tử một 3
  4. n gười vợ kiều diễm. Nhưng cuộc đời vương giả không cán dỗ được Ho àng tử trẻ tuổi. Bốn sự việc do các thần tạo ra đ • làm thay đổi hẳn cuộc đ ời Ho àng tử Siddhartha. Đó là một lần khi đ ang dạo chơi trong vườn, Hoàng tử thấy một ông già gày còm, ốm yếu rồi nhận ra một điều rằng mọi người rồi ai cũng phải già yếu như th ế. ít lâu sau Ho àng tử lại được chứng kiến người ốm và người chết. Ba hoàn cảnh trên làm cho Hoàng tử b ăn khoăn, lo nghĩ về kiếp người và mu ốn cứu con n gười khỏi những trầm luôn đau khổ của kiếp luôn hồi: Sinh, l•o, bệnh, tử chính sự việc thứ tư đ • đem đ ến cho Hoàng tử niềm hi vọng và an ủ i. Lần đó, Hoàng tử nhìn th ấy một vị h ành khất dáng vẻ bần hàn nhưng lại ung dung tự tại. Vừa nhìn thấy vị h ành kh ất Hoàng tử như bừng tỉnh và quyết định sẽ ra đi trở thành nhà hành khất như th ế. Được tin, đức vua Suddhôđana tìm mọi cách ngăn cản Ho àng tử. Thế nhưng Hoàng tử không thể nào xua đ i được bốn sự kiện mà mình đ• chứng kiến khiến lòng dạ của Hoàng tử không lúc nào được thanh thản. Ngay cả tin mừng công chúa Yashôdhara sinh cho chàng một Hoàng nam cũng không làm cho Hoàng tử Sidhartha vui. Ngày đ êm khi đứa con ra đ ời, khi mọi người ngủ say, Hoàng tử lặng lẽ đến nh ìn vợ và con lần cuối rối đánh thức người đánh xe dậy cùng minh cưỡi con ngựa Canthaca yêu quý rời khỏi cung. Khi đ• rời khỏi đô thành Hoàng tử trút bộ áo Hoàng tộc và m ặc lên người bộ quần áo thường dân. Hoàng tử dùng kiếm cắt bộ tóc d ài của mình và nhờ người đánh xe mang mớ tóc và quần áo về trao lại cho đức vua. Còn con ngựa Canthana vì đau khổ phải chia tay với ông chủ của nó n ên đ • lăn ra chết ngay tại chỗ. Rời ho àng cung, dứt áo ra đi, Hoàng tử Sidhartha đ• trở thành nhà tu hành. 4
  5. Thoạt đầu, Hoàng tử đi lang thang đ ây đó, sống theo kiểu khổ hạnh. Sau đó, ngài vào rừng tu. Nh à hiền triết Alara Calama dạy cho chàng các phép thiền định và những triết lý của upanishad. Học thuyết và thực h ành giải thoát cá nhân của Upanishad không hấp dẫn Ho àng tử. Ch àng đi tiếp và nhập vào nhóm năm người tu khổ hạnh. Suốt sáu năm trường ép xác Hoàng tử gần như chỉ còn bộ xương khô m à vẫn chưa tìm ra chân lý của sự giải thoát. Ngài bèn bỏ cuộc sống tu hành khổ h ạnh và trở lại ăn uống b ình thường. Khi Hoàng tử Sidhartha 35 tuổi, một hôm ngài đ ến ngồi dưới gốc cây bồ đề ở n goại vi th ành phố Gaia thuộc vùng đ ất của vua Bimbisura, vua nước Magadha. Cho đến một hôm có nàng Sudjata, con gái của một nông dân trong vùng đem cho n gài một bát cơm to nấu b ằng sữa. Ăn xong, ngài xuống sông tắm rửa, rồi trở lại gốc cây bồ đề. Ngài ngồi thiền đ ịnh và nguyện sẽ không đứng dậy nếu không tìm ra sự giải thoát về điều bí ẩn của sự đau khổ. Và Hoàng tử đ• ngồi dưới gốc cây bồ đ ề suốt 49 ngày đêm. Bảy tuần lễ đó là cả một chuỗi ngày đ ầy thử thách. Để phá sự thiền đ ịnh của Ho àng tử, con quỹ dữ Mara tìm mọi cách làm chàng nản chí. Thoạt đầu, quỷ Mara biến thành một sứ giả đến báo cho Ho àng tử một tin bịa đặt là em trai Hoàng tử là Đevađatta nổi loạn, bắt nhốt đức vua ch a vào ngục và chiếm n àng Yashodrara làm vợ. Thế nhưng tin dữ đó không làm cho Hoàng tử bận tâm. Mara bèn cho gọi các quỷ dữ tới làm ra mư a to, gió lớn gây ra đ ộng đất, lụt lội nhưng Hoàng tử vẫn ngồi bình th ản dưới gốc cây bồ đề, cảm phục trước ý chí kiên đ ịnh của Ho àng tử, rắn thần Naga dùng thân làm tán cho mưa gió cho Hoàng tử n gồi. Thấy thế quỷ dữ Mara bèn dùng biện pháp quyết liệt và tinh tế hơn để công phá vào thành trì kiên định của Ho àng tử Sidhartha. Nó cho gọi ba cô con gái xinh đ ẹp của m ình là các n àng Khát vọng, khoái lạc và Dục vọng tới múa nhảy mê ho ặc 5
  6. nhà tu hành trẻ tuổi. Thế nhưng biện pháp cuối cùng của quỷ Mara cũng thất bại và lũ quỷ phải dời khỏi gốc cây bồ đề. Rạng sáng ngày 49, Siddhartha đ• tìm ra bí mật của sự đ au khổ, đ• tìm ra được vì sao thế giới lại tràn đầy khổ đau và đ• tìm ra được cách đ ể chiến thắng sự đau khổ. Siddhartha đ• hoàn toàn giác ngộ và trở thành Buddha (Đấng giác ngộ). Sau khi giác ngộ Đức phật còn ngồi tiếp bảy ngày nữa d ưới cây bồ đề suy ngẫm về những chân lý diệu kỳ mà mình đ• khám phá. Ngài phân vân không biết có nên phổ biến đạo pháp của m ình cho thế giới không vì có huyền diệu quá khó hiểu quá đối với mọi người. Chính thượng đ ế Brahma phải giáng trần để khích lệ Đức phật truyền bá đạo pháp của mình cho th ế gian. Chỉ khi đó Phật mới dời khỏi gốc cây bồ đề đi đến khu vườn Lộc Uyển gần Varanasi đ ể giảng bài thuyết pháp đầu tiên cho năm người bạn tu khổ hạnh của m ình. Sự kiện này được ghi chép lại như một sự kiện quan trọng nhất của Đạo phật và đ ược gọi là Phật quay b ánh xe Đạo pháp ( chuyển Pháp Luân ). Giáo pháp mới của Đạ phật đ • gây ấn tượng mạnh đối với n ăm nhà tu, họ nhanh chóng trở thành những môn đồ đ ầu tiên của Đức Phật. Vài ngày sau số môn đồ của Phật đ• tăng lên 60 người, theo thời gian số môn đ ồ Đạo Phật ngày càng tăng và các tổ chức tăng gia đ • ra đ ời. Đến năm 80 tuổi, biết mình tuổi cao, sức yếu, Đức Phật cùng các môn đồ trở về chân núi Hymalaya nơi ngài sinh ra và lớn lên. Trên đ ường Phật đ• chuẩn bị mọi thứ cho các môn đồ để họ có thể tự lập được sau khi ngàu viên tịch. Và, tại một nơi thuộc ngoại vi thành phố Cusinagara, Phật đ • ra đ i. Câu nói cuối cùng của Phật là: “ Hỡi các tì kheo tất cả những gì đ ang tồn tại rồi sẽ qua đi. Vậy các ngư ời càng không nên ngừng gắng sức!”. 1.2 Nội dung chủ yếu của tư tưởng triết học Phật giáo. 6
  7. Tư tưởng triết lý Phật giáo được tập trung trong một khối lượng kinh điển rất lớn, được tổ chức thành ba bộ kinh lớn gọi là tam tạng gồm: - Tạng Luận: Gồm to àn bộ những giới luật của Phật giáo qui định cho cả năm bộ phái Phật giáo như : “ Tứ phần luật” của thượng toạ bộ, Maha tăng kỷ luật của “Đại chúng bộ”, căn bản nhất thiết hữu bộ luật” ... Sau này còn thêm các Bộ luật của Đại Thừa như An lạc, Phạm Võng. - Tạng kinh: Chép lời Phật dạy, trong thời kỳ đầu tạng kinh gồm nhiều tập dưới d ạng các tiền đ ề, mỗi tập được gọi là một Ah àm. - Tạng luận: Gồm những bài bình chú, giải thích về giáo pháp của Phật giáo. Tạng lu ận gồm bảy bộ thể hiện một cách to àn diện các quan điểm về giáo pháp của Phật giáo. Tư tưởng triết học Phật giáo trên hai phương diện, về bản thể luận và nhân sinh quan, chứa đ ựng những tư tưởng duy vật và biện chứng chất phác. Ph ật giáo cho rằng các sự vật và hiện tượng trong vũ trụ ( chử pháp ) là vô thu ỷ, vô chung (vô cùng, vô tận). Tất cả thế giới đều ở quá trình biến đổi liên tục (vô thường ) không có một vị thần nào sáng tạo ra vạn vật cả. Tất cả các Pháp đ ều thuộc về một giới ( vạn vật đều nằm trong vũ trụ) gọi là Pháp giới. Mỗi một pháp ( mỗi một sự v iệc hiện tượng, hay một lớp sự việc hiện tượng) đều ảnh hưởng đến toàn Pháp. Như vậy các sự vật, hiện tượng hay các quá trình của thế giới là luôn luôn tồn tại trong mối liên h ệ, tác động qua lại và qui đ ịnh lẫn nhau. Tác phẩm “ thanh dung thực luận” của kinh phật viết rằng: “ Có người cố chấp là có Đại tự nhiên là bản th ể chân thực bao khắp cả, lúc n ào cũng thường định ra chu pháp(1) đạo Phật cho rằng toàn bộ chư pháp đều chi chi phối bởi luật nhân quả, b iến hoá vô thường, không có cái bản ng• cố định, không có cái thực thể, không có 7
nguon tai.lieu . vn