Xem mẫu

3 Xã hội học, số 3 - 2009 PHÒNG NGỪA XUNG ĐỘT XÃ HỘI VÕ KHÁNH VINH0FP∗ HỒ SỸ SƠNPF1∗F2∗ 1. Những luận điểm chung về phòng ngừa xung đột xã hội Công tác đấu tranh với tình hình xung đột xã hội có hai phương hướng có tác động hết sức chặt chẽ với nhau: phòng ngừa xung đột xã hội và giải quyết xung đột xã hội đã xảy ra trên thực tế. Nhìn từ nhiều phương diện, phòng ngừa xung đột xã hội quan trọng hơn nhiều so với giải quyết xung đột xã hội. Vì vậy, phòng ngừa xung phải được coi là hướng ưu tiên trong đấu tranh với tình hình xung đột xã hội. Phòng ngừa xung đột xã hội được hiểu là hệ thống các biện pháp, phương pháp, hình thức tác động ở những mức độ khác nhau đến các yếu tố của xung đột xã hội như chủ thể xung đột, động cơ xung đột, khách thể xung đột, các lực lượng và phương tiện được sử dụng trong xung đột v.v… nhằm khắc phục các nguyên nhân và điều kiện của xung đột xã hội hoặc vô hiệu hoá (làm suy yếu, hạn chế) chúng để giảm dần và tiến tới loại bỏ xung đột xã hội ra khỏi đời sống xã hội. Với tính cách là hoạt động có tính định hướng và tính mục đích rõ ràng, phòng ngừa xung đột xã hội có hình thức đa dạng tùy thuộc vào tính chất của những xung đột xã hội cụ thể. Hoạt động phòng ngừa xung đột xã hội thể hiện ở việc giải quyết cả những nhiệm vụ chung lẫn những nhiệm vụ riêng cụ thể. Tương ứng, phòng ngừa xung đột xã hội được thực hiện đồng thời ở hai hình thức hay là hai mức độ: mức độ chung toàn xã hội và mức độ cá nhân. Ở mức độ chung toàn xã hội, phòng ngừa xung đột xã hội hướng vào khắc phục hoặc làm vô hiệu những hiện tượng tiêu cực trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá - xã hội và các lĩnh vực khác “đang bào mòn” tính có tổ chức, tính liên kết thống nhất của đời sống xã hội và của Nhà nước. Sự trì trệ của nền kinh tế, sự gia tăng khoảng cách giàu nghèo trong xã hội, tính kém hiệu quả của hoạt động quản lý nhà nước, nạn tham nhũng ít bị đẩy lùi… là những nguyên nhân và điều kiện của những cuộc xung đột xã hội lớn nhỏ khác nhau. Chính vì vậy, bản chất của phòng ngừa xung đột xã hội ở mức độ toàn xã hội thể hiện ở chỗ, nó được thực hiện trong quá trình giải quyết những nhiệm vụ có phạm vi rộng lớn đứng trước xã hội và được đưa vào thực hiện các nhiệm vụ đó. Bất kỳ một cuộc xung đột xã hội nào cũng đều phản ánh những ∗ GS.TS Luật học, Phú Chủ tịch Viện Khoa học xó hội Việt Nam * * Tiến sĩ Luật học, Viện Nhà nước và Pháp luật Bản quyền thuộc viện Xã hội học www.ios.org.vn 4 Phòng ngừa xung đột xã hội. mâu thuẫn trầm trọng nhất trong lĩnh vực này hay lĩnh vực khác của đời sống xã hội. Vì vậy việc phát hiện, phân tích và lý giải một cách thấu đáo những mâu thuẫn làm phát sinh những xung đột xã hội có tính phổ biến nhất và sau đó tổng hợp chúng lại có ý nghĩa quan trọng đối với việc xác định phạm vi những vấn đề mang tính kinh tế, chính trị, văn hoá - xã hội và những vấn đề khác cần được ưu tiên giải quyết. Việc giải quyết những mâu thuẫn không mang tính chất đối kháng của sự phát triển xã hội, những vấn đề khó khăn của nó cũng như việc khắc phục những thiếu sót, khuyết điểm, lỗ hổng trong quản lý là cơ sở kinh tế, xã hội, chính trị của việc khắc phục các quá trình và hiện tượng quyết định xung đột xã hội. Do vậy, để phòng ngừa có hiệu quả xung đột xã hội, cần xây dựng và thực hiện nhất quán chính sách kinh tế, chính trị, văn hoá - xã hội vì lợi ích của toàn xã hội, củng cố và phát triển trật tự pháp luật và pháp chế, không ngừng nâng cao văn hoá tinh thần cho mọi người. Đồng thời cần có chiến lược phòng ngừa đã được cân nhắc kỹ phù hợp với sự phát triển xã hội và được các tầng lớp nhân dân đồng lòng ủng hộ. Ý nghĩa to lớn của phòng ngừa xung đột xã hội ở mức độ toàn xã hội, xét đến cùng là hình thành trong nhân dân những định hướng giá trị tôn trọng con người, chống lại việc dùng vũ lực, không chấp nhận việc can thiệp vào chính kiến của người khác v.v… Sự khoan dung, công khai minh bạch, biết lắng nghe ý kiến người khác… sẽ trở thành những hiện tượng xã hội phổ biến và “thấm vào máu và tâm hồn” của mỗi con người. Thứ “văn hoá dùng sức mạnh” tồn tại ở một số người sẽ nhanh chóng được xoá bỏ và thay vào đó là văn hoá tôn trọng con người, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Tất thảy những điều đó vừa là tiền đề vừa là kết quả của phòng ngừa xung đột xã hội. Ở mức độ cá nhân, phòng ngừa xung đột xã hội hướng vào khắc phục hoặc xoá bỏ nguyên nhân và điều kiện liên quan đến động cơ xung đột của các bên xung đột, từ đó đưa ra những phương pháp, biện pháp có tác dụng “bao vây” hoặc kìm hãm ngay từ đầu ý định “xung đột” của mỗi bên xung đột. Chẳng hạn, từ tranh chấp về ranh giới vườn rau, Nguyễn Văn A. quyết định sẽ “lấy một phần cà chua thuộc diện tích canh tác của người hàng xóm”. Biết được ý định của chồng, vợ của Nguyễn Văn A. khuyên chồng từ bỏ ý định “lấy cà chua” của người hàng xóm bằng cách so sánh chồng với tên trộm cắp tài sản đã làm cho người chồng hổ thẹn và từ bỏ ý định của mình. Chừng đó lời nói thôi cũng đủ để ngăn chặn xung đột xã hội xã hội không xảy ra. Việc khắc phục hoặc xoá bỏ những nguyên nhân và điều kiện liên quan đến động cơ của những xung đột xã hội mang tính hình sự có yếu tố dùng vũ lực giữa các cá nhân có ý đặc biệt quan trọng đối với phòng ngừa xung đột xã hội. Vì vậy, theo quy định của pháp luật, các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự bắt buộc phải chứng minh được động cơ phạm tội của người bị tình nghi, của bị can, của bị cáo, tức là phải chứng minh được “động lực bên trong” của chủ thể mà nội dung tâm lý của nó đã được xác định tương đối đầy đủ trong các khái niệm, phạm trù pháp lý từ trước đến nay. Việc phân tích một cách sâu sắc và chính xác các tình huống xung đột xã hội và động cơ Bản quyền thuộc viện Xã hội học www.ios.org.vn Võ Khánh Vinh – Hồ Sỹ Sơn 5 hành vi của các chủ thể khi sự xung đột chưa dẫn họ đến việc sử dụng vũ lực, cho phép các cơ quan bảo vệ pháp luật tránh được những sai sót trong hoạt động bảo vệ pháp luật của mình. Kinh nghiệm cho thấy rằng, hoạt động phòng ngừa những hành vi có sử dụng vũ lực trong đời sống hàng ngày phải được bắt đầu từ việc giám sát các tình huống có dấu hiệu của những cuộc xung đột xã hội kéo dài. Nói cách khác, hoạt động phòng ngừa những xung đột xã hội mang tính hình sự phải được gắn với chức năng của từng cơ quan bảo vệ pháp luật. Củng cố sự hợp tác giữa mọi người là một trong những hình thức phòng ngừa xung đột xã hội ở mức độ cá nhân có hiệu quả. Vấn đề là ở chỗ, trước khi xung đột xã hội xảy ra, các bên xung đột xã hội ít nhất cũng đã có quan hệ xã hội bình thường và có thể là đã có quan hệ hợp tác với nhau (trong trường hợp họ là cán bộ, công chức cùng cơ quan, tổ chức; hàng xóm láng giềng; các thành viên trong gia đình, tổ chức xã hội…). Trong những trường hợp này, phòng ngừa xung đột xã hội cần hướng vào củng cố và phát triển sự hợp tác hiện có giữa mọi người bằng một trong những phương pháp sau đây: a) Phương pháp hoà hợp: Bản chất của phương pháp phòng ngừa này thể hiện ở việc lôi cuốn những người có thể sẽ là đối phương của nhau cùng thực hiện công việc nào đó; b) Phương pháp “thân thiện”: Phương pháp này thể hiện ở việc “đặt” những người có thể là đối phương trong tương lai “vào hoàn cảnh của nhau” để họ thấu hiểu, thông cảm và giúp đỡ nhau khi gặp khó khăn, hoạn nạn; c) Phương pháp bảo vệ uy tín cho nhau: Theo phương pháp này, những người có thể là đối phương trong tương lai tôn trọng danh dự, không làm mất uy tín của nhau mặc dù tại thời điểm đó họ có lợi ích rất khác nhau; d) Phương pháp bổ sung cho nhau: Thực chất của phương pháp này thể hiện ở việc các bên có thể là đối phương trong tương lai “tiếp nhận” cá tính (đặc điểm) của nhau, nhờ đó mà sự tôn trọng và sự hợp tác giữa họ được cũng cố và phát triển; đ) Phương pháp loại bỏ sự phân biệt về mặt xã hội: Theo phươngpháp này, những người có thể là đối phương trong tương lai không thể hiện sự khác biệt về mặt xã hội cũng như không khẳng định sự ưu việt của mình so với người khác (dù rằng điều đó là có thể có). Có thể nói một cách ví von rằng, nếu như các anh làm việc có hiệu quả hơn những người khác, cũng không nên thể hiện mình là người chiến thắng; e) Phương pháp phân chia thành tích chung. Bản chất của phương pháp này thể hiện ở việc cùng được hưởng thành tích vốn là thành quả chung của những người cùng thực hiện công việc này hay công việc khác. Điều này cho phép mọi người tôn trọng lẫn nhau và cởi bỏ những tâm trạng tiêu cực như là cảm giác hổ thẹn, hận thù v.v…; g) Phương pháp khuyên răn về mặt tâm lý: Thực chất của phương pháp này là tác Bản quyền thuộc viện Xã hội học www.ios.org.vn 6 Phòng ngừa xung đột xã hội. động đến tâm lý bằng những lời phân tích nhẹ nhàng giúp cho người được phân tích nhận thức ra vấn đề. Chẳng hạn, khi nghe được thông tin về người đồng hành phản bội vợ (hoặc chồng) hoặc có thể thực hiện sự phản bội đó trong tương lai, cần thảo luận nhẹ nhàng về những hậu quả của những việc làm đó v.v…; h) Phương pháp “xoa dịu” về mặt tâm lý: Phương pháp này thể hiện ở những hoạt động giúp cho con người duy trì được trạng thái tâm lý ổn định, phẩm chất tốt đẹp, giảm bớt căng thẳng, thân thiện với mọi người. Những phương pháp nêu trên đây, xét đến cùng đều có vai trò củng cố và phát triển sự hợp tác giữa con người và con người trong xã hội. Tất nhiên, không chỉ có những phương pháp trên đây mới có vai trò đó. Bất kỳ một phương pháp nào nếu hướng vào củng cố niềm tin và sự tôn trọng con người đều có thể cũng cố và phát triển sự hợp tác giữa mọi người trong xã hội, đều góp phần phòng ngừa xung đột xã hội và khi xung đột xảy ra đều có thể góp phần giải quyết nó một cách nhanh chóng và có hiệu quả. 2. Pháp luật hoá xung đột xã hội để phòng ngừa xung đột xã hội Một trong những phương thức phòng ngừa xung đột xã hội có hiệu quả là pháp luật hoá xung đột xã hội. Chính vì vậy, vấn đề pháp luật hoá xung đột xã hội được nhiều quốc gia quan tâm giải quyết. Vậy, đâu là thực chất của vấn đề? Vấn đề là ở chỗ, trước sự gia tăng của các cuộc xung đột xã hội vốn rất đa dạng về tính chất, phạm vi, quy mô… nhiều quốc gia trong vai trò là người đại diện và bảo vệ quyền và lợi ích của công dân cố gắng tìm kiếm các giải pháp nhằm giải quyết tận gốc vấn đề xung đột xã hội. Một trong những giải pháp đó là pháp luật hoá xung đột xã hội; thành lập các tổ chức trung gian mang tính chất trung lập, dân chủ, phi chính trị để tham gia giải quyết xung đột xã hội; thành lập cơ quan nghiên cứu có chức năng thuần tuý là thực nghiệm và tư vấn về xung đột xã hội. Cần lưu ý rằng, việc thành lập các tổ chức và cơ quan nói trên cũng quyết định nhu cầu pháp luật hoá xung đột. Chẳng hạn, thiếu các quy định pháp luật về trật tự hoá diễn biến xung đột, các cơ quan và tổ chức đó không có cơ sở pháp lý để có thể giải quyết một cách thấu đáo mọi khía cạnh của cuộc xung đột, không thể phân tích và đánh giá một cách tường tận xung đột xã hội để có thể đưa ra những kiến nghị có cơ sở và tính khả thi nhằm phòng ngừa và giải quyết tận gốc xung đột xã hội. Tuy nhiên, sự gia tăng mạnh mẽ của tình hình xung đột xã hội mới là yếu tố quyết định mạnh mẽ nhất đối với nhu cầu pháp luật hoá xung đột xã hội để phòng ngừa xung đột xã hội. Pháp luật hoá xung đột xã hội được hiểu là việc trật tự hoá bằng pháp luật diễn biến của xung đột xã hội nhằm điều chỉnh” hay “quản lý” xung đột xã hội, thông qua đó phòng ngừa và giải quyết nó một cách dễ dàng và có hiệu quả. Khi được ban hành và bảo đảm thực hiện, các quy định pháp luật về xung đột xã hội có ý nghĩa hết sức to lớn đối với việc phòng ngừa xung đột xã hội bởi pháp luật hoá Bản quyền thuộc viện Xã hội học www.ios.org.vn Võ Khánh Vinh – Hồ Sỹ Sơn 7 xung đột xã hội như đã nhấn mạnh, tạo ra những khả năng cho việc trật tự hoá diễn biến của xung đột xã hội và sau đó là điều chỉnh (quản lý) xung đột xã hội một cách dễ dàng và có hiệu quả hơn. Quá trình pháp luật hoá xung đột xã hội, một mặt tạo ra khả năng trật tự hoá diễn biến của xung đột xã hội làm cơ sở cho việc điều chỉnh (quản lý) nó một cách dễ dàng hơn, mặt khác cũng có thể gây ra những khó khăn nhất định cho việc giải quyết xung đột xã hội bởi lợi ích được pháp luật hoá có thể “nhỏ hơn”cũng như có thể khác với lợi ích của đại bộ phận những người tham gia xung đột xã hội. Vì vậy, khi xây dựng các quy định pháp luật hướng vào phòng ngừa xung đột xã hội cần tính đến tính phức tạp của vấn đề pháp luật hoá xung đột xã hội. Cần lưu ý rằng không có xã hội mà ở đó bất kỳ một đòi hỏi nào có tính chất đối kháng lại được thừa nhận ngay lập tức mà không hề bị cản trở. Chẳng hạn, việc một số cá nhân hoặc nhóm cá nhân vin cớ cho rằng đối với con người “không có gì là không được phép làm” đã cố gắng “quậy phá” để đạt được điều không thể có hay như tình trạng hoạt động kém hiệu quả của chính quyền không thể dẫn đến pháp luật hoá xung đột mà là dẫn đến tình trạng gia tăng xung đột không thể kiềm chế được. Cũng cần lưu ý rằng, việc xây dựng các quy phạm pháp luật nhằm giải quyết xung đột xã hội có thể đem lại hiệu quả điều chỉnh từng phần. Tính chính xác của ý kiến này được khẳng định bởi sự thất bại của một số nước trong kế hoạch chấm dứt xung đột sắc tộc bằng một loạt sắc lệnh cho phép dân cư được trang bị vũ khí hoặc ban bố và thực hiện tình trạng đặc biệt. Có thể khẳng định rằng, xây dựng các quy định pháp luật nhằm phòng ngừa và giải quyết xung đột xã hội là công việc có tính chất lâu dài, khó khăn và phức tạp. Cố nhiên, đây là công việc không thể không thực hiện dù phải tính đến các điều kiện và hoàn cảnh của từng vùng, từng dân tộc trong giai đoạn quá độ lịch sử nhất định. 3. Cơ chế tác động và điều chỉnh xung đột xã hội bằng quy phạm Khi bàn về pháp luật hoá xung đột xã hội, trước hết không thể không đề cập đến ý nghĩa của cơ chế tác động và điều chỉnh xung đột xã hội bằng quy phạm. Các quy phạm được coi là các bộ phận cấu thành của chế định vì trong mọi trường hợp, không có các quy phạm thì các chế định cũng không tồn tại. Cũng như các quan hệ xã hội, xung đột xã hội ở mức độ này hay mức độ khác được điều chỉnh bằng những quy phạm xã hội vốn khác nhau về tên gọi và nội dung: các quy phạm pháp luật, các quy tắc đạo đức, các quy phạm tôn giáo, các quy phạm chính trị v.v… Tất nhiên, việc sử dụng quy phạm nào để điều chỉnh xung đột xã hội là tuỳ thuộc bản chất của quy phạm, hoàn cảnh xã hội cũng như tính chất của xung đột xã hội. Các quy phạm đạo đức tác động mạnh mẽ đến hành vi của con người vì vậy, chúng có ý nghĩa đối với việc điều chỉnh (quản lý) xung đột xã hội. Bất kỳ một cuộc xung đột xã hội nào cũng thể hiện các quan niệm về cái thiện và cái ác, hành vi đúng đắn và Bản quyền thuộc viện Xã hội học www.ios.org.vn ... - tailieumienphi.vn
nguon tai.lieu . vn