Xem mẫu
- Phòng và trị bệnh gạo trên cá tra
Từ đầu tháng 8 đến tháng 11 hàng năm lũ về ở các tỉnh
đồng bằng sông Cửu long sẽ cuốn trôi phèn, mang theo
nhiều vật chất hữu cơ phân huỷ, cuốn theo các mầm bệnh
từ thượng nguồn đổ về, cùng với độc tố thuốc bảo vệ thực
vật từ nội đồng ra kênh rạch, hậu quả sẽ làm thay đổi điều
kiện môi trường sống của các loài thuỷ sản nuôi. Cũng vào
giai đoạn này, nhiệt độ môi trường thường xuyên xuống
thấp (nhất là những ngày mưa kéo dài) càng làm cho chất
lượng nước có nhiều biến động tạo điều kiện cho sinh vật
gây bệnh cá phát triển, sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe
thủy sản nuôi, thậm chí làm cho cá bỏ ăn, suy yếu và dễ
mắc các dạng bệnh ký sinh trùng và vi khuẩn với mức độ
cảm nhiễm cao.
Ngoài bệnh gan, thận có mủ, bệnh vàng da…trong thời
gian gần đây các ao nuôi cá tra ở ĐBSCLnói chung và
Vĩnh Long nói riêng đã xuất hiện phổ biến hiện tượng cá
tra có những nang “gạo” lấmtấm trong cơ thể cá ở nhiều
dạng khác nhau và được phát hiện khi mổ cá để quan sát
nên gọi đây là bệnh “gạo”. Bệnh này tuy mới xuất hiện
- nhưng đã gây nhiều thiệt hại về kinh tế cho người nuôi cá
tra, khiến cho không ít người nuôi lo ngại và mất ăn mất
ngủ vì chúng. Khi ao cá bị nhiễm bệnh nặng có thể lây lan
rất nhanh, tuy tỉ lệ cá nhiễm bệnh chết không cao, nhưng cá
bệnh sẽ kém ăn, làm giảm năng suất và chất lượng thịt, do
đó các nhà máy chế biến thủy sản từ chối mua hoặc hạ
phẩm cấp chất lượng cá để mua giá rất thấp.
* Dấu hiệu bệnh lý: quan sát cá bệnh “gạo” không có biểu
hiện rõ ràng, chỉ thấy cá chết rải rác hàng ngày với số
lượng ít, cá chết có dấu hiệu của bệnh gan thận mủ hay
xuất huyết dễ gây nhầm lẫn cho người nuôi. Khi kiểm tra
cá bệnh, bên ngoài thấy da lốm đốm mất màu, một số cá da
sần, trên da có những chấm đen tròn hay vệt như dính mực,
tập trung nhiều ở vùng da mỏng như vùng lườn, bụng. Còn
cá bệnh nặng có những tổn thương trên da như bị thủng lỗ
nhỏ li ti, các tổn thương này không kèm vết xuất huyết. Khi
mổ cá bệnh, nội tạng cá ít biến đổi, gan thận bình thường,
túi mật hơi căng, dịch mật màu nhợt nhạt. Nang “gạo” xuất
hiện trong cơ thể cá là các vệt dài 1-3cm màu trắng đục,
trong chứa nhiều chất lỏng sệt nằm dọc theo cơ vùng sống
lưng cá. Một dạng khác “gạo” là các nang tròn, hình hạt
- gạo hay bầu dục, kích thước 1-3mm xuất hiện ở cơ dọc
sống lưng, trên ruột, màng ruột, màng dạ dày.
* Tác nhân gây bệnh: theo kết quả nghiên cứu tác nhân
gây bệnh “gạo” trên cá tra mới đây của TS Đặng Thị
Hoàng Oanh và nhóm cộng tác Bộ môn sinh học và bệnh
thủy sản, khoa Thủy sản - trường ĐH Cần Thơ, bằng
phương pháp PCR phát hiện trong cơ thể cá bào tử từ các
bào nang bị vỡ nhiễm vào tế bào chủ mới, phát triển tạo
bào nang mới. Cá tra nhiễm “gạo” là đang nhiễm 2 loài
nguyên sinh động vật có khả năng hình thành bào tử là
Microsporidia và Myxobolus sp.Trong ao nuôi cá và ngoài
tự nhiên đều có tác nhân nội ký sinh trùng gây bệnh, cá sẽ
nhiễm vi bào tử trùng này, lây từ nước qua mang, da; lây từ
mẹ sang con.
* Phòng và trị bệnh: hiện nay chưa có thuốc đặc trị hữu
hiệu loại bệnh này mà chủ yếu áp dụng các biện pháp ngăn
chặn sự lây nhiễm trong ao đang nhiễm bệnh và phòng
bệnh trong quá trình nuôi.Thế nhưng điều đáng quan tâm là
người nuôi cá khi thấy cá bệnh nóng lòng điều trị đã hỏi
mua thuốc thú y rồi “tự chế” ra nhiều cách trị bệnh khác
- nhau như dùng thuốc Praziquantel trị giun sán hay thuốc
Ivemectin để diệt các loài giun tròn trên cá hoặc men
rượu… Tất cả đều không hiệu quả, bệnh cá vẫn không hết
mà còn tốn kém. Áp dụng các phương pháp tổng hợp trong
việc phòng trị bệnh "gạo" được khuyến cáo mang lại hiệu
quả nhất:
- Quản lý sức khỏe và chăm sóc cá nuôi: khi cải tạo ao
phải khử trùng bằng vôi nung CaO liều cao, phơi đáy ao 3-
7 ngày;
+ Khi thả giống phải kiểm tra bệnh gạo, mổ khám 30-50
con cá, nếu phát hiện có cá nhiễm thì không nên thả nuôi.
+ Xi phông đáy ao định kỳ 2 tháng/lần đối với cá dưới
300g/con và 1 tháng/lần đối với cá trên 300g/con. Sau mỗi
lần xi phông đáy ao cần kết hợp xử lý nước.
+ Mổ khám cá ngay khi nhận thấy có biểu hiện bất
thường; khi phát hiện bệnh trong ao phải cách ly ao hoàn
toàn, khử trùng toàn bộ dụng cụ nuôi và xử lý triệt để xác
cá chết trong quá trình nuôi (vớt hết cá bệnh, cá chết khỏi
ao xử lý bằng cách nấu chín hay chôn hủy, không vứt xác
cá ra nguồn nước vì bào tử sẽ phóng thích và lây nhiễm
- sang các ao khác); tẩy cho toàn đàn bằng các hoạt chất có
tác dụng trên nguyên sinh động vật gây bệnh như
dẫn xuất của Benzimidazol,
Toltrazuril hay các
Mebendazole, Febendazol…
+ Vào những ngày trời se lạnh thì cần thiết giảm lượng cho
ăn và cho cá ăn vào thời điểm nhiệt độ nước ao có sự cân
bằng giữa tầng mặt và tầng đáy (lúc trời đứng bóng về
chiều). Khi hút bùn đáy ao xong, cần xử lý nền đáy và xử
lý cho nước ao trong trở lại mới cho ăn, bởi vì nếu cá phải
sống và bắt mồi ở vùng có tích tụ nhiều chất thải và khí độc
thì dễ xảy ra hiện tượng cá mất đi hứng thú bắt mồi. Bên
cạnh đó, nếu cá bắt mồi trong vùng nước nhiễm bẩn, cũng
sẽ tạo điều kiện cho tác nhân gây bệnh xâm nhập vào nội
tạng.
+ Với xu hướng hạn chế ô nhiễm môi trường do sử dụng
các hoá chất độc hại, thì việc dùng muối ăn (NaCl) và vôi
nông nghiệp (CaCO3) để phòng ngừa các bệnh này cho cá
tra nuôi được khuyên người nuôi sử dụng là an toàn và hiệu
quả nhất. Cả 2 loại trên cho vào túi vải (mỗi loại 1 túi) treo
ở 4 góc nơi cho cá ăn và nên bắt đầu treo khi cho cá ăn với
- liều lượng: Vôi: 1-2kg/túi, muối: 5-10kg/túi.Tuỳ theo qui
mô nuôi, diện tích nuôi và thể tích nước của đàn cá nuôi mà
thay đổi liều lượng. Định kỳ 10-15 ngày thực hiện 1 lần.
+ Nếu phát hiện cá có biểu hiện giảm ăn, nhào lộn dữ
dội, trên da và mang có nhiều nhớt, chết với số lượng ít và
tăng không đáng kể thì thực hiện treo vôi và muối liên tục
trong 3 ngày. Đối với mô hình nuôi ao hầm thì mỗi ngày
còn phải thay 10-15% thể tích nước trong ao.
+ Ngoài ra, nên sử dụng thêm lá xoan, dây giác, cỏ mực...
đập dập rồi bọc lại bằng lưới cước treo ở đầu bè hoặc ở chỗ
cho ăn với liều lượng 5-10kg/mỗi lần treo sẽ nâng cao hiệu
quả phòng ngừa các bệnh ngoại ký sinh trên cá trong mùa
mưa lũ.
Quản lý dịch bệnh
- Phải tuân thủ nguyên tắc " Phòng bệnh hơn trị
bệnh", định kỳ diệt mầm bệnh trong ao và tẩy giun sán cho
cá. Cần bổ sung Sorbitol và Vitamin C thường xuyên vào
thức ăn để tăng cường sức đề kháng cho cá khi môi trường
thay đổi.
- - Không nên nuôi cá với mật độ quá dày (tốt nhất từ 20 –
30con/m2), trong trường hợp cá nuôi bị bệnh, phải chẩn
đoán đúng tác nhân gây bệnh để có biện pháp điều trị thích
hợp, không được tùy tiện sử dụng kháng sinh và các hoá
chất, nhất là những loại nằm trong danh mục cấm hoặc hạn
chế sử dụng mà Nhà nước đã qui định.
- Định kỳ 10-15 ngày, để phòng bệnh cho cá và khử trùng
nước ao, dùng vôi nông nghiệp hòa nước và tạt đều khắp ao
với liều lượng 1,5-2kg/100m3 nước ao.Có thể dùng các loại
chế phẩm sinh học hoặc Chlorin, thuốc tím…để xử lý và
khử trùng nước ao nuôi.
- Thực hiện lắng, lọc và xử lý nước cấp để hạn chế mầm
bệnh xâm nhập vào ao nuôi
- Định kỳ 1 lần/tháng lấy mẫu thẩm tra các chỉ tiêu thuỷ lý,
thuỷ hoá, mầm bệnh trong ao xử lý nước cấp và lấy mẫu cá
(cá bệnh, cá yếu) để xét nghiệm tác nhân gây bệnh./.
Th.s Phạm Thị Thu Hồng – CHI CỤC THỦY SẢN Vĩnh
Long
nguon tai.lieu . vn