Xem mẫu

  1. VĂN HÓA - NGHỆ THUẬT PHONG CÁCH THỂ HIỆN CA KHÚC DÂN GIAN ĐƯƠNG ĐẠI PHẠM NGỌC KHUÊ* Tóm tắt Trong bức tranh tổng thể của ca khúc Việt Nam những năm gần đây, thể loại ca khúc dân gian đương đại mang giá trị sáng tạo văn hóa độc đáo, có thể coi như một nhịp cầu, nối giữa quá khứ và hiện tại trên phương diện văn hóa nghệ thuật. Đây là một hướng đi đúng đắn, mang lại nhiều thành công cho các nhạc sỹ/ca sỹ trẻ, khi kết hợp giữa tinh hoa âm nhạc truyền thống với những phương pháp sáng tác, kỹ thuật biểu diễn âm nhạc của thế giới, để sáng tạo và trình diễn một thể loại ca khúc mang hơi thở thời đại và bản sắc văn hóa Việt Nam. Bài viết mong muốn mang đến một cái nhìn chân thực, khách quan về ca khúc dân gian đương đại trong giai đoạn hiện nay và chỉ ra một số vấn đề về phong cách thể hiện được rút ra từ kinh nghiệm thực tiễn biểu diễn ca khúc dân gian đương đại của người viết. Từ khóa: Ca khúc dân gian đương đại, nhạc trẻ, phương pháp biểu diễn Abstract In the overall picture of Vietnamese songs recent years, the contemporary folk songs genre contains unique cultural creativity values, which can be considered as a link, connecting the past and the present on the aspects of culture and art. This is a right direction which brings many successes for young musicians/ singers, when they combine the quintessence of traditional music with the composing methods, musical performance techniques of the world in order to creates and performs a genre of songs that contains a breath of the age and Vietnamese cultural identity. The article would like to bring a realistic, objective view of contemporary folk songs in the current period and point out some issues of performance style drawn from author’s practical experience of performing contemporary folk songs. Keywords: Contemporary folk songs, young music, performance styles 1. Nhận thức về thể loại ca khúc dân gian bản sắc văn hóa Việt Nam trong quá trình hội đương đại nhập văn hóa mang tính toàn cầu. Về phương diện thực tiễn Ca khúc dân gian đương đại là một hiện Trong nhiều thể loại ca khúc ở Việt Nam tượng văn hóa không phải ngẫu nhiên xuất hiện nay, có một thể loại cho thấy sự liên hệ hiện. Sự hiện diện của nó là hệ quả tất yếu của với truyền thống văn hóa, đó là những ca khúc cả một quá trình tiếp biến văn hóa dựa trên cơ mang yếu tố văn hóa dân gian. Những ca khúc sở nền tảng truyền thống văn hóa dân tộc Việt này được gọi chung là thể loại ca khúc dân gian Nam. Trên dòng chảy của lịch sử, bất cứ ở giai đoạn nào, văn hóa dân tộc luôn tự làm giàu đương đại. Sự hiện diện của thể loại này đã đưa bằng sự bồi đắp những yếu tố văn hóa ngoại công chúng trở lại với những giá trị tốt đẹp của sinh. Âm nhạc cũng không nằm ngoài quy luật văn hóa truyền thống trong một diện mạo mới đó, nó luôn là yếu tố động, cho dù hình thức đầy thú vị. Suy rộng hơn, đó là phát huy được vận động của nó có thể là sôi động hay thầm lặng. Một hiện tượng văn hóa - âm nhạc mới ở * ThS., Khoa Quản lý văn hóa nghệ thuật, Trường ĐHVHHN thế kỷ XX cũng là kết quả của quá trình chọn Số 32 (Tháng 6 - 2020) VĂN HÓA NGHIÊN CỨU 65
  2. VĂN HÓA NGHIÊN CỨU lọc, chắt lọc giữa âm hưởng âm nhạc Việt Nam học thuật, cũng không phải là một thuật và âm hưởng âm nhạc phương Tây. ngữ trong âm nhạc, mà là một cách gọi để Trong quá trình phát triển của ca khúc Việt chỉ một thể loại ca khúc viết theo hệ thống Nam, ở giai đoạn nào cũng có những bài hát lý thuyết âm nhạc phương Tây nhưng mang chứa đựng trong nó những biểu hiện của âm trong nó những yếu tố dân gian Việt Nam. nhạc dân gian. Ngay từ khi mới xuất hiện nền Cụm từ ca khúc dân gian đương đại mới xuất tân nhạc ở đầu thế kỷ XX, các tác phẩm âm nhạc hiện ở Việt Nam hơn chục năm nay, đặc biệt được viết dựa trên nền tảng âm nhạc phương gần đây thường xuyên xuất hiện trên truyền Tây, song các nhạc sỹ cũng đã đưa nhiều chất thông, trong các cuộc thi có phân chia các thể liệu của âm nhạc dân gian truyền thống Việt loại giọng hát, hay trong chương trình Bài hát Nam vào trong sáng tác của mình. Các nhạc Việt trên sóng VTV3. Mục đích là để phân biệt sỹ trong thời kỳ này như Văn Cao, Phạm Duy, giữa những ca khúc này với các bài hát mang Thẩm Oánh,… sáng tác nhiều ca khúc mang phong cách Pop, Rock, thính phòng… Mặc âm hưởng dân ca được công chúng đón nhận dù còn có những cách hiểu khác nhau, nhưng nồng nhiệt. nhìn chung có hai luồng ý kiến chủ yếu: 1) Ca Giai đoạn 1954 - 1975, do bối cảnh của lịch khúc dân gian đương đại là một thể loại; 2) Ca sử và sự phân hóa về thể chế chính trị, nền âm khúc dân gian đương đại là một cách gọi. nhạc Việt Nam chia làm 2 nhánh với sự khác Nhìn nhận ca khúc dân gian đương đại là biệt rõ rệt: nhánh âm nhạc cách mạng (ở miền một thể loại, nhạc sỹ Nguyễn Cường cho rằng: Bắc XHCN và Mặt trận Dân tộc Giải phóng Đó là các bài hát muốn nhấn mạnh rằng nó gần miền Nam); nhánh âm nhạc của chế độ Việt gũi với dân ca và muốn trở thành cái gọi là dân Nam Cộng hòa (miền Nam Việt Nam). Âm nhạc ca mới trong đời sống mới. Ca khúc được gọi là cách mạng với tinh thần chủ đạo là ngợi ca dân gian đương đại ngoài yếu tố giai điệu mang tình yêu quê hương đất nước, động viên quần âm hưởng dân ca, gần gũi với dân ca thì còn có chúng nhân dân xây dựng CNXH và thể hiện cả yếu tố khác như cách phối khí, cách trình bày, khát vọng ý chí thống nhất đất nước. Nhiều trang phục biểu diễn… Nó bộc lộ sự phát triển ca khúc cách mạng Việt Nam xuất hiện trong của âm nhạc Việt Nam tới mức độ phân chia thời kỳ này có nội dung và ngôn từ mang âm thành phong cách âm nhạc riêng. Thế giới có hưởng, màu sắc dân gian. Các nhà nghiên cứu Pop, Rock, R&B, Hip hop… thì Việt Nam có dân âm nhạc gọi là ca khúc trữ tình mang phong gian đương đại. Nói cách khác, nó như là thể loại cách dân gian. Thực chất, nó là một nhánh của của âm nhạc Việt Nam [1, tr.33]. Tác giả Nguyễn thể loại ca khúc trữ tình ở giai đoạn này. Nhìn Vĩnh Tiến, người có nhiều ca khúc sáng tác trên nhiều bình diện, có thể thấy việc bám sát theo thể loại này cũng đưa ra nhận định: Ca hiện thực đời sống và thực tiễn cách mạng vẫn khúc dân gian đương đại là một thể loại có sự kết là nét chủ đạo của ca khúc trữ tình. Các nhạc hợp của yếu tố dân gian và yếu tố đương đại. Hai sỹ đã sáng tạo ra nhiều sản phẩm tinh thần là yếu tố này đi song hành với nhau chứ không loại những ca khúc mang đậm chất dân ca. Màu bỏ nhau. Các tác giả vẫn dùng hơi thở thời đại, sắc dân ca của vùng châu thổ Bắc Bộ được ngôn ngữ đương đại để nói vấn đề hôm nay [15]. thể hiện trong các ca khúc như: Đóng nhanh Nhạc sỹ Lê Minh Sơn, trong một cuộc phỏng lúa tốt (Lê Lôi - Huyền Tâm), Lúa mới (Nguyễn vấn nói về sự thưa vắng của loại bài hát dân Đức Toàn), Lúa vàng (Mạc Hy), Cấy chiêm (Tô gian đương đại trên sâu khấu Bài hát Việt, cho Vũ - Quách Vinh); chất liệu hò sông nước của rằng: “Việc tìm ra một bài hát đi vào lòng người cư dân đồng bằng Nam Bộ được chưng cất là chuyện không dễ dàng. Tác giả viết loại ca và hiện diện trong các ca khúc như: Lên ngàn, khúc này phải là người có khát vọng thể hiện cái Mùa lúa chín (Hoàng Việt)… tôi Việt Nam và thoát khỏi sự ảnh hưởng quá lớn Về phương diện lý luận của nhạc nước ngoài” [8,tr.36]. Ca khúc dân gian đương đại thực sự chưa Tác giả bài viết đồng tình với quan điểm được phát triển thành khái niệm có tính chất của các nhạc sỹ nói trên khi cho rằng, ca khúc 66 Số 32 (Tháng 6 - 2020)
  3. VĂN HÓA - NGHỆ THUẬT dân gian đương đại là một thể loại đặc trưng làm giảm chất lượng của ca khúc. Với vai trò vô của âm nhạc Việt Nam. Các ca khúc được các cùng quan trọng, phối khí trước hết là sự phối nhạc sỹ đương đại sáng tác, ít nhiều đều khai hợp nhiều nhạc cụ cùng loại hoặc khác loại. thác chất liệu từ âm nhạc dân gian Việt Nam. Điều quan trọng nhất trong ý thức của người 2. Những yêu cầu đặt ra đối với nghệ sỹ biểu nghệ sỹ phối khí là làm sao âm thanh của các diễn ca khúc dân gian đương đại loại nhạc cụ không được lấn át lẫn nhau, biết tôn nhau để tạo nên vẻ đẹp của nghệ thuật. Sau khi được sáng tác, tác phẩm âm nhạc Nghệ sỹ phối khí phải biết tận dụng những đương nhiên trở thành đứa con tinh thần của ưu thế của hòa thanh, phức điệu, tiết tấu, giai riêng người nhạc sỹ viết ra nó, nhưng để trở điệu, âm sắc,... để thực hiện bằng được ý đồ thành một sản phẩm âm nhạc, tác phẩm phải của tác giả. Phối khí vừa mang tính khoa học, được đưa đến công chúng và phải có đời sống vừa mang tính nghệ thuật, dẫu vậy, nó vẫn là trong công chúng. Quá trình đó được thực thứ do con người sáng tạo ra, do đó, con người hiện thông qua các nghệ sỹ trình diễn (nhạc sỹ có thể thay đổi nó theo thẩm mỹ của thời đại. phối khí, ca sỹ thể hiện). Nhìn nhận vấn đề như Phối khí cho ca khúc nói chung, đến thời vậy để thấy rằng, bên cạnh vai trò của người điểm hiện tại, phần nhạc đệm vốn được xây nghệ sỹ sáng tác thì nghệ sỹ trình diễn cũng dựng trên nền tảng của tư duy hòa thanh cổ có vai trò nhất định để làm nên sự thành công điển phương Tây. Đó là những kiểu hợp âm của tác phẩm âm nhạc. Chính vì vậy, trong đời có cấu tạo dựa theo nguyên tắc âm nhạc học, sống âm nhạc, nhiều ca khúc, bài hát trở nên được liên kết với nhau theo những hệ thống nổi tiếng, có chỗ đứng trong lòng công chúng công năng nhất định. Chúng thường được âm một phần là nhờ nghệ sỹ thể hiện thành công hình hóa dựa theo những mô hình nhịp điệu và có bản phối khí hay. Nhiều tên tuổi nghệ khác nhau để phù hợp với nội dung, tính chất sỹ/ca sỹ gắn với những ca khúc nổi tiếng như: của từng ca khúc. Do tính khoa học cũng như Nghệ sỹ nhân dân Thu Hiền với ca khúc Câu hò sự thuận lợi khi biểu diễn, kiểu phối khí này trên bến Hiền Lương (sáng tác Hoàng Hiệp, thơ hầu như đã thành công thức chung cho hầu Đằng Giao), Nghệ sỹ Anh Thơ với ca khúc Xa hết các ca khúc đang thịnh hành [9, tr.63]. khơi (sáng tác Nguyễn Tài Tuệ), nghệ sỹ Tùng Dẫu có thể coi đó là mẫu số chung, nhưng Dương với ca khúc Quê nhà (sáng tác Trần ở mỗi thể loại ca khúc vẫn rất cần có những tư Tiến), nghệ sỹ Ngọc Khuê với ca khúc Bà tôi duy phối khí khác nhau. Với ca khúc dân gian (sáng tác Nguyễn Vĩnh Tiến)… Đây là những ca đương đại, một phần do ý thức thể loại, phần khúc mang âm hưởng dân gian được các nghệ còn lại do ý đồ khơi gợi cho công chúng hướng sỹ thể hiện thành công, ghi dấu ấn trong lòng tới sự liên tưởng về không gian âm nhạc truyền khán giả. Tuy nhiên, để thể hiện thành công thống, nên hầu hết bản phối luôn có bóng những ca khúc dân gian đương đại, thì phong dáng của yếu tố âm nhạc dân gian thông qua cách phối khí của nhạc sỹ và cách hát của ca sỹ các câu nhạc cũng như các loại nhạc khí dân là những yếu tố vô cùng quan trọng, là điểm gian được sử dụng. Điều này đang trở thành tạo nên sự khác biệt giữa dòng nhạc dân gian một tiêu chí cần thiết, đảm bảo cho sự thành đương đại với các dòng nhạc khác. công của tác phẩm. Đối với nhạc sỹ phối khí Kết hợp các nhạc khí dân gian với nhạc Không giống như một số nước có nền âm khí phương Tây trong dàn nhạc không phải là nhạc hàn lâm lâu đời, ở Việt Nam, khá nhiều việc làm mới mẻ, nhưng bối cảnh những năm nhạc sỹ sáng tác ca khúc (chủ yếu một bè) gần đây, thì việc làm đó cũng đáng trân trọng. nhưng họ lại không phối khí. Phối khí tốt làm Trong không gian ồn ã, sôi động của nhịp sống cho ca khúc trở nên hoàn thiện hơn, hay hơn công nghiệp nơi đô thị, qua sự trình diễn của nếu nhạc sỹ phối khí nắm được nội dung và ý người nghệ sỹ, âm thanh của đàn bầu, nhị, sáo, đồ của tác giả ca khúc; ngược lại, không hiểu trưng, đinh pá, đàn goong,... vang lên trong bài được ý đồ của tác giả, nghệ sỹ phối khí có thể sẽ hát đã tạo ra sự ấm áp, gần gũi và sảng khoái Số 32 (Tháng 6 - 2020) VĂN HÓA NGHIÊN CỨU 67
  4. VĂN HÓA NGHIÊN CỨU cho người nghe. Đó cũng là cách mà nhạc sỹ chuông trai làng, Nhịp điệu cao nguyên,... đều sử phối khí muốn dẫn dắt người nghe hướng về dụng đàn gong, ki pá, t’rưng trong dàn nhạc. những không gian thôn dã của các vùng quê. Có thể kể thêm một số ca khúc mà khi phối Trong kỹ thuật thanh nhạc truyền thống khí các nhạc sỹ không quên sử dụng nhạc cụ của người Việt nói chung, của các dân tộc dân tộc hay âm hưởng của nhạc cụ dân tộc, thiểu số nói riêng ở Việt Nam, nhiều loại dân ca như: Trên đỉnh Phù Vân (Phó Đức Phương), thường có những nhạc cụ mang tính đặc thù Duyên nợ tang bồng (Nguyễn Văn Tân) sử dụng để đệm cho nó. Nói cách khác, do tính thẩm nhị; Lạnh thu đếm tình (Lê Võ Tuân), Tìm về tuổi mỹ của dân tộc, trên phương diện âm thanh, thơ (Quang Hưng - Phạm Kim Anh), Thư pháp trải qua nhiều năm, trong tiềm thức của người (Nguyễn Duy Hùng) sử dụng sáo trúc; Lời ru Âu thưởng thức, cứ nói tới một loại nhạc cụ nào là Lạc (Nguyễn Minh Sơn), Độc huyền cầm (Bảo người ta nghĩ ngay tới vai trò của nó với một Lan) có sự tham dự của đàn bầu; Dời đô ngàn loại dân ca tương thích. Chẳng hạn: tính tẩu năm vang mãi (Nguyễn Tiến) có sử dụng tiếng dùng đệm cho hát then; đàn bầu, sáo nhị dùng kèn so na… đệm cho hát chèo, hát xẩm; đàn đáy cho hát Đối với ca sỹ trình diễn ca trù; kèn so na cho hát tuồng; đàn nguyệt Khi ca sỹ trình diễn, đưa ca khúc đến với dùng đệm ngâm thơ; mõ đệm cho tụng kinh... công chúng, có thể coi như là công đoạn cuối Chính những điều đó, đã gợi cho nhạc sỹ phối cùng của sự sáng tạo tác phẩm âm nhạc. Do khí có cách tư duy mới trong việc kết hợp với đó, cách hát và cách trình diễn trên sân khấu nhạc khí phương Tây, hoặc kết hợp giữa các của ca sỹ là vô cùng quan trọng, không kém nhạc khí dân tộc với nhau trong dàn nhạc sẽ khâu sáng tác và phối khí. tạo được hiệu ứng dân gian như mong muốn. Đã có một thời gian khá dài, kỹ thuật thanh Nghiên cứu này không nhằm mục đích đi nhạc ở nước ta thường lấy theo hệ quy chiếu tìm hiểu thủ pháp kết hợp giữa nhạc khí dân chuẩn là âm nhạc kinh viện cổ điển phương gian và nhạc khí phương Tây của các nhạc sỹ, Tây. Học và hát trong các nhạc viện hay trường mà chỉ muốn thông qua đó thấy được cách nghệ thuật đều phải hát theo kỹ thuật Bel phối khí của người nhạc sỹ cũng như tinh canto. Theo nhà sư phạm Trung Kiên, phong thần, thành tố âm nhạc dân gian được thể cách hát Bel canto mang tính khí nhạc, nghĩa hiện trong tác phẩm. Vì vậy, chúng tôi chỉ lấy là xem giọng hát như một nhạc khí. Người ca một vài ví dụ có tính tiêu biểu mà các nhạc sỹ sỹ luyện tập cho giọng hát phát triển, nắm phối khí sử dụng nhạc cụ dân tộc thực thụ, hay vững kỹ thuật thanh nhạc khác nhau như hát mô phỏng lại âm thanh của nhạc cụ dân tộc, liền giọng, hát thanh, âm nảy, hoa mỹ, hát vuốt chẳng hạn: Trong ca khúc Bà tôi và Giọt sương nhỏ dần,... sử dụng những kỹ thuật này hết sức bay lên của Nguyễn Vĩnh Tiến, bên cạnh dàn nhạc nhẹ, nhạc sỹ phối khí còn dùng thêm điêu luyện và hợp lý trong mối quan hệ giữa đàn bầu, mõ,... cho phù hợp âm nhạc tụng giai điệu và lời ca không làm âm thanh nặng kinh có trong bài hát. Các ca khúc Về quê (Phó nề, ảnh hưởng tới âm sắc. Không vì mục đích Đức Phương), Tiếng hát bên dòng sông Trà (Vũ rõ lời mà áp dụng cách hát như nói [5, tr.181]. Thiết), Bức tranh quê (Thanh Nghị),... cũng Thể loại ca khúc dân gian đương đại có được người phối khí sử dụng đàn bầu, sáo,... những yêu cầu đối với ca sỹ khác với các thể tạo ra tính chất âm nhạc thanh bình vốn có loại ca khúc khác như cổ điển thính phòng, của những làng quê thuộc châu thổ Bắc Bộ. bolero, nhạc cách mạng... Ca sỹ thể hiện có thể Một số ca khúc của Mạnh Trí viết về đề tài Tây thỏa sức sáng tạo dựa trên nền tảng kỹ thuật Nguyên, trong cách phối, nhạc sỹ luôn đề cao thanh nhạc được học. Nhưng quan trọng hơn sắc thái âm nhạc vùng miền. Chẳng hạn: Bài cả, ca sỹ trình bày cần tìm hiểu rõ tác phẩm ca trên đồi, Chờ em xuống núi có sử dụng tiếng được tác giả sáng tác dựa trên âm hưởng dân sáo tiêu để dẫn dắt; Khúc Ei rei mùa xuân, Rừng gian vùng miền nào, để khi thể hiện có thể vận núi hát tình ca, Bơ hơ mùa cà phê em hát, Tiếng dụng cách luyến láy cho đúng với vùng miền 68 Số 32 (Tháng 6 - 2020)
  5. VĂN HÓA - NGHỆ THUẬT đó vào một câu hoặc một đoạn trong bài hát. không ngại ngần và sẵn sàng khẳng định mình Ví dụ, bài hát Làng quan họ quê tôi của nhạc sỹ thông qua cách hát dựa vào hồn cốt của kỹ Nguyễn Trọng Tạo được viết trên chất liệu dân thuật hát dân gian. Những ca sỹ đi theo hướng gian Bắc Bộ - dân ca quan họ Bắc Ninh. Khi thể này đã tạo nên một phong cách mới: phong hiện bài hát này, ca sỹ không nhất thiết phải cách dân gian và được công chúng chấp nhận. luyến láy cả bài (hự - hạ - hồi - hư…) như đúng Phong cách này cũng được định hình qua các cách dân gốc hát quan họ Bắc Ninh, mà có thể cuộc thi liên hoan tiếng hát truyền hình như luyến, nhấn những câu hoặc từ nào đó làm nổi Sao Mai, Sao Mai điểm hẹn, Bài hát Việt, Việt lên được đặc trưng vùng miền của bài hát. Nam Idol, Giọng hát Việt (The Voice)... Nhiều ca Trong xu thế hội nhập mang tính toàn cầu sỹ như Anh Thơ, Tân Nhàn, Ngọc Khuê, Tùng hiện nay, nhiều nước nhận ra rằng, cần phải Dương, Khánh Linh, Hà Linh, Nguyễn Trần bảo vệ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, Trung Quân,... đã thành danh từ sân khấu này vùng miền. Với nước ta, nhiều năm trở lại đây, và cũng chính từ dòng nhạc này. bản sắc văn hóa dân tộc luôn được Đảng ta Khi trình diễn bài hát dân gian đương đại, quan tâm một cách đúng mức. Điều đó đã giúp ca sỹ không phụ thuộc quá nhiều vào kỹ thuật cho những người làm văn nghệ nói chung và thanh nhạc phương Tây, mà họ tìm cách kết làm âm nhạc nói riêng, có cơ sở nhận thức lại hợp giữa cách hát ta và Tây, xử lý sao cho tinh nhiều vấn đề có liên quan đến nó. Trong thanh tế ra chất dân gian của bài hát trong một môi nhạc, mặc dù cách hát Bel canto là kinh điển, trường mới, ý thức mới. Thường thì những đặc nhưng nó không phải là mô hình để áp dụng trưng của văn hóa vùng miền như phương cho tất cả các nền thanh nhạc. ngữ, âm điệu, luyến láy,... luôn được các ca sỹ So với cách hát dân ca, hay hát trên sân quan tâm khai thác triệt để. khấu cổ truyền Việt Nam, kỹ thuật Bel canto Vận dụng cách đệm xuyên tâm trong chèo làm có nhiều điểm khác biệt. Hát quan họ, ca trù nhạc nối giữa hai câu hát. Kiểu đệm này chúng chủ yếu với kỹ thuật vang, rền, nền, nảy; hát ta bắt gặp trong Về miền ca dao (Khánh Vinh), chèo cần sự nhẹ nhàng, nền nã, mượt mà; hay Trầu không (Quang Hưng - Phạm Kim Anh), Độc đặc điểm nổi trội của tuồng là thể hiện rất huyền cầm (Bảo Lan), Vội (Đức Nghĩa), Về quê rõ cái hùng và cái bi, nhiều khi diễn viễn vừa (Phó Đức Phương), Huế thương, Ca dao em và tôi diễn xuất, vừa múa và hát. Vì thế, các nghệ sỹ (An Thuyên), Sông quê (Nguyễn Trọng Tạo)... tuồng phải vận dụng khí để hát căng, đôi khi Vận dụng cách đệm bè tòng của âm nhạc cường điệu. Nhạc sỹ Lê Yên cho rằng: Tuồng dân gian. Đệm bè tòng là câu nhạc đệm có truyền thống là loại hình mang những nội dung trong hát then, hát văn, chèo ca Huế, tài tử - cải cần thể hiện bằng sự khoa trương, căng cứng lương và một số loại dân ca khác. Đó là những đến bạo liệt, cho nên cũng một làn điệu, nếu câu nhạc “luồn lách”, đôi khi phần vocal của bề chỉ hát kiểu bình thường thì giọng đẹp mấy, kỹ đệm bám theo giai điệu của ca sỹ đang trình thuật điêu luyện mấy đi chăng nữa, cũng chưa diễn, bởi các nhạc cụ điện tử, truyền thống được công nhận là hát tuồng... Ngữ khí chủ yếu một cách ngẫu hứng, đôi khi nằm ngoài ý của hát tuồng là thứ cần vận dụng một áp suất đồ của nhạc sỹ phối. Những trường hợp này mạnh, nặng kể cả khi nói thầm [4, tr.91]. Đây là xuất hiện trong bản phối của các ca khúc Huế những điều mà trong hát Bel canto không có. thương (An Thuyên), Gió mùa về (Lê Minh Sơn), Nếu ca sỹ nắm bắt và nhìn nhận được những Ông tôi (Nguyễn Vĩnh Tiến), Hát mãi bài trường điều khác biệt này, để vận dụng khi biểu diễn ca Đam San (Mạnh Trí)... các bài hát dân gian đương đại thì sẽ đem lại Một yếu tố nữa không thể không đề cập hiệu quả như mong muốn. tới, đó là trang phục và phong cách biểu diễn Những năm gần đây, do nhận thức về vai của ca sỹ. Khi biểu diễn những ca khúc dân trò quan trọng của bản sắc văn hóa dân tộc đối gian đương đại (trên sân khấu), hầu như các với sự phát triển của đất nước, nhiều ca sỹ đã ca sỹ (kể cả những người phụ họa) đều chú ý Số 32 (Tháng 6 - 2020) VĂN HÓA NGHIÊN CỨU 69
  6. VĂN HÓA NGHIÊN CỨU tới trang phục truyền thống. Điều đó cho thấy, bộ trang phục truyền thống của dân tộc. Cách những ca sỹ này đã biết cộng cảm cùng tác đây một vài năm, một số nghệ sỹ sử dụng khăn giả sáng tác để thể hiện cho được sự thống Piêu để làm “khố” trong một tiết mục biểu diễn nhất giữa nội dung và hình thức của bài hát. cũng khiến giới nghiên cứu văn hóa và dư luận Đó cũng là một cách khơi gợi để dẫn dắt công bất bình. Tình trạng đó cho thấy vẫn còn tồn chúng vừa thưởng thức cái hay cái đẹp của tại sự dễ dãi, tùy tiện của một số nghệ sỹ khi ca khúc, vừa liên tưởng tới những giá trị văn trình diễn với trang phục dân tộc. hóa truyền thống của dân tộc. Bên cạnh đó, Về phong cách trình diễn, ca sỹ phải tìm với những bài hát mang âm hưởng dân gian những động tác, cử chỉ mang tính thích hợp vùng miền, được kết hợp với phần xử lý tác với trang phục và nội dung bài hát. Chẳng phẩm cũng như hòa âm phối khí theo phong hạn, với những bài hát mang âm hưởng dân cách hiện đại - trẻ trung như Rock, Pop, R&B, ca châu thổ Bắc Bộ (như Làng quan họ quê tôi), nhạc điện tử,… thì người nghệ sỹ trình diễn hay đồng bằng Nam Bộ (như Áo mới Cà Mau) được quyền phối kết hợp với những bộ đồ - hoặc âm hưởng dân ca Bình - Trị - Thiên (như trang phục biểu diễn theo cách riêng của họ. Quảng Bình quê ta ơi), thường thì sắc diện của Ví dụ, khi ca sỹ Đoan Trang trình bày tác phẩm ca sỹ phải thân thiện, ánh mắt dịu dàng, đi lại Quạt giấy của nhạc sỹ Lưu Thiên Hương trong nhẹ nhàng thướt tha. Đối với bài hát mang âm chương trình Bài hát Việt, âm nhạc được phối hưởng dân tộc Tây Nguyên (như Ngọn lửa cao khí theo phong cách Pop Rock, ca sỹ đã lựa nguyên), thường thì các động tác biểu cảm của chọn cho mình trang phục quần jean kết hợp ca sỹ phải nồng nàn, mạnh mẽ. với áo yếm, đi giày cao gót, cầm quạt giấy. Sự Với ca sỹ, khi hát các bài hát thuộc loại này, kết hợp đầy ngẫu hứng cùng cách trình diễn họ cũng nhận thức rõ được nội dung và sắc tự tin đã giúp bài hát Quạt giấy đến gần hơn thái dân tộc của tác phẩm. Do vậy, để thể hiện với khán giả (đạt giải Bài hát mang phong cách Pop Rock nổi bật nhất năm 2007). Tiếp đó, năm và chuyển tải thành công nội dung và ý đồ của 2008, cũng trong chương trình Bài hát Việt, ca tác giả sáng tác/nhạc sỹ phối khí, các ca sỹ phải sỹ Tùng Dương trình diễn bài hát Con Cò của chú trọng tới tinh thần, phương ngữ của bài nhạc sỹ Lưu Hà An, với phần hòa âm phối khí hát. Bên cạnh đó, khi trình diễn, việc lựa chọn theo kiểu world music mới lạ, trang phục áo trang phục của ca sỹ cũng có ảnh hưởng nhất vest lịch lãm, phần thiết kế tay cánh dơi đã định tới việc chuyển tải nội dung, tinh thần bài giúp Con Cò vút bay trên sân khấu và đạt 3 giải: hát đến cảm xúc của khán giả khi thưởng thức Bài hát của năm, Bài hát được yêu thích nhất và nghệ thuật. Những động tác, cử chỉ biểu cảm Ca sỹ được yêu thích nhất. khi biểu diễn cũng nhẹ nhàng, duyên dáng... góp phần tô đậm thêm yếu tố dân gian cho Trong thời gian qua, một vấn đề khác đáng các ca khúc mà họ thể hiện. quan ngại là tình trạng làm mới, cách tân, cải biên trang phục dân tộc trên sân khấu biểu Kết luận diễn. Thay vì phát triển, gìn giữ và tôn vinh Từ đầu thế kỷ XX, âm nhạc Việt Nam dần những nét đẹp, giá trị văn hóa dân tộc, không bộc lộ hiện tượng giao lưu, tiếp biến với văn ít cách làm, sử dụng đã làm biến dạng các hóa âm nhạc phương Tây. Điều đó dẫn đến sự trang phục truyền thống. Có những ca sỹ đã ra đời của một số ca khúc được viết theo hình khoác lên mình những thiết kế sử dụng chất thức và lý thuyết âm nhạc phương Tây, nhưng liệu vải trong suốt - chiếc áo dài “mặc cũng như mang chất liệu âm nhạc dân gian Việt Nam. không” khiến người xem phải đỏ mặt. Không Kể từ đó đến nay, nó đã phát triển thành một chỉ vậy, một số ca sỹ còn mặc những bộ thiết thể loại, gọi là ca khúc dân gian đương đại. kế được ghép đôi áo dài với quần soóc, hay áo Sự xuất hiện của thể loại ca khúc này đã góp dài với tất lưới gợi cảm. Khá nhiều ý kiến bày tỏ phần tạo ra sự cân bằng và cho thấy tính đa sự phẫn nộ với cách sử dụng trang phục phản dạng của ca khúc Việt Nam trong những năm cảm trên, cho rằng, đây là hành vi làm “vấy bẩn” gần đây. 70 Số 32 (Tháng 6 - 2020)
  7. VĂN HÓA - NGHỆ THUẬT Về mặt lý luận, mặc dù ca khúc dân gian Tài liệu tham khảo đương đại chưa được xem xét, nghiên cứu 1. Bùi Đức Nghĩa (2012), Ca khúc dân gian để hình thành một khái niệm rạch ròi, nhưng đương đại trong chương trình “Bài hát Việt” (2005 người ta vẫn công nhận sự tồn tại của nó - 2012), Luận văn Thạc sĩ Văn hóa học, Viện Khoa thông qua các cuộc thi giọng hát, trên các học xã hội Việt Nam, Hà Nội. diễn đàn, hay các phương tiện truyền thông 2. Dương Viết Á (2005), Âm nhạc Việt Nam từ đại chúng. góc nhìn văn hóa, Nxb. Hà Nội, Hà Nội. Ca khúc dân gian đương đại có thể xem 3. Đào Việt Hưng (1999), Tìm hiểu điệu thức như là gạch nối mềm mại và đầy sáng tạo dân ca người Việt Bắc Trung bộ, Viện Âm nhạc, giữa yếu tố âm nhạc dân gian bản địa và lý Nxb. Âm nhạc, Hà Nội. thuyết âm nhạc phương Tây. Nó mang đến 4. Lê Yên (1994), Những vấn đề cơ bản về âm hơi thở và sức sống của thời đại, nhưng thật nhạc tuồng, Nxb. Thế giới, Hà Nội. gần gũi, thân quen bởi các chất liệu có từ 5. Nguyễn Trung Kiên (2001), Phương pháp sư trong truyền thống. Nó là một ví dụ tiêu biểu phạm thanh nhạc, Viện Âm nhạc xuất bản, Hà Nội. của sự giao lưu, tiếp biến âm nhạc trong thời 6. Nguyễn Thụy Loan, (1994), Lược sử âm nhạc đại toàn cầu hóa văn hóa hiện nay. Ta có thể Việt Nam, Nxb. Âm nhạc, Hà Nội. dễ dàng nhận thấy ở đó nhiều giá trị văn hóa 7. Nguyễn Đăng Nghị (2009) “Ca khúc dân độc đáo, góp phần khơi gợi và lưu giữ hình gian đương đại”, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật (9). ảnh của làng quê xưa trong tâm thức của 8. Nguyễn Đăng Nghị (2011), Bay lên từ truyền người dân đương đại. Bên cạnh đó, thông thống, Nxb. Văn hóa - Thông tin và Tạp chí Văn qua lời ca và âm nhạc, người nghe có thể hóa Nghệ thuật, Hà Nội. cảm nhận và thu nhận được thế giới quan và 9. Phạm Ngọc Khuê (2014), Yếu tố dân gian triết lý sống của thế hệ xưa. Việc công chúng trong ca khúc đương đại Việt Nam, Luận văn Thạc tiếp nhận những thông tin từ những ca khúc sĩ, Trường Đại học Văn hóa Hà Nội. dân gian đương đại, nếu nhìn sâu hơn điều này đã phản ánh được chức năng thẩm mỹ 10. Trần Bảo Lân (2007), Những yếu tố dân và chức năng giáo dục truyền thống của gian trong ca khúc Việt Nam thời kỳ đổi mới (1986 - 2007), Luận văn Thạc sĩ Văn hóa học, Viện Nghiên nó. Nó là minh chứng cho thấy vẻ đẹp âm cứu Văn hóa, Hà Nội. nhạc không cần phải hướng đến một mẫu số chung. Thật sai lầm khi trông đợi âm nhạc 11. Trần Tiến (2000), ý kiến tại cuộc Hội thảo chỉ mang vẻ đẹp thuần túy, đơn nhất của sự Những vấn đề sáng tác và biểu diễn hiện nay, Hà Nội. tạo tác, trau chuốt về hòa thanh, giai điệu, 12. Tô Vũ, (2002), Âm nhạc Việt Nam truyền kỹ thuật nhưng thiếu đi cái bản sắc, cái riêng thống & hiện đại, Viện Âm nhạc, Hà Nội. biệt trong mỗi văn hóa sản sinh ra nó. 13. Tô Vũ, Chí Vũ, Thụy Loan (1977), “Âm nhạc Để sáng tác, phối khí và biểu diễn thành phương Tây đã thâm nhập vào Việt Nam như thế nào”, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật (4). công thể loại này, người nhạc sỹ, ca sỹ không chỉ cần có kiến thức và kỹ thuật biểu diễn âm 14. V.A. Vakhramêép (Vũ Tự Lân dịch, 1982), nhạc, mà rất cần phải có sự am hiểu về văn hóa Lý thuyết âm nhạc cơ bản, Nxb. Văn hóa, Hà Nội. dân gian nói chung, âm nhạc dân gian Việt 15. Vũ Thược, “Dân gian đương đại - lắng Nam nói riêng. Chỉ khi có được điều đó, họ mới đọng để trở lại”, http://baihatviet.vtv.vn/New/ thực sự thành công với thể loại này. Một lần Details/307 nữa, văn hóa trở thành lời giải, thành đích đến của đỉnh cao nghệ thuật. Đó cũng là một sự định hướng, là bài học kinh nghiệm quý được Ngày nhận bài: 10 - 02 - 2020 đúc rút từ cá nhân người viết và những nhạc Ngày phản biện, đánh giá: 15 - 4 - 2020 sỹ, ca sỹ cùng thế hệ gửi gắm đến những nhạc sỹ, ca sỹ tương lai. Ngày chấp nhận đăng: 25 - 6 - 2020 Số 32 (Tháng 6 - 2020) VĂN HÓA NGHIÊN CỨU 71
nguon tai.lieu . vn