Xem mẫu
- QUÁ TRÌNH
THÀNH LẬP
- Mục lục
QUÁ TRÌNH THÀNH LẬP ĐẢNG................................................................................................. 3
Hoàn cảnh lịch sử............................................................................................................................. 3
Diễn biến cuộc vận động thành lập Đảng ......................................................................................... 3
Đảng cộng sản Việt Nam ra đời........................................................................................................ 5
QUÁ TRÌNH LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM ................................................. 6
QUA CÁC THỜI KỲ CÁCH MẠNG: ............................................................................................. 6
1 ĐẢNG LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN TA ĐẤU TRANH GIÀNH ĐỘC LẬP DÂN TỘC .................. 6
2. ĐẢNG LÃNH ĐẠO CẢ NƯỚC ĐI LÊN CNXH ....................................................................... 14
- QUÁ TRÌNH THÀNH LẬP ĐẢNG.
Hoàn cảnh lịch sử.
Vào giữa TK XIX, nước Việt Nam ta đã bị thực dân Pháp xâm lược, mở đầu bằng cuộc tiến
công vào cảng Đà Nẵng (1-9-1858). Sau khi hoàn thành việc xâm lược và bình định vũ trang, thiết
lập bộ máy thống trị, thực dân Pháp tiến hành những cuộc khai thác thuộc địa nhằm cướp đoạt tài
nguyên, bóc lột nhân công rẻ mạt, cho vay nặng lãi, mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hóa của chính
quốc. Chính sách thuộc địa của Pháp ở Việt Nam và cả Đông Dương là bóc lột nặng nề về kinh tế,
chuyên chế về chính trị, kìm hãm nô dịch về văn hóa, nhằm đem lại lợi nhuận tối đa cho bọn tư bản
lũng đoạn Pháp chứ không phải đem đến cho nhân dân các nước Đông Dương sự “khai hóa văn
minh”.
Để tiến hành khai thác thuộc địa thì phải xuất khẩu tư bản đến thuộc địa. Từ 1860 đến 1912,
qua hình thức cho vay, chính phủ Pháp và các tập đoàn tư bản ngân hàng Pháp đã đầu tư vào Đông
Dương 499 tỷ phrăng. Hậu quả của sự xuất khẩu tư bản và du nhập CNTB theo kiểu thực dân vào
nước ta đã đem lại những biến đổi sâu sắc về kinh tế, xã hội, chính trị và giai cấp.
Với lòng yêu nước truyền thống nồng nàn, tinh thần anh hùng bất khuất, nhân dân ta đã liên
tục đứng lên kháng chiến để bảo vệ nền độc lập. Các phong trào kháng chiến đã diễn ra liên tiếp, sôi
nổi dưới nhiều hình thức và màu sắc khác nhau nhưng cuối cùng đều bị thất bại và nguyên nhân là
do thiếu một giai cấp tiên tiến có khả năng đề ra đường lối đúng đắn cho Cách mạng (CM) Việt
Nam. Xã hội Việt Nam lâm vào tình trạng khủng hoảng sâu sắc về đường lối.
Diễn biến cuộc vận động thành lập Đảng
6-1911 : Người ra đi tìm đường cứu nước với cái tên là Nguyễn Văn Ba. Người muốn xem
thế giới như thế nào để trở về giúp đồng bào.
- 1911-1920 : Qua khảo sát, khảo biện trên thực tiễn Người đã rút ra một chân lý lớn rằng chủ
nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân là cội nguồn của mọi sự đau khổ. CM tháng 10 Nga (1917) đã nổ
ra và giành được thắng lợi chính là mốc đánh dấu sự chuyển biến lập trường trong tư tưởng Nguyễn
Ai Quốc. Dưới ánh sáng của CM tháng 10 và đề cương về vấn đề dân tộc thuộc địa do Lênin vạch ra
đồng thời được sự giúp đỡ của các đồng chí trong Đảng xã hội Pháp, 12-1920 Người đã bỏ phiếu
thành lập Quốc tế III và Đảng cộng sản (CS) Pháp và trở thành người Việt Nam đầu tiên sáng lập ra
Đảng CS Pháp. Nguyễn Ai Quốc đã tìm thấy chủ nghĩa Mác-Lênin và khẳng định con đường cứu
nước đúng đắn bởi chủ nghĩa Mác-Lênin là chủ nghĩa yêu nước. Sự kiện này là mốc đánh dấu chấm
dứt về khủng hoảng đường lối cứu nước của dân tộc ta, mở đầu cho chủ nghĩa Mác-Lênin xâm nhập
Việt Nam.
1920-1923 : Nguyễn Ai Quốc sống tại Pháp, bằng báo chí và tác phẩm “bản án chế độ thực
dân Pháp” Người đã truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin : 4-1921, có 2 bài báo quan trọng là “Đông
Dương” đăng trên tạp chí của Đảng CS Pháp. Chủ nghĩa CS có khả năng truyền bá vào Châu Á và
Đông Dương , khả năng tiếp thu thuận lợi hơn Châu Âu. Lập ra hội liên hiệp các dân tộc thuộc địa,
tập hợp lực lượng chống đế quốc. Hội này có cơ quan ngôn luận là tờ báo “ người cùng khổ”.
Người vừa là chủ nhiệm kiêm chủ bút tờ báo này. Người soạn và viết tác phẩm “ bản án chế độ
thực dân Pháp” bằng tiếng Pháp (xuất bản 1925).
Bằng các bài báo và tác phẩm “bản án chế độ thực dân Pháp” của đồng chí Nguyễn Ai
Quốc đã được những thủy thủ người Việt Nam bí mật đưa về nước truyền bá vào phong trào yêu
nước Việt Nam làm cho phong trào yêu nước Việt Nam lúc này xuất hiện một khuynh hướng tư
tưởng mới đó là khuynh hướng tư tưởng của giai cấp vô sản trong phong trào CM Việt Nam.
Bắt đầu từ năm 1923, Nguyễn Ai Quốc sống ở Liên Xô, Trung Quốc, Thái Lan. Phương
pháp truyền bá ở thời kỳ này có hệ thống hơn, chủ nghĩa Mác-Lênin đã được đồng chí vận dụng đề
ra đường lối cho CM Việt Nam.
6- 1923 : Nguyễn Ai Quốc rời Pháp đến Liên Xô.
1924 : Người dự đại hội(ĐH) quốc tế CS lần II sau đó dự ĐH nông dân quốc tế CS (có đọc
tham luận, đề nghị quốc tế CS quan tâm vấn đề nông dân ở các nước thuộc địa).
12-1924 : về Quảng Châu Trung Quốc lấy tên là Lý Thủy, tìm gặp những người trong nhóm
Tâm Tâm Xã.
6-1925 : lập ra tổ chức Việt Nam thanh niên CM đồng chí hội. Hội này có cơ quan ngôn luận
là tuần báo thanh niên. Đây là một tổ chức quá độ vừa tầm.
Tiếp tục mở các lớp huấn luyện đào tạo cán bộ cho CM Việt Nam, nhiều đồng chí đã được
cử đi học ở trường đại học Phương Đông và những bài giảng của Người tại Quảng Châu cũng được
- tập hợp lại in thành sách lấy tên “Đường Kếch Mệnh” và là cơ sở để Đảng ta viết cương lĩnh chính
trị sau này.
Nhiệm vụ của Việt Nam thanh niên CM đồng chí hội là tiếp tục thay mặt đồng chí Nguyễn
Ai Quốc truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào phong trào Công nhân và phong trào yêu nước ở Việt
Nam để đưa phong trào Công nhân từ tự phát lên tự giác và phong trào yêu nước có đường lối rõ
ràng không đi theo đường lối cải lương. Bằng các việc làm thiết thực Việt Nam thanh niên CM đồng
chí hội đã làm cho phong trào Công nhân Việt Nam vào cuối1928 đầu 1929 xuất hiện làn sóng CM
dân tộc dân chủ rất mạnh mẽ. Vì vậy, yêu cầu của lịch sử đặt ra lúc này là phải thành lập ra Đảng
của giai cấp vô sản để đề ra cương lĩnh và trực tiếp lãnh đạo CM thì CM mới giành được thắng lợi.
Đảng cộng sản Việt Nam ra đời
Trước sự phát triển mạnh mẽ của phong trào CM trong nước thì những đồng chí hội viên tiên
tiến của Việt Nam thanh niên CM đồng chí hội ở Bắc Kỳ đã tiến hành họp tại số nhà 5D Hàm Long
Hà Nội vào đầu 3-1929 để tiến hành thành lập ra chi bộ CS đầu tiên ở trong nước và chi bộ này đã
ra nghị quyết: phải thành lập ra Đảng CS. Cuối 3-1929 ĐH kì bộ Bắc Kỳ của Việt Nam thanh niên
CM đồng chí hội cũng được tiến hành và ĐH này đã thông qua chủ trương thành lập Đảng của chi
bộ CS đầu tiên đồng thời ĐH cũng cử đại biểu đi dự ĐH thanh niên toàn quốc và giao nhiệm vụ cho
các đồng chí đại biểu: phải đấu tranh để chủ trương thành lập Đảng được chấp thuận tại ĐH thanh
niên toàn quốc.
Ngày 1-5-1929: ĐH lần thứ I của Việt Nam thanh niên CM đồng chí hội được tiến hành tại
Hương Cảng Trung Quốc. Tại ĐH này, đoàn Đại biểu Bắc Kỳ đưa ra vấn đề thành lập Đảng nhưng
lại không được ĐH chấp thuận. Vì thế, các đồng chí đã tự động rút về nước và thành lập ra tổ chức
CS đầu tiên là Đông Dương CS Đảng (6-1929) do đồng chí Hồ Tùng Mậu làm bí thư.
7-1929: Thành lập An Nam CS Đảng.
9-1929: Thành lập Đông Dương CS liên đoàn.
Trước sự xuất hiện 3 tổ chức CS ở trong nước thì quốc tế CS đã viết thư kêu gọi những người
CS ở Việt Nam là phải nhanh chóng hợp nhất 3 tổ chức CS, thành lập Đảng CS đồng thời giao
nhiệm vụ cho đồng chí Nguyễn Ai Quốc là thay mặt quốc tế CS hợp nhất 3 tổ chức CS thành lập ra
Đảng CS. Sau chỉ thị của quốc tế CS đồng chí Nguyễn Ái Quốc đã bắt tay ngay vào việc chuẩn bị
các văn kiện cho hội nghị hợp nhất và khi mọi công tác chuẩn bị đã hoàn tất thì hội nghị hợp nhất 3
tổ chức CS tiến hành 3 đến 7-2-1930 tại Hương cảng Trung Quốc: Hội nghị thảo luận bỏ mọi thành
kiến xung đột cũ, quyết định thành lập Đảng CS và lấy tên là Đảng CS Việt Nam, thông qua chính
cương vắn tắt, sách lược vắn tắt, điều lệ tóm tắt và lời kêu gọi của đồng chí Nguyễn Ái Quốc nhân
- dịp thành lập Đảng, bầu Ban chấp hành trung ương lâm thời. Hội nghị được coi như là hội nghị
thành lập Đảng và các văn kiện do Hội nghị thông qua chính là cương lĩnh đầu tiên của Đảng.
Đảng CS Việt Nam ra đời là một tất yếu lịch sử, là bước ngoặc vĩ đại trong phong trào CM
Việt Nam. Nó chứng tỏ giai cấp Công nhân Việt Nam đã trưởng thành. Đảng CS Việt Nam ra đời là
sự kết hợp giữa Chủ nghĩa Mác-Lenin và phong trào Công nhân. Đây là quy luật thành lập Đảng
của giai cấp Công nhân Việt Nam.
QUÁ TRÌNH LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
QUA CÁC THỜI KỲ CÁCH MẠNG:
1 ĐẢNG LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN TA ĐẤU TRANH GIÀNH ĐỘC LẬP DÂN TỘC
Đảng lãnh đạo nhân dân ta đấu tranh giành chính quyền cách mạng (1930 -1945)
*Hội nghị TW lần I (10-1930) tại Hương Cảng Trung Quốc với nội dung:
- Đổi tên Đảng CS Việt Nam thành Đảng CS Đông Dương.
- Thông qua luận cương chính trị do đồng chí Nguyễn Ai Quốc soạn thảo.
- Bầu ban chấp hành TW, đồng chí Trần Phú làm tổng bí thư.
*Hội nghị TW 7-1936 tại Thượng Hải Trung Quốc do đồng chí Lê Hồng Phong làm chủ trì
với nội dung:
- Tạm gác khẩu hiệu chiến lược CM Việt Nam là “ chống đế quốc và chống phong
kiến”, đưa ra khẩu hiệu mới là “ chống phản động thuộc địa, chống chiến tranh, đòi
dân sinh dân chủ, đòi tăng lương, giảm giờ làm việc, giảm siêu, giảm thuế”.
- Chủ trương chuyển hướng về mặt tổ chức và hình thức đấu tranh: từ bí mật không hợp
pháp trở thành hợp pháp và nửa hợp pháp. Vì thế mà hội nghị quyết định thành lập hội
“Tương Tế”, hội “Ai Hữu”.
*Hội nghị TW 6 (11-1939) tại Bà Điểm Hoóc Môn do đồng chí Nguyễn Văn Cừ làm chủ trì
với nội dung:
- Hội nghị nhận định: chiến tranh thế giới lần này sẽ nung nấu CM Đông Dương bùng nổ.
- Chủ trương đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu, quyết định thành lập mặt trận
phản đế Đông Dương thay cho mặt trận dân chủ Đông Dương và thay đổ khẩu hiệu: “
tịch thu ruộng đất của phong kiến và đế quốc” thành “ tịch thu ruộng đất của đế
quốc và tay sai”.
- Đặt võ trang bạo động giành chính quyền nhưng không vạch được bước đi của khởi
nghĩa vũ trang.
- *Hội nghị TW 7 (11-1940) tại Đình Bảng-Từ Sơn-Bắc Ninh do đồng chí Trường Chinh chủ
trì với nội dung:
- Xác định kẻ thù của CM Đông Dương lúc này là phát xít Nhật và thực dân Pháp, thay
khẩu hiệu “ đánh đuổi thực dân Pháp” thành “ đánh Pháp đuổi Nhật”.
- Tán thành hội nghị 6 về việc đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu.
- Đặt võ trang bạo động vào chương trình nghị sự. Cụ thể là hoãn cuộc khởi nghĩa Nam
Kỳ duy trì lực lượng khởi nghĩa Ba Sơn.
*Hội nghị TW 8 (5-1941) tại Cao Bằng do đồng chí Nguyễn Ai Quốc chủ trì với nội dung:
- Nhận định được chiến tranh thế giới lần trước đẻ ra Liên Xô - một nước XHCN thì chiến
tranh thế giới lần này đẻ ra cả hệ thống XHCN nên CM nhiều nước thành công.
- Hội nghị tán thành với hội nghị 6,7 về việc đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng
đầu nhưng hội nghị chủ trương giải quyết về vấn đề dân tộc ở khuôn khổ mỗi nước
Đông Dương để thành lập mặt trận riêng cho từng nước.
- Chủ trương đặt võ trang bạo động là nhiệm vụ trung tâm của hội nghị và vạch ra bước đi
của khởi nghĩa võ trang từ từng phần lên tổng khởi nghĩa.
* Hội nghị đã trực tiếp chỉ đạo phong trào CM nước ta qua các thời kỳ và giai đoạn:
- Với cao trào 30, 31 và Xô Viết Nghệ Tĩnh đã khẳng định được đường lối của Đảng là
đúng đắn, để lại cho nhân dân niềm tin về sự lãnh đạo đúng đắn của giai cấp công nhân
và để lại cho quần chúng công nông một điều tự tin về sức mạnh CM của mình, đây thực
sự là cuộc diễn tập đầu tiên của Đảng và để lại cho Đảng một bài học kinh nghiệm quí
giá.
- Với cuộc đấu tranh nhằm khôi phục lại phong trào (1932-1935) đã bảo vệ được chân lý
của Đảng đồng thời cũng đã giáo dục được nhiều Đảng viên quốc dân Đảng đi theo
đường lối của Đảng CS và nhiều người sau này trở thành Đảng viên CS, cuộc đấu tranh
trên báo chí công khai diễn ra trên hai lĩnh vực: triết học và văn học và trên nghị trường.
Phong trào CM Việt Nam cuối 1934 đầu 1935 phát triển, nhiều cuộc bãi khóa, đình công
lại liên tục nổ ra trên cả nước.
- Với cao trào dân chủ Đông Dương (1936-1939) buộc nhà cầm quyền Pháp ở Đông
Dương phải ban bố một số nghị định tạm thời: thời gian làm việc của Công nhân từ 12h
/ 1 ngày xuống còn 8h / 1 ngày và được nghỉ ngày Chủ nhật, thả một số tù chính trị. Đây
là cuộc diễn tập thử lần hai thiết thực chuẩn bị về mọi mặt cho việc giành chính quyền
CM của Đảng.
- Sang đầu năm 1945 tình hình chiến tranh thế giới lần 2 cũng bước vào giai đoạn kết thúc:
Hồng quân Liên Xô sau khi tiêu diệt phát xít Đức đã quay lại đánh đạo quân Quan Đông của
Nhật làm cho bọn lính Nhật ở Đông Dương hoang mang lo sợ thực dân Pháp đứng ở phía sau
đảo chính lật đổ Nhật chiếm lấy Đông Dương. Vì thế, đêm 9-3-1945 Nhật đã tiến hành trước
cuộc đảo chính lật đổ Pháp chiếm Đông Dương. Hội nghị TW 8-3-1945 tại Tân Trào đã diễn ra
đúng lúc Nhật tiến hành đảo chính Pháp đã xác định kẻ thù của ta lúc này là phát xít Nhật, thay
đổi khẩu hiệu “ đánh đuổi Pháp-Nhật” thành “ đánh đuổi phát xít Nhật” và dự kiến thời cơ
khởi nghĩa. Hội nghị ra chỉ thị Nhật-Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta. Thực hiện chủ
trương của TW cao trào kháng Nhật đã diễn ra sôi nổi trên cả nước. Nhiều cuộc khởi nghĩa từng
phần đã diễn ra và giành thắng lợi ở một số địa phương nên thời cơ tổng khởi nghĩa đang đến
gần. Vì vậy, 13-8-1945 Đảng đã tiến hành hội nghị toàn quốc tại Tân Trào và 15-8-1945 phát xít
Nhật đã tuyên bố đầu hàng đồng minh vô điều kiện. Hội nghị quyết định phát động tổng khởi
nghĩa giành chính quyền trên cả nước, bầu ra ủy ban lãnh đạo khởi nghĩa do đồng chí Trường
Chinh làm trưởng ban. Tối 15-8 hội nghị toàn quốc của Đảng kết thúc. Sáng 16-8 cũng tại Tân
Trào ĐH quốc dân lại được triệu tập chủ trương phát động tổng khởi nghĩa của Đảng và bầu ra
chính phủ CM lâm thời do chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu, ĐH đã thông qua đường lối đối nội,
đối ngoại của chính phủ, thông qua quốc kỳ, quốc ca của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Sau
ĐH quốc dân Tân Trào cuộc tổng khởi nghĩa tháng 8 đã diễn ra mạnh mẽ trên phạm vi cả nước.
Đây thực sự là cuộc nổi dậy của toàn dân được kết hợp giữa đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ
trang, có nơi mở đầu cuộc khởi nghĩa tại thành phố và kết thúc tại nông thôn nhưng có nơi thì
ngược lại. Thắng lợi của 3 thành phố lớn: Hà Nội(19-8), Huế(23-8), Sài Gòn(25-8) đã quyết định
toàn bộ cuộc tổng khởi nghĩa tháng 8.
Sau khi CM tháng 8 giành thắng lợi, Bác và TW trở về thủ đô Hà Nội, 2-9-1945 tại quảng
trường Ba Đình, Bác đã đọc bản tuyên ngôn độc lập công bố trước toàn thể thế giới là nước Việt
Nam dân chủ cộng hòa ra đời.
Đảng lãnh đạo nhân dân kháng chiến chống Pháp (1946 – 1954)
Với sự giúp đỡ của Liên Xô, một loạt nước ở Châu Au được giải phóng và đi lên CNXH từ
đó hình thành hệ thống XHCN, phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới phát triển mạnh làm lung
lay hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc. Mỹ ra sức lôi kéo Anh và Pháp vào mặt trận bao vây
Liên Xô và chống phá phong trào CM thế giới. Việt Nam trở thành một trong những tiêu điểm
chống phá quyết liệt của chủ nghĩa đế quốc trong khi đã gặp phải những khó khăn to lớn về mọi
mặt. Kẻ thù lấy danh nghĩa là đồng minh để chống phá phong trào CM. Chính quyền CM vừa mới
- được thành lập còn non trẻ, lực lượng vũ trang chưa phải là chính qui hiện đại có khả năng bảo vệ
chính quyền. Tất cả những khó khăn trên đã nói lên một điều là: vận mệnh dân tộc ta đang đứng
trước những thử thách nghiêm trọng, nền độc lập dân tộc có thể bị thủ tiêu và nhân dân ta có khả
năng trở lại cuộc sống nô lệ.
Trước tình hình đó Đảng đẩy mạnh cuộc kháng chiến chống Pháp ở Nam Bộ, 25-11-1945
Đảng ra chỉ thị “ kháng chiến kiến quốc”. Đảng phát động phong trào Nam Tiến để tăng cường cho
cuộc kháng chiến. Thực hiện chủ trương của Đảng, cuộc kháng chiến được duy trì và phát triển đã
đánh tan âm mưu của thực dân Pháp chỉ thôn tính Miền Nam(MN) Việt Nam. Đảng đẩy mạnh sản
xuất để giải quyết khó khăn về mặt kinh tế, đẩy mạnh phong trào bình dân học vụ với chủ trương
người biết chữ dạy cho người không biết chữ , tổ chức tổng tuyển cử bầu quốc hội trong cả nước và
kết quả bầu được 333 đại biểu . Đây thực sự là cuộc động viên chính trị rộng lớn của toàn dân nhằm
biểu dương sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc. Cuộc tổng tuyển cử đã tạo ra một cơ sở pháp lý cho
chúng ta chống kẻ thù trên mặt trận ngoại giao.
Để tập trung lực lượng của CM vào kẻ thù chủ yếu trước mắt là thực dân Pháp xâm lược ở
MN, Đảng chủ trương “ hoà với Tưởng” tạm thời chấp nhận 1 số yêu cầu của Tưởng nhưng phải
giữ được chính quyền CM và vai trò lãnh đạo của Đảng đối với chính quyền. Đưa ra khẩu hiệu “
Hoa-Việt thân thiện” tiếp xúc thân thiện với Tưởng, sách lược này đạt kết quả. Lúc này, Pháp đẩy
mạnh công cuộc lấn chiếm Nam Bộ, bọn Tưởng muốn nhanh chóng thôn tính Miền Bắc (MB) nước
ta nên cử tên Hà Ứng Khâm sang Hà Nội. Đảng ta đã cử 30 vạn dân Việt Nam xuống đường hô hào
khẩu hiệu” nước Việt Nam thuộc người Việt Nam ủng hộ chính phủ CM do Hồ Chí Minh đứng
đầu” làm Hà Ứng Khâm kinh hoàng từ bỏ ý định thôn tính MB. Ở Trung Quốc, phong trào CM do
Đảng CS lãnh đạo lại phát triển mạnh mẽ, buộc quân Tưởng phải rút quân về nước để đối phó tình
hình trong nước. Nhưng trước khi về nước Tưởng đã kí hoà ước với Pháp: chấp nhận cho quân Pháp
vào thay Tưởng ở MB Việt Nam và ngược lại Pháp nhường cho Tưởng đường xe lửa ở Vân Nam và
một số quyền lợi khác.
Sau khi hòa ứơc Hoa-Pháp được kí kết, Pháp đã tràn vào nước ta và chiếm đóng tại Lai Châu
đồng thời thực dân Pháp ở MN lại ráo riết chuẩn bị tàu chiến đưa quân đổ bộ lên vịnh Bắc Bộ và
cảng Hải Phòng. Đảng đưa ra sách lược “ hòa với Pháp” và kí với Pháp hiệp định sơ bộ, nhưng
Pháp vi phạm hiệp định nên Đảng phát động phong trào đình công, bãi khóa trên cả nước, buộc
Pháp đàm phán chính thức. Thực dân Pháp lộ rõ âm mưu xâm lược nước ta. Cuối 5-1946 Bác lại lên
đường sang Pháp, ở Đông Dương bọn thực dân Pháp thực hiện “chính sách đã rồi” với âm mưu lật
đổ chính phủ CM, thành lập chính phủ bù nhìn tay sai và chủ trương chia để tự trị. Trước tình hình
đó, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta kiên quyết đấu tranh chống lại những hành động vi phạm hiệp
- định của Pháp đồng thời vạch mặt bọn phản động tay sai trừng trị trước pháp luật. Trước sức mạnh
của dân tộc ta buộc thực dân Pháp chấp nhận đàm phán chính thức nhưng cũng không đạt được thỏa
thuận nào vì Pháp quyết tâm xâm lược nước ta. Khi Bác trở về nước, Pháp liên tục vi phạm các điều
khoản của hiệp định. Giữa 12-1946 Pháp cho quân đánh chiếm Hà Nội và gởi tối hậu thư cho chính
phủ ta đòi tước vũ khí của đội tự vệ. Mọi khả năng hòa hoãn với Pháp không còn nữa, tối 19-12-
1946 Bác đọc lờikêu gọi và phát động cả nước đứng lên kháng chiến chống Pháp và rút ra được
đường lối kháng chiến đúng đắn, đánh lâu dài trong 3 giai đoạn: phòng ngự, cầm cự, tổng tiến công
và dựa vào sức mình là chính vì ban đầu địch mạnh ta yếu, ta phải có thời gian chuyển hóa so sánh
lực lượng đó.
Dưới ánh sáng của đường lối kháng chiến chống Pháp, ngay trong tháng đầu tiên quân và dân
Hà Nội đã tiêu diệt hơn 1000 tên địch. Sang 1947 Đảng chủ trương mở chiến dịch MB và trong một
thời gian ngắn đã giải phóng được xã Lai Châu và tỉnh Lai Châu. Cuộc kháng chiến diễn ra một giai
đoạn khác (cầm cự và tổng tiến công), lực lượng vũ trang của nhân dân ta phát triển mạnh về số và
chất lượng đồng thời các khu du kích và căn cứ du kích cũng ra đời ở nhiều nơi trên phạm vi cả
nước. Sang 1950 Đảng chủ trương mở chiến dịch biên giới và thắng lợi đã để lại cho Đảng ta những
bài học kinh nghiệm quí giá về chỉ đạo chiến tranh. Đồng thời, Liên Xô, Trung Quốc và các nước
XHCN ở Đông Âu bắt đầu công nhận và đặt ngoại giao với nước ta. Kể từ đây, cuộc kháng chiến
của nhân dân ta nhận được sự viện trợ về vật chất cũng như tinh thần của hệ thống XHCN và ĐH
toàn quốc lần thứ II của Đảng được tiến hành vào 2-1951 tại xã Vĩnh Tế-Chiêm Hóa-Tuyên Quang.
Sau ĐH toàn quốc lần thứ II thì Đảng phải giải quyết một loạt các mâu thuẩn và hội nghị TW
9-1951 đề ra chủ trương chỉnh Đảng và chỉnh quân nên sang 1953 thì tình hình so sánh lực lượng
giữa ta và địch trên chiến trường đã có sự thay đổi rõ rệt.
Đế quốc Mỹ đã ráo riết chuẩn bị mọi điều kiện để thay chân Pháp nhảy vào Đông Dương
nhưng mục đích của chiến lược toàn cầu không cho phép Mỹ nhảy vào Đông Dương ở thời điểm
này nên Mỹ đã tiến hành viện trợ cho Pháp và ép Pháp tiếp tục cuộc chiến tranh ở Việt Nam. Sau
khi Pháp nhận được viện trợ của Mỹ, Pháp đã cử tên tướng Nava làm tổng chỉ huy quân Pháp ở
Đông Dương và ông ta đã lập ra kế hoạch Nava. Để thực hiện kế hoạch này, Pháp đã đổ thêm 12
tiểu đoàn xuống vịnh Bắc Bộ, và trở thành nơi tập trung binh lực lớn nhất của Pháp ở Đông Dương.
Đảng ta chủ trương mở cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân (1953-1954), 1-1953 bộ đội ta bắt đầu
tiến công lên Tây Bắc, chỉ trong thời gian ngắn đã giải phóng thị xã Lai Châu và tỉnh Lai Châu buộc
Nava phải điều quân lên Lai Châu, cho quân đổ bộ xuống Điện Biên Phủ đồng thời xây dựng thành
căn cứ quân sự mạnh nhất của Pháp ở Đông Dương và là nơi tập trung lực lượng lớn thứ 2 ở Đông
Dương. Đảng ta phối hợp giải phóng thị xã ATôBơ, địch tập trung quân lên ATôBơ và là nơi tập
- trung lực lượng lớn thứ 3 ở Đông Dương. Quân ta tiếp tục tiến đánh thị xã PhôngXaLỳ và cao
nguyên BôLôVen, Nava điều quân từ Bắc Bộ lên và nơi này trở thành nơi tập trung lực lượng lớn
thứ 4 ở Đông Dương. Đảng ta tập trung lực lượng đánh cứ điểm Điện Biên Phủ và để đánh lạc
hướng địch 1-1954 ta đánh KomTum và trở thành nơi tập trung lực lượng đứng thứ 5 ở Đông
Dương. Sau khi mọi công tác chuẩn bị cho chiến dịch Điện Biên Phủ hoàn tất, 13-3-1954 tiếng súng
đầu tiên bắt đầu nổ. Trải qua 55 ngày đêm chiến đấu liên tục với 3 đợt tiến công đến 7-5-1954 thì
giành thắng lợi hoàn toàn. Sau thắng lợi Điện Biên Phủ 8-5-1954 hội nghị Giơ-Ne bắt đầu họp và
bàn về việc thiết lập lại hòa bình cho dân tộc Việt Nam. Đồng chí Phạm Văn Đồng dẫn đầu phái
đoàn đi dự đại hội với cương quyết giữ vững độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của dân tộc ta.
27-7-1954 hiệp định Giơ-Ne được kí kết lập lại hòa bình cho Việt Nam với nội dung chính: lấy vĩ
tuyến 17 làm vĩ tuyến tạm thời để tập trung lực lượng giữa hai bên. Sau 2 năm sẽ tiến hành tổng tiền
cử địa phương và thống nhất đất nước.
Đảng lãnh đạo nhân dân tiến hành 2 nhiệm vụ chiến lược: Cách Mạng XHCN Miền Bắc
và Cách Mạng dân tộc dân chủ nhân dân Miền Nam
Đất nước tạm thời chia làm 2 miền với 2 chế độ chính trị khác nhau. Vì thế, cùng một lúc
Đảng phải lãnh đạo 2 nhiệm vụ chiến lược ở 2 miền khác nhau. Đây là nét độc đáo của CM Việt
Nam vì chưa có một nước nào trên thế giới cùng một lúc thực hiện 2 nhiệm vụ chiến lược ở 2 miền
khác nhau: kẻ thù của nước ta không phải là đế quốc Pháp mà là đế quốc Mỹ nhưng ta lại chưa hiểu
gì về nó cả, đế quốc Mỹ lúc này lại thông qua tay sai Ngô Đình Diệm thông báo khướt từ hiệp ước
thống nhất đất nước mà tiến hành khủng bố, đàn áp những người CS CM Việt Nam với phương
châm “thà giết lầm còn hơn bỏ sót”. Phong trào CS thế giới lúc này lại đi vào con đường hòa hoãn
làm cản trở trực tiếp phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới trong đó có nước ta. Sau thất bại ở
Điện Biên Phủ thì đế quốc Mỹ đã tìm mọi cách để gạt Pháp ra và nhảy vào MN nước ta xâm lược
bằng chủ nghĩa thực dân kiểu mới tức là xâm lược thông qua bộ máy ngụy quân ngụy quyền – thông
qua tay sai Ngô Đình Diệm nhanh chóng gạt Pháp và bọn tay sai của Pháp ra khỏi MN. Vì thế, ở
MN từ 1954 đến 1956 đã diễn ra một cuộc giành giật giữa chủ nghĩa thực dân cũ và thực dân mới.
Và được sự bảo trợ của Mỹ 5-1-1955 Diệm đã tiến hành cách chức Nguyễn Văn Hinh (tổng tham
mưu trưởng tay sai Pháp), tiến hành thành lập mặt trận quốc gia toàn lực bao gồm các giáo phái
(Cao Đài, Hòa Hảo, Bình Xuyên) và kể từ đây Diệm đã nắm được lực lượng công an, quân đội. Mỹ
cũng bắt đầu cài hệ thống cố vấn từ TW đến cơ sở. Diệm tuyên bố khướt từ hiệp thương thống nhất
đất nước và tiến hành “trưng cầu dân ý”, phế truất Bảo Đại, lên ngôi tổng thống. Bắt đầu từ đây
- chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm chĩa mũi nhọn vào việc đàn áp và tiêu diệt CS Việt Nam. Tình
hình chính trị ở Việt Nam khủng hoảng sâu sắc.
Trước tình hình đó, Đảng ta chủ trương chuyển CM sang thế giữ gìn lực lượng: tận dụng mọi
khả năng hợp pháp để khéo che dấu, bảo toàn lực lượng của mình. Vì thế, hình thức đấu tranh lúc
này là lấy đấu tranh chính trị làm chủ yếu – chỉ diễn ra trong điều kiện hợp pháp và không phải lật
đổ chính quyền Diệm. Nhưng Diệm lại tăng cường khủng bố, đàn áp những người CM . Đồng chí
Lê Duẩn cùng với các đồng chí TW cục MN tiến hành soạn thảo ra đề cương CM Việt Nam (1957).
1-1959 hội nghị TW lần thứ 15 đã đề ra đường lối CM dân tộc dân chủ nhân dân ở MN. Sau khi
nghị quyết lần thứ 15 được triển khai đến cơ sở MN nó đã dấy lên một phong trào đấu tranh rộng
khắp mà đỉnh cao là thắng lợi phong trào Đồng Khởi và kết quả là sự ra đời của mặt trận dân tộc
giải phóng MN(20-12-1960). Thắng lợi của Đồng Khởi đã để lại cho Đảng ta một bài học kinh
nghiệm quý báu về vận dụng thời cơ khởi nghĩa.
Sau khi, chiến lược chiến tranh đơn phương của đế quốc Mỹ thất bại, Mỹ chuyển sang chiến
tranh đặc biệt với âm mưu nhằm tiêu diệt phong trào nổi dậy và tiến công của đồng bào ta ở MN. Để
thực hiện âm mưu đó, Mỹ đã tăng cường bình định, dồn dân lập ấp chiến lược để tách dân ra khỏi
CM đưa vào thế kèm kẹp của Mỹ ngụy, tăng cường đôn quân bắt lính, trang bị huấn luyện cho quân
ngụy thành đội quân có khả năng cơ động chiến lược mạnh. Đảng chủ trương qua nghị quyết TW
12-1962 : đấu tranh vũ trang song song đấu tranh chính trị, chia 3 vùng chiến lược (nông thôn-rừng
núi, nông thôn-đồng bằng và thành thị) để căn cứ vào so sánh lực lượng giữa ta và địch ở từng vùng
mà tìm phương pháp chiến tranh thích hợp cho từng vùng. Trên chiến trường MN, quân và dân
giành liên tục những thắng lợi to lớn. Chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm tỏ ra bất lực, Mỹ tiến
hành lật đổ Diệm đưa Dương Văn Minh rồi Nguyễn Khánh lên thay nhưng tình hình chính trị ở MN
cũng không ổn định, khi Kenedy bị ám sát, Jonhson lên đưa ra kế hoạch Manamara: bình định MN
trong vòng 2 năm nhưng có trọng điểm đó là 8 tỉnh của đồng bằng sông Cửu Long. Trước tình hình
đó, Đảng mở đường dây 559 để đưa lực lượng MB vào MN và cử đồng chí Nguyễn Chí Thanh vào
MN làm bí thư cục MN, lực lượng của ta tập hợp thành đơn vị lớn và nhằm vào chủ lực quân ngụy
để tiêu diệt. 3 chiến thắng: Bình Giả (12-1964), Ba Gia (5-1965), Đồng Xoài (6-1965) đã làm cho
quân ngụy có nguy cơ bị tiêu diệt hoàn toàn và chiến lược chiến tranh đặc biệt của Mỹ càng bị thất
bại hoàn toàn. Vì thế, Mỹ đã ồ ạt đưa quân viễn chinh Mỹ và chư hầu vào MN để cứu vãn sự sụp đổ
của ngụy.
Trước thất bại của chiến lược chiến tranh đặc biệt, Mỹ buộc phải chuyển hướng sang chiến
tranh cục bộ với âm mưu: Đối với MB, từ 8-1964 Mỹ cho không quân, hải quân bắn phá phá hoại
công cuộc xây dựng CNXH và xây dựng đất nước, ngăn chặn sự chi viện của MB cho MN, đánh
- gục ý chí đánh Mỹ của nhân dân ta ở MB. Đối với MN, đưa quân vào MN tiêu diệt lực lượng vũ
trang của nhân dân ta và đẩy lực lượng vũ trang của ta ra xa biên giới, từ đó làm cho cuộc chiến
tranh của nhân dân ta tàn lụi dần, Mỹ ồ ạt đưa 20 vạn lính Mỹ và chư hầu vào MN để đánh lừa dư
luận Mỹ và thế giới nhưng mục đích vẫn sử dụng chiến lược chủ nghĩa thực dân kiểu mới. Đảng
phát động cả nước đứng lên kháng chiến chống Mỹ và vạch ra đường lối kháng chiến, thể hiện qua
nghị quyết TW 12-1965, từ đó nêu ra phương pháp đánh Mỹ chính là chiến lược tiến công, tìm Mỹ
mà đánh, tìm ngụy mà diệt, đánh lâu dài dựa vào sức mình là chính. Trên chiến trường MN quân và
dân ta đã liên tục giành những thắng lợi to lớn trong 2 mùa khô 1965-1966 và 1966-1967, đặc biệt,
1967, ta đã đánh tan 3 cuộc hành quân của Mỹ-Ngụy và hội nghị TW 12-1967 đã chủ trương mở
mặt trận ngoại giao để tiến công địch nhưng thắng lợi của mặt trận ngoại giao thì bao giờ cũng do
thắng lợi của chiến trường quyết định. Vì thế, hội nghị bộ chính trị 1-1968 đã quyết định mở cuộc
tiến công chiến lược mùa xuân 1968 với ý đồ đánh gục ý chí xâm lược của giặc Mỹ buộc đế quốc
Mỹ phải đi vào bàn đàm phán với chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa để rút quân Mỹ ra khỏi
chiến trường MN từ đó ta tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn. Đúng 0h 30,31-1-1968, 64 thành phố,
thị trấn, thị xã trên toàn MN đã nổi dậy tiến công quân địch. Kết quả, ta buộc đế quốc Mỹ chấp nhận
đi vào bàn đàm phán tại Pari có sự tham dự của chính phủ CM lâm thời MN Việt Nam và Ngô Đình
Diệm. Mỹ buộc ngưng ném bom bắn phá MB và thắng lợi 1968 đã làm phá sản hoàn toàn chiến
lược chiến tranh cục bộ của đế quốc Mỹ.
Sau khi thất bại trong chiến tranh cục bộ, 1969 khi bước vào nhà trắng NickShon đã đưa ra
học thuyết Việt Nam hóa chiến tranh: “dùng người Việt Nam đánh người Việt Nam và dùng người
Đông Dương đánh người Đông Dương”. Mỹ đã rút quân Mỹ ra khỏi MN và giao MN lại cho chính
quyền Nguyễn Văn Thiệu nhưng để có thời gian vực quân Ngụy mạnh lên thì Mỹ không tiến hành
rút quân ào ạt mà tiến hành rút quân nhỏ giọt đồng thời chủ trương đẩy mạnh đôn quân bắt lính, tăng
quân Ngụy lên đến 1 triệu tên đồng thời trang bị quân Ngụy thành đội quân chính quy, hiện đại, có
khả năng cơ động chiến lược mạnh. Đảng chủ trương đẩy mạnh hơn nữa tiến công của bộ đội chủ
lực và nhắm vào chủ lực của quân Ngụy tiêu diệt, đồng thời phát động phong trào chiến tranh nhân
dân địa phương rộng khắp trên toàn MN dưới sự chi viện tích cực của hậu phương MB. Trên chiến
trường MN chúng ta đã liên tục giành được những thắng lợi lớn, đặc biệt, sang đầu năm 1970 quân
và dân ta ở MB đã đập tan 2 cuộc hành quân chiến lược của quân Ngụy. Trước thắng lợi 1970, sang
năm 1972, Đảng ta tiếp tục mở chiến dịch Nguyễn Huệ với chủ trương “kết thúc chế độ đế quốc
nước ngoài xâm lược nước ta”. Chiến dịch thắng lợi đã buộc đế quốc Mỹ phải chấp nhận ký nghị
định sẽ ký hiệp định Pari để lập lại hòa bình cho Việt Nam nhưng trước khi ký Mỹ đã tập kích chiến
lược B52 từ 18 đến 30-12-1972 với ý đồ đưa thủ đô Hà Nội trở lại thời kỳ đồ đá để buộc nhân dân ta
- quỳ gối đầu hàng theo các điều kiện do Mỹ đặt ra. Mỹ thất bại và buộc phải kí hiệp định Pari 27-1-
1973. Sau khi hiệp định Pari được kí kết chính quyền tay sai Nguyễn Văn Thiệu đã không chấp hành
hiệp định: chúng liên tục hô hào binh lính tràn ngập lãnh thổ, mở các cuộc hành quân càng quét lực
lượng ta. Tuy vậy, việc kí kết hiệp định Pari đã làm cho so sánh lực lượng giữa ta và địch trên chiến
trường lúc này đã có sự thay đổi to lớn có lợi cho CM MN. Trước tình hình đó Đảng ta chủ trương
đẩy mạnh hơn nữa sức mạnh tiến công của bộ đội chủ lực và trên chiến trường MN bộ đội ta liên tục
giành được những thắng lợi lớn, đẩy quân Ngụy vào thế khủng hoảng toàn diện và đặc biệt là chiến
thắng Phước Long 8-1-1975 mở ra một khả năng là trên thực tế ta có thể tiến lên giải phóng hoàn
toàn MN. Hội nghị bộ chính trị họp 8-1-1975 và chủ trương tập trung lực lượng cả 2 miền để nhanh
chóng giải phóng MN trong 2 năm 1975-1976, ta đã mở chiến dịch Tây Nguyên được mang tên là
chiến dịch A375 do trung tướng Hoàng Minh Thảo làm tư lệnh trưởng và mở đầu là trận đánh vào
Buôn Mê Thuộc 10-3-1975. Trước thắng lợi của thị xã Buôn Mê Thuộc, bộ đội quyết định tập trung
lực lượng trước mùa mưa 1975, mở chiến dịch Huế và chiến dịch Đà Nẵng. 26-3-1975 , ta giải
phóng Huế và 29 – 3 – 1975 giải phóng Đà Nẵng, xóa bỏ toàn bộ quân khu của địch và đẩy địch vào
thế khủng hoảng toàn diện. Bộ chính trị đã chỉ thị tập trung lực lượng giải phóng Sài Gòn trước 5-
1975, 19-4-1975 tại căn cứ bộ tư lệnh miền ở Tà Thiết đã thành lập bộ chỉ huy chiến dịch đánh vào
Sài Gòn – Gia Định, mang tên chiến dịch Hồ Chí Minh và đồng chí Văn Tiến Dũng làm tư lệnh
trưởng, đồng chí Phạm Hùng làm chính ủy. Chiến dịch Hồ Chí Minh mở đầu bằng trận đánh của
quân đoàn 4 vào thị xã Xuân Lộc, xé tan tác giáp bảo vệ Sài Gòn ở phía Đông, 26-4-1975 , bộ đội ta
lại tiếp tục giải phóng thị xã Biên Hòa đồng thời lực lượng ta khống chế và bao vây Sài Gòn trên tất
cả các hướng. Đêm 29 rạng 30, các quân đoàn chủ lực của ta theo 5 hướng tiến công vào Sài Gòn,
10h30’ xe tăng húc đổ cánh cửa dinh Độc Lập, tiến vào buộc Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng.
11h30’ lá cờ CM cắm trên nóc dinh Độc Lập, kết thúc thắng lợi hoàn toàn chiến dịch Hồ Chí Minh,
tạo điều kiện cho các tỉnh còn lại của MN tiến lên giành chính quyền.
2. ĐẢNG LÃNH ĐẠO CẢ NƯỚC ĐI LÊN CNXH
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ đã đưa nước ta vào giai đoạn mới( từ chiến tranh
chuyển sang hòa bình, từ 2 chiến lược CM sang 1 chiến lược CM, xây dựng CNXH trên phạm vi
toàn quốc). Với những thuận lợi: nước ta đã hoàn toàn thống nhất chấm dứt tình trạng chia cắt, nhân
dân ta có tinh thần tự lực, tự cường, lao động cần cù, thông minh, sáng tạo, có nguồn lao động dồi
dào, tập trung và có đội ngũ trí thức đáng kể – đất nước ta có nguồn tài nguyên phong phú – Đảng ta
có nhiều kinh nghiệm rút ra trong lao động CM XHCN ở MB và được sự giúp đỡ của hệ thống
- XHCN. Bên cạnh đó còn có những khó khăn: nền kinh tế lạc hậu, phổ biến là sản xuất nhỏ, năng
xuất lao động thấp và bản thân nền kinh tế trải qua nhiều năm chiến tranh tàn phá, những di chứng
để lại nặng nề.
Đảng ta triệu tập ĐH Đảng lần thứ IV nhằm đề ra đường lối của CM VN bước vào giai đoạn
mới, ĐH thống nhất nước nhà bước vào thời kì xây dựng CNXH theo mô hình của CNXH cũ. Nắm
vững chuyên chế vô sản, phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động, tiến hành đồng thời 3 cuộc
CM: CM về quan hệ sản xuất, CM KHKT, CM tư tưởng và văn hóa, trong đó CM KHKT là then
chốt, đẩy mạnh CNH XHCN là nhiệm vụ trọng tâm, xây dựng nền sản xuất lớn XHCN, xây dựng
chế độ làm chủ tập thể XHCN, xây dựng nền văn hóa mới và con người mới XHCN, xóa bỏ chế độ
bóc lột, nghèo nàn lạc hậu, không ngừng đề cao cảnh giác, thường xuyên củng cố quốc phòng, giữ
gìn an ninh chính trị và trật tự xã hội nhằm xây dựng thành công Tổ quốc Việt Nam hòa bình.
ĐH Đảng lần thứ V ( 1982) , chúng ta đang ở chặng đường đầu của thời kì quá độ nên thành
tựu của thời kì này sẽ để lại những dấu ấn quan trọng. Đảng đề ra những chính sách và biện pháp
phù hợp để thực hiện những nhiệm vụ mà ĐH IV đề ra. ĐH V đề ra cách thức CNH, giải quyết mối
quan hệ của Công nghiệp và Nông nghiệp. Trong 5 năm đầu (81-85) và những năm 80 cần tập trung
sức phát triển mạnh Nông nghiệp, coi Nông nhiệp là mặt trận hàng đầu và đưa Nông nghiệp lên sản
xuất XHCN. Ra sức đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng và tiếp tục xây dựng một số ngành Công
nghiệp nặng quan trọng. Coi Nông nghiệp là hàng đầu không có nghĩa chỉ tập trung làm Nông
nghiệp vì bản thân Nông nghiệp có thể tự làm thay đổi bộ mặt của mình.
Trong 10 năm đầu ta đã đạt được những thành tựu: Đảng đã ngăn chặn được đà giảm sút của
sản xuất Nông nghiệp và Công nghiệp những năm 79-80 và ta đã tự trang trải được lương thực. Ta
đã thống nhất nước nhà về mặt nhà nước và bảo vệ được Tổ quốc. Công cuộc cải tạo XHCN cũng
giành được những thành tựu quan trọng. Sự nghiệp giáo dục và y tế cũng phát triển. Bên cạnh những
thành tựu, nền kinh tế xã hội nước ta còn gặp những khó khăn: sản xuất tuy có tăng nhưng tăng
chậm không xứng với công sức ta bỏ ra, không đáp ứng được nhu cầu của ta là nhanh chóng ổn định
đời sống nhân dân. Một số chỉ tiêu quan trọng ta không đạt được đã ảnh hưởng đến toàn bộ hoạt
động kinh tế và đời sống lao động. Những mặt mất cân đối lớn chậm được thu hẹp, có mặt còn gay
gắt hơn trước, quan hệ sản xuất chậm được củng cố, vai trò chủ đạo của kinh tế quốc doanh suy yếu,
đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn, tiêu cực xã hội phát triển, công bằng xã hội bị vi phạm.
Quần chúng giảm lòng tin đối với sự lãnh đạo của Đảng và đất nước ta rơi vào cuộc khủng hoảng
kinh tế xã hội.
ĐH Đảng lần thứ VI ( 12-86) với tinh thần đổi mới tư duy, phong cách, nhìn thẳng vào sự
thật đã chỉ ra những sai lầm và nguyên nhân dẫn tới những sai lầm đó mà rút ra những bài học có ý
- nghĩa. Đổi mới là xu thế của thời đại ngày nay đòi hỏi phải đổi mới tư duy, xây dựng CNXH ở mọi
nước đều cần một hình thái xã hội mới và con đường đến hình thái đó ở mỗi quốc gia là riêng và
không bằng phẳng, thực hiện 3 chương trình kinh tế lớn: về lương thực thực phẩm thì lương thực
phải đảm bảo đủ ăn cho toàn xã hội và có dự trữ, mức tiêu dùng lương thực thực phẩm phải đảm bảo
tái sản xuất mức lao động, về hàng tiêu dùng thì sản xuất phải đáp ứng được nhu cầu bình thường
của người dân về những sản phẩm công nghiệp thiết yếu, về xuất khẩu thì tạo ra được một số mặt
hàng xuất khẩu đạt kim ngạch xuất khẩu, đáp ứng được phần lớn nhu cầu nhập khẩu vật tư, máy
móc, phụ tùng và những hàng hóa cần thiết. Sử dụng và cải tạo đúng đắn một số thành phần kinh tế,
coi nền kinh tế nhiều thành phần là một đặc trưng khách quan của thời kì quá độ lên CNXH ở nước
ta. Văn kiện ĐH VI chưa đi vào cuộc sống, chưa kịp phát huy tác dụng nên tình hình kinh tế xã hội
nước ta chưa có sự chuyển biến đáng kể thậm chí về mặt kinh tế còn có những gay gắt hơn trước.
Tuy nhiên, ta cũng giành được những thành tựu: từ thiếu ăn triền miên ta đã vươn lên đáp ứng nhu
cầu trong nước và còn có dự trữ xuất khẩu, cải thiện cán cân xuất nhập khẩu, hàng tiêu dùng dồi
dào, đa dạng, lưu thông tương đối thuận lợi. Kinh tế trong nước phát triển nhanh, mở rộng về quy
mô hình thức. Cơ chế quản lý kinh tế của nhà nước cũng bắt đầu hình thành theo xu hướng dần xóa
bỏ cơ chế tập trung, quan liêu chuyển sang hoạch toán XHCN. Đời sống nhân dân đã ổn định và cải
thiện. Giáo dục xác định rõ mục tiêu, có phương pháp tiến bộ. Giữ vững hòa bình, từng bước xóa bỏ
thế bao vây về kinh tế, cô lập chính trị, mở rộng quan hệ quốc tế, tạo ra thắng lợi cho công cuộc xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.
ĐH Đảng lần VII (6-1991) diễn ra trong sự biến đổi sâu sắc của bối cảnh quốc tế, nước ta lại
chịu ảnh hưởng của cuộc CM khoa học công nghệ. Cuộc CM ảnh hưởng đến đời sống các dân tộc,
tạo ra thời cơ cho các quốc gia đồng thời cũng đặt ra những thử thách gay gắt nhất đối với các nước
lạc hậu về mặt kinh tế. Cuộc khủng hoảng ở các nước XHCN, sự sụp đổ của CNXH ở Liên Xô,
Đông Au đã tác động đến toàn bộ đời sống chính trị, kinh tế, xã hội. Mỹ bao vây, cấm vận nước ta.
Mặc dù, ta còn có những điểm yếu luôn cần khắc phục, nhiều thành tựu mà ta đạt được đã và đang
tạo ra những tiền đề để đưa đất nước chuyển sang thời kì phát triển mới. Đảng ta có đường lối đúng
đắn, đoàn kết nhất trí, nhân dân ta có tinh thần yêu nước, bản lĩnh chính trị vững vàng, có ý chí CM
kiên cường, có lực lượng vũ trang trung thành với Đảng với nhân dân, chúng ta đã tạo ra được thế
và lực mới để tiếp tục phát triển cuộc CM KHKT và xu thế hòa bình hợp tác phát triển. Tuy nhiên,
nước ta cũng đứng trước nguy cơ tụt hậu xa hơn so với các nước trong khu vực và trên thế giới,
chệch hướng XHCN, nạn tham nhũng và quan liêu, diễn biến hòa bình.
ĐH Đảng lần VIII (8-1996) khẳng định nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu của thời kì quá
độ là chuẩn bị tiền đề cho CNH đã hoàn thành và cho phép ta chuyển sang thời kì CNH-HĐH đất
- nước. ĐH đề ra chỉ tiêu năm 2000 thông qua mục tiêu đến năm 2000 là xây dựng nước ta trở thành
nước Công nghiệp, cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ
phù hợp với tốc độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, an ninh
quốc phòng vững chắc, dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh.
nguon tai.lieu . vn