Xem mẫu
- PHÁT TRIỂN TÀI CHÍNH TOÀN DIỆN
NHÌN TỪ KINH NGHIỆM CÁC NƯỚC ASEAN
PGS. TS. Nguyễn Bá Minh
Viện trưởng Viện Kinh tế
Học viện Tài chính
Tóm tắt
Tài chính toàn diện có vai trò quan trọng trong xóa đói giảm nghèo, phát triển và ổn định
kinh tế. Vì vậy, phát triển tài chính toàn diện được các tổ chức phát triển quốc tế cũng như Chính
phủ nhiều quốc gia đặc biệt quan tâm, trong đó có Việt Nam. Bài viết tìm hiểu, phân tích vai trò
của tài chính toàn diện, nghiên cứu kinh nghiệm của những nước trong khu vực ASEAN thành
công trong phát triển tài chính toàn diện như: Thái Lan, Malaysia, Philippines…, từ đó, khuyến
nghị một số chính sách tập trung vào hoàn thiện khung pháp lý cũng như hệ thống chính sách
cho việc thực hiện tài chính toàn diện tại Việt Nam ở cấp độ Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước và
các tổ chức tài chính trong thời gian tới.
Từ khóa: Tài chính toàn diện, phát triển tài chính toàn diện, ASEAN, kinh nghiệm
Đặt vấn đề
Những năm gần đây, tài chính toàn diện đã trở thành một vấn đề được quan tâm trên phạm
vi toàn cầu nhằm phát triển hệ thống tài chính phục vụ cho tất cả các thành viên trong xã hội,
cung cấp các dịch vụ phù hợp và thuận tiện với chi phí hợp lý cho mọi cá nhân và doanh nghiệp,
qua đó góp phần vào sự phát triển bền vững của quốc gia. Tài chính toàn diện là vấn đề được
nhiều quốc gia chú trọng, trong đó Chính phủ Việt Nam đặc biệt quan tâm và đã giao các Bộ,
Ngành xây dựng Chiến lược quốc gia về tài chính toàn diện. Những kinh nghiệm của các quốc
gia ASEAN sẽ góp phần hỗ trợ Việt Nam trong việc phát triển tài chính toàn diện hiệu quả, bền
vững trong thời gian tới.
1. Tổng quan tài chính toàn diện
1.1. Khái niệm
Theo Ngân hàng Thế giới (WB), tài chính toàn diện có nghĩa là các cá nhân và doanh
nghiệp có thể tiếp cận và sử dụng các sản phẩm và dịch vụ tài chính - các giao dịch, thanh
toán, tiết kiệm, tín dụng và bảo hiểm - đáp ứng nhu cầu của họ và có mức chi phí hợp lý,
được cung cấp theo một cách thức có trách nhiệm và bền vững. Liên minh Tài chính Toàn
diện (AFI) định nghĩa về tài chính toàn diện rộng hơn và đa chiều hơn, nhấn mạnh đến cả
khía cạnh chất lượng sử dụng dịch vụ. Theo đó, tài chính toàn diện là việc cung cấp cho
người sử dụng các dịch vụ tài chính sẵn có với mức chi phí hợp lý; làm cho khách hàng sử
dụng các dịch vụ tài chính một cách thường xuyên; đưa ra những dịch vụ tài chính được thiết
kế phù hợp với nhu cầu của người sử dụng.
Tài chính toàn diện được hiểu theo nghĩa rộng hơn so với tiếp cận tài chính. Một số người
có khả năng tiếp cận các dịch vụ tài chính nhưng lại không muốn sử dụng trong khi nhiều người
có nhu cầu lại không thể tiếp cận do những rào cản như chi phí quá cao, quy định pháp luật phức
tạp, hoặc thiếu sản phẩm dịch vụ phù hợp.
Khái quát lại, tài chính toàn diện là tất cả việc cung cấp các dịch vụ tài chính chính thức
(thanh toán, chuyển tiền, tiết kiệm, tín dụng, bảo hiểm) một cách thuận tiện, phù hợp với nhu cầu
và với chi phí hợp lý tới tất cả người dân. Tài chính toàn diện không chỉ giới hạn trong việc cải
thiện khả năng tiếp cận tín dụng mà bao gồm cả nâng cao hiểu biết về tài chính cho người dân và
bảo vệ người tiêu dùng.
1.2. Vai trò của tài chính toàn diện
Vai trò của tài chính toàn diện đối với phát triển kinh tế - xã hội đã được khẳng định trong
nhiều nghiên cứu, điển hình có thể kể tới như: Levine (2005), Demirguc-Kunt và Levine (2007),
550
- Beck và Honohan (2008), Johnston and Murdoch (2008), Johnson và Nino-Lazarawa (2009),
Hastak và Gaikwad (2015)… Có thể tóm lược qua các khía cạnh sau:
Thứ nhất, tài chính toàn diện thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thông qua tăng cường khả năng
huy động các khoản tiết kiệm và đầu tư để phát triển sản xuất
Johnson và Nino-Lazarawa (2009) đã chỉ ra rằng tài chính toàn diện góp phần thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế thông qua huy động tiết kiệm và đầu tư vào lĩnh vực sản xuất. Việc huy động tiết
kiệm tạo điều kiện cho các đối tượng bị loại trừ trong hệ thống tài chính chính thức có thể tiếp
cận tiết kiệm, tín dụng và các dịch vụ giảm nghèo để đầu tư vào lĩnh vực sản xuất và cải thiện
phúc lợi. Theo Levine (2005), cơ sở hạ tầng của hệ thống tài chính toàn diện góp phần hạn chế
thông tin tài chính bất đối xứng, giảm chi phí giao dịch ký kết hợp đồng. Các chính sách tài chính
toàn diện hiệu quả tác động lên các ngành kinh tế, góp phần giảm nghèo và tăng trưởng kinh tế
nhanh. Mối tương quan giữa tài chính toàn diện và tăng trưởng kinh tế này một lần nữa được
khẳng định thông qua mô hình nghiên cứu của AT & SG (2010).
Thứ hai, tài chính toàn diện giúp người nghèo được tiếp cận các dịch vụ tài chính phù hợp
với giá cả phải chăng
Tài chính toàn diện mang lại cơ hội tiếp cận hệ thống tài chính chính thức với mức chi phí
hợp lý cho tất cả các thành phần của nền kinh tế, đặc biệt là nhóm dân cư yếu thế và đang sống
ngoài rìa nền tài chính, từ đó góp phần cải thiện cuộc sống, tạo công ăn việc làm, từ đó thúc đẩy
kinh tế địa phương phát triển. Ở khu vực thành thị, viên chức lương thấp hoặc cá nhân tự doanh
như bán hàng rong cũng như những người nông dân và những đối tượng khác mưu sinh bằng
những công việc với thu nhập eo hẹp như chế biến thực phẩm, buôn bán nhỏ, đặc biệt là phụ nữ
và trẻ em trong độ tuổi quy định sẽ được hưởng lợi từ các hoạt động tài chính như trên. Do đó,
Ogunleye (2009) đã khẳng định, tài chính toàn diện đem lại ổn định tài chính, thúc đẩy tăng
trưởng toàn diện.
Thứ ba, tài chính toàn diện góp phần tăng thu nhập, xóa đói giảm nghèo và tăng phúc lợi
cho người nghèo
Tiếp cận các sản phẩm, dịch vụ tài chính như tiết kiệm, dịch vụ thanh toán, chuyển tiền
kiều hối và bảo hiểm sẽ giúp người nghèo tăng khả năng tích luỹ tài sản, chống chịu trước những
cú sốc kinh tế, đồng thời tăng khả năng tạo công ăn việc làm, cải thiện thu nhập thông qua các
khoản tín dụng tiếp cận được.
Trong một nghiên cứu phân tích về tầng lớp thu nhập thấp ở Bangladesh, Ấn Độ và Nam
Phi, Collins (2009) đã tìm ra mối quan hệ nhân quả giữa khả năng tiếp cận dịch vụ tài chính phù
hợp, giá cả phải chăng và sự cải thiện phúc lợi và thu nhập cho người nghèo. Demirguc-Kunt và
cộng sự (2008) cũng nhận thấy rằng tiếp cận tài chính không chỉ thúc đẩy tăng trưởng mà còn
thúc đẩy giảm nghèo cũng như giảm bất bình đẳng thu nhập và cải thiện phúc lợi. Xét trên bối
cảnh rộng hơn, tài chính toàn diện đóng góp vào tăng trưởng kinh tế thông qua tạo giá trị cho các
doanh nghiệp nhỏ, đem lại tác động lớn cho việc cải thiện các chỉ số phát triển con người - như
y tế, dinh dưỡng, giáo dục - và đẩy lùi bất bình đẳng, nghèo đói (CIMP, 2011; Obstfield, 1994 và
Ghali, 1999).
2. Kinh nghiệm phát triển tài chính toàn diện tại một số nước trong ASEAN
2.1. Tổng quan hệ thống tài chính toàn diện tại một số nước trong ASEAN
Nhìn chung, mức độ triển khai tài chính toàn diện trong khu vực ASEAN có sự khác nhau
rõ rệt giữa các quốc gia.Trong số các quốc gia ASEAN, Malaysia là quốc gia đạt trình độ tài
chính toàn diện vào hạng cao nhất trên thế giới.Tài chính toàn diện đã trở thành ưu tiên quốc gia
hàng đầu của Malaysia trong suốt một thời gian dài, thậm chí trước cả khi tài chính toàn diện trở
thành mục tiêu toàn cầu của cả thế giới vào thời điểm cuối thập kỷ qua.Với hơn 92% dân số được
tiếp cận các dịch vụ tài chính, Malaysia đang tiệm cận với nền tài chính toàn diện toàn cầu trong
tương lai gần.
Do có sự phân biệt về mức độ triển khai tài chính toàn diện, chính sách về tài chính toàn
diện tại mỗi quốc gia trong ASEAN cũng khá đa dạng. Biểu hiện cụ thể ở đây là sự phân hóa
551
- trong mối liên kết giữa tài chính toàn diện và chuyển tiền tại khu vực ASEAN. Theo cơ sở dữ liệu
Tài chính toàn diện toàn cầu, phần đông những người trưởng thành ở Malaysia (66,17%),
Singapore (98,22%) và Thái Lan (72,66%) có tài khoản ngân hàng tại các tổ chức tài chính.
Những nước ASEAN còn lại, tỷ lệ người trưởng thành có tài khoản ngân hàng khá thấp.
Còn xét về mức độ sử dụng tài khoản, trung bình 15% người trưởng thành sử dụng tài
khoản ngân hàng để nhận tiền, tỷ lệ này ở Philippines, Thái Lan tương ứng là 13,5% và 17%. Tuy
nhiên, tại nhiều nước ASEAN như Campuchia tỷ lệ sử dụng tài khoản chuyển tiền rất thấp (5%).
2.2. Kinh nghiệm các nước ASEAN trong thúc đẩy phát triển tài chính toàn diện
2.2.1. Philippines
Ngân hàng Trung ương Philippines xác định tài chính toàn diện là một mục tiêu theo đuổi
cùng với việc thúc đẩy sự ổn định và hiệu quả trong hệ thống tài chính. Từ những năm 2000,
Ngân hàng Trung ương Philippines đã chủ động trong việc phát triển tài chính vi mô theo ba
hướng tiếp cận là: tạo lập môi trường pháp lý và hệ thống các chính sách phù hợp; nâng cao năng
lực quản lý và hiệu quả hoạt động của Ngân hàng Trung ương cũng như ngành Ngân hàng trong
hoạt động tài chính vi mô; kết hợp với phát triển hoạt động tài chính vi mô theo hướng bền vững.
Philippines đã vạch ra Kế hoạch phát triển Philippines (2011-2016) với tầm nhìn cho ngành tài
chính là một “hệ thống tài chính có tính đáp ứng theo từng khu vực, phát triển theo định hướng và
đáp ứng được các nhu cầu phát triển của đa dạng người dân”.
Khung pháp lý đối với tất cả các loại hình TCTC vi mô tập trung vào chất lượng tài sản,
hiệu quả hoạt động và thông tin minh bạch. Hoạt động của các TCTC vi mô nói chung được sự
giám sát chặt chẽ, cụ thể: Ngân hàng có hoạt động tài chính vi mô thì phải chịu sự giám sát của
Ngân hàng Trung ương Philippines; hợp tác xã hoạt động tài chính vi mô được giám sát bởi Cơ
quan Hợp tác phát triển (Cooperative Development Authority - CDA) và các tổ chức phi chính
phủ như Hội đồng Tài chính vi mô của Philippines (Microfinance Council of the Philippines viết
tắt MCPI).
Ngân hàng Trung ương cũng đang vốn hóa hệ thống mạng lưới các văn phòng ngân hàng vi
mô (Micro Banking Offices - MBOs) để cung ứng các dịch vụ tài chính đến những khu vực chưa
được phục vụ như các doanh nghiệp nhỏ và người nghèo ở Philippines. Hiện nay, Ngân hàng
Trung ương Philippines khuyến khích theo hai hướng hoặc thành lập các ngân hàng chuyên hoạt
động tài chính vi mô hoặc xây dựng các hoạt động tài chính vi mô trong các ngân hàng đang có.
Như vậy, Ngân hàng Trung ương Philippines đã và đang tiếp tục phát triển hệ thống tài
chính toàn diện hướng đến phục vụ nhu cầu người dân, đặc biệt là những người chưa từng sử
dụng hay chưa đủ điều kiện được sử dụng các dịch vụ tài chính trước đây. Phát triển một hệ
thống tài chính toàn diện đa dạng các sản phẩm, mở rộng kênh phân phối và mạng lưới giao dịch,
giảm các rào cản về việc gia nhập và sử dụng các sản phẩm tài chính cũng như luôn bảo vệ khách
hàng (Benedict & Magday, 2015).
2.2.2. Indonesia
Chiến lược quốc gia về tài chính toàn diện của Indonesia được công bố vào tháng 6 năm
2012, với tầm nhìn là tạo lập một hệ thống tài chính mà tất cả các tầng lớp trong xã hội có thể tiếp
cận nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, xoá đói giảm nghèo và bình đẳng về thu nhập.
Các chương trình đã được thực hiện bao gồm: Chương trình trợ cấp tài chính (FIP) khuyến
khích mọi tầng lớp xã hội tiếp cận với hệ thống tài chính; sản phẩm ngân hàng tiết kiệm không có
phí quản lý như TabunganKu và tài khoản tiết kiệm cơ bản khác (BSA); chương trình trợ giúp
Chính phủ để cải thiện khả năng tiếp cận tài chính cho cộng đồng và đồng thời khuyến khích xu
hướng không sử dụng tiền mặt mà chuyển qua tiền điện tử thông qua đại lý dịch vụ tài chính số;
chương trình cải thiện việc cung cấp thông tin cho ngư dân và nông dân nhằm giảm bớt thông tin
bất đối xứng cho người sản xuất cũng như cải thiện vị trí thương lượng của nông dân và ngư dân.
Đồng thời thực hiện giáo dục nhằm nâng cao nhận thức về tài chính và kiến thức về sản
phẩm, dịch vụ của các TCTC chính thức bằng cách đưa các tài liệu giáo dục về quản lý tài chính
vào các chương trình giáo dục cho học sinh và sinh viên đại học; đào tạo giảng viên cho sinh viên
552
- cao đẳng và giảng viên Khoa Kinh tế. Phát triển dịch vụ Tài chính kỹ thuật số (DFS), DFS là sự
kết hợp của các dịch vụ tài chính và thanh toán được cung cấp và quản lý bởi công nghệ di động
hoặc các trang mạng. Với việc tiếp cận tài chính ngày càng tăng, DFS góp phần nâng cao năng
lực kinh tế hộ gia đình, kinh tế địa phương, từ đó tác động tích cực đến nền kinh tế quốc gia và sự
ổn định của hệ thống tài chính. DFS là một trong những nỗ lực mang tính đặc thù nhằm cải thiện
tài chính toàn diện ở Indonesia.
Nhìn chung, Ngân hàng Indonesia xác định việc xây dựng một hệ thống tài chính tổng thể
đòi hỏi sự nỗ lực của tất cả các bên liên quan, đặc biệt là các nhà hoạch định chính sách và các
nhà quản lý. Đồng thời, Ngân hàng Indonesia đưa ra các chương trình tài chính toàn diện với mục
tiêu đạt được phúc lợi kinh tế thông qua giảm nghèo, phân phối thu nhập và ổn định hệ thống tài
chính ở Indonesia. (Woro Widyaningrum, 2015).
2.2.3. Malaysia
Kinh nghiệm của Malaysia cho thấy không thể đốt cháy giai đoạn để mở rộng tài chính toàn
diện. Tiến bộ trong tài chính toàn diện của Malaysia là thành quả của nỗ lực từ phía nhà nước
cũng như Ngành Tài chính trong 20 năm qua. Về cơ bản, thành công của tài chính toàn diện
Malaysia chính là sự phối hợp giữa tăng cường các ngân hàng và Tổ chức tài chính phát triển
(DFI), mở rộng thị trường tài chính (đặc biệt là người Hồi giáo), với phát triển các công cụ tài
chính mới và các kênh phân phối để tiếp cận với người nghèo cũng như điều chỉnh các quy định
và hiện đại hóa cơ sở hạ tầng tài chính, đặc biệt là hệ thống thanh toán quốc gia.
Sau cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997-1998, các nhà chức trách đã thực hiện
những biện pháp để tăng cường hệ thống ngân hàng trong nước bằng cách khuyến khích sáp nhập
các tổ chức nhỏ.Việc sáp nhập giúp hình thành các thể chế lớn hơn, vững vàng hơn và hiệu quả
hơn để có thể cạnh tranh với các nước láng giềng ASEAN. Ngoài ra, Chính phủ đã đưa ra các
biện pháp nhằm củng cố bảng cân đối tài khoản của các ngân hàng, đồng thời ban hành và thực
thi các tiêu chuẩn nghiêm ngặt.
Theo sau tiến trình củng cố hệ thống ngân hàng là nhiệm vụ xây dựng Kế hoạch tổng thể
Ngành Tài chính 10 năm được đề xướng năm 2000, không chỉ giúp «bắt bệnh» các vấn đề gây trở
ngại cho tài chính toàn diện và phát triển ngành tài chính tổng thể, mà còn đặt ra một bộ chính
sách hành động để giải quyết.
Trên cơ sở thành công của FSMP, chiến lược 10 năm lần thứ hai, Kế hoạch Tài chính
2011-2020 đã được thông qua vào năm 2011 và được thực hiện dưới một khuôn khổ giám sát
và đánh giá chặt chẽ để theo dõi tiến trình tài chính toàn diện, chất lượng và việc sử dụng các
dịch vụ tài chính và sự hài lòng của khách hàng. Nằm trong khuôn khổ thực hiện Kế hoạch
tổng thể ngành Tài chính (2001-2010) và Kế hoạch Tài chính (2011-2020), một loạt chủ
trương đã được triển khai trong những năm qua để đẩy mạnh tài chính toàn diện. Nhiệm vụ
của NHTW Malaysia đã được điều chỉnh, qua đó cho Ngân hàng quyền pháp lý để chủ động
phát triển tài chính toàn diện.Về vấn đề này, Malaysia đã đi tiên phong trong các NHTW trên
thế giới trong việc công nhận và chính thức hóa vai trò quan trọng của NHTW trong phát
triển tài chính toàn diện.
Các cải cách lớn khác bao gồm thành lập văn phòng tín dụng, cải tổ DFI, yêu cầu các ngân
hàng cung cấp dịch vụ tài chính cho người nghèo với mức giá phải chăng và giới thiệu mô hình
ngân hàng đại lý để các tổ chức tài chính có thể tiếp cận khách hàng mới ở vùng sâu vùng xa một
cách an toàn và tiết kiệm chi phí. Không chỉ thế, Malaysia đã đầu tư đáng kể vào hiện đại hóa cơ
sở hạ tầng hệ thống thanh toán quốc gia, đẩy nhanh áp dụng các phương tiện thanh toán điện tử
trên toàn quốc.
Ngoài ra, các cơ chế mạnh về mặt thể chế cũng đã được áp dụng để thúc đẩy giáo dục
và hiểu biết về tài chính, thành lập thanh tra tài chính và cơ quan bảo hiểm tiền gửi nhằm bảo
vệ khách hàng gửi tiền quy mô nhỏ trong trường hợp ngân hàng gặp khó khăn. Tất cả những
chủ trương trên đã góp phần tạo nên thành công của đất nước này trong phát triển tài chính
toàn diện.
553
- 2.2.4. Campuchia
Chính phủ Campuchia đã xây dựng chiến lược tài chính vi mô quốc gia để thông qua chính
sách tín dụng nông thôn, khởi xướng dự án tín dụng, tiết kiệm nông thôn, khuyến khích các ngân
hàng thành lập chi nhánh tại các vùng nông thôn và thúc đẩy các dự án thí điểm tài chính vi mô.
Trong lĩnh vực ngân hàng, chính sách tài chính toàn diện được triển khai thông qua kênh tổ chức
tài chính vi mô, bắt đầu từ các dự án của các tổ chức phi chính phủ đầu những năm 90. Cho đến
nay, Chính phủ và Ngân hàng quốc gia Campuchia thừa nhận tài chính vi mô và các bên liên
quan đóng vai trò quan trọng trong việc góp phần xoá đói giảm nghèo theo mục tiêu phát triển
thiên niên kỷ của Campuchia, giúp giảm một nửa tỷ lệ người sống dưới mức chuẩn nghèo quốc
gia trong giai đoạn 1993-2015.
Trong chiến lược phát triển ngành tài chính 2011-2020, Campuchia đã đưa ra mục tiêu phát
triển tài chính toàn diện thông qua tăng cường tiếp cận tài chính của người nghèo, cải cách hoạt
động tài chính vi mô. Các chính sách phát triển liên quan đến tài chính toàn diện đã được cụ thể
hóa và chia thành 3 giai đoạn là ngắn hạn, trung hạn đến năm 2017 và dài hạn đến năm 2020 gồm
có tăng cường các dịch vụ tài chính, mở rộng khả năng tiếp cận các sản phẩm và dịch vụ tài chính
cho các cá nhân ở những nơi khó tiếp cận (đặc biệt là người nghèo), bảo vệ người tiêu dùng, tăng
cường giáo dục về tài chính. Các cơ quan liên quan bao gồm Bộ Kinh tế và Tài chính (MEF),
Hiệp hội Tài chính vi mô của NBC chịu trách nhiệm trực tiếp triển khai các chính sách trên.
Đến nay, hệ thống ngân hàng của Campuchia đã đạt được nhiều mốc quan trọng và đang
tiến tới trở thành một hệ thống ngân hàng phát triển hoàn thiện, số lượng người gửi tiền và người
đi vay tiếp tục tăng lên, công chúng ngày càng tín nhiệm hệ thống Ngân hàng. Campuchia đang
trong quá trình hoàn thành các mục tiêu trung hạn và dài hạn vào năm 2020 với việc đặt ra các
chính sách và mục tiêu phát triển nhằm thúc đẩy hệ thống tài chính toàn diện sẽ đem lại lợi ích
cho tất cả các bên liên quan (Ou Sokpanha, 2015).
3. Một số đề xuất nhằm phát triển tài chính toàn diện ở Việt Nam
Ở Việt Nam, khái niệm tài chính toàn diện còn khá mới mẻ. Tuy nhiên, các nội dung của tài
chính toàn diện đã và đang được Chính phủ đặt thành những ưu tiên và triển khai thực hiện trong
nhiều năm qua. Từ việc nghiên cứu kinh nghiệm phát triển tài chính toàn diện tại một số nước
ASEAN, nhiều bài học kinh nghiệm được rút ra đối với Việt Nam nhằm thúc đẩy sự phát triển
của tài chính toàn diện. Cụ thể:
3.1. Với Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước
Thứ nhất, phải coi phát triển tài chính toàn diện là một chiến lược quốc gia, tập trung các
nguồn lực và nỗ lực để hướng vào đúng đối tượng và triển khai thực hiện các biện pháp phù hợp
một cách hiệu quả.
Định hướng chung để phát triển tài chính toàn diện trong thời gian tới đòi hỏi sự phối hợp
đồng bộ và nhịp nhàng của sáu trụ cột sau: nâng cao kiến thức và nhận thức của người dân về các
sản phẩm và dịch vụ tài chính trên thị trường tài chính chính thức; nâng cao vai trò của Chính phủ
trong việc cung cấp tài chính công trực tiếp hoặc có điều kiện để khuyến khích sự trao quyền kinh
tế; cung cấp bản đồ thông tin tài chính - tăng cường năng lực của cộng đồng, đặc biệt là những
khách hàng được các TCTC đánh giá là không có khả năng chi trả hoặc không thể vay được, chủ
yếu là doanh nghiệp nhỏ và vừa; đưa ra các chính sách hoặc cơ sở pháp lý để tăng khả năng tiếp
cận các dịch vụ tài chính; mở rộng phạm vi của các dịch vụ tài chính bằng cách sử dụng các kênh
trung gian và phân phối nhằm tăng cường hợp tác giữa các tổ chức tài chính và các chủ thể kinh
doanh; bảo vệ người tiêu dùng, cho phép chủ thể tin tưởng hơn vào sự tương tác của họ với các tổ
chức trong việc sử dụng các sản phẩm và dịch vụ được cung cấp bởi các tổ chức tài chính.
Phải hình thành một khung khổ pháp luật đảm bảo sự cam kết theo đuổi và thực hiện chiến
lược tài chính toàn diện ở Việt Nam, trên cơ sở đó xây dựng cơ chế điều phối và phối hợp huy
động tổng thể nguồn lực triển khai tài chính toàn diện hiệu quả, đảm bảo sự tham gia của tất cả
các bên liên quan, đặc biệt là khu vực tư nhân. Xây dựng một cơ sở dữ liệu quốc gia về tài chính
toàn diện để phục vụ cho việc hoạch định chính sách cũng như đánh giá việc triển khai thực hiện.
554
- Thứ hai, tăng cường giáo dục tài chính đối với người dân
Kinh nghiệm của các quốc gia trên thế giới đã chỉ ra rằng việc thiếu kiến thức và hiểu biết
về các loại sản phẩm, dịch vụ tài chính khiến người dân thiếu sự tự tin, ngại tiếp cận và thái độ
không tin tưởng đối với các sản phẩm, dịch vụ trên thị trường. Đây chính là rào cản lớn trong
việc tiếp cận các dịch vụ tài chính trên thị trường chính thức, thúc đẩy sự xuất hiện của các sản
phẩm, dịch vụ tài chính phi chính thức, dẫn đến cản trở sự phát triển tài chính toàn diện trong mỗi
quốc gia. Do đó, cần có cách thức tăng cường hiểu biết về tài chính thông qua giáo dục, tăng
cường đào tạo kỹ năng và năng lực tài chính cho người dân để họ có thể tiếp cận và sử dụng có
trách nhiệm các dịch vụ tài chính, quản lý tốt hơn tình hình tài chính.
Chính phủ cần triển khai các chương trình hành động về giáo dục tài chính tiếp cận các đối
tượng khác nhau như: trường học, chiến dịch nâng cao hiểu biết tài chính cho người dân. Cụ thể,
Chính phủ có thể giao cho các kênh truyền thông quốc gia như Đài truyền hình Việt Nam, Đài
Tiếng nói Việt Nam thực hiện tuyên truyền, giới thiệu tới người dân về các sản phẩm cũng như
các chương trình hỗ trợ để người dân có thể tiếp cận được với tài chính toàn diện; giao cho Ngân
hàng Chính sách Xã hội, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển thực hiện các khoá đào tạo, các kênh
đào tạo tới các nhóm chủ lực như trưởng thôn, trưởng nhóm, hội phụ nữ, hội nông dân,... để từ đó
nhân rộng kiến thức về tài chính toàn diện với người dân. Không chỉ đào tạo về ý nghĩa, lợi ích
về cách tiếp cận sản phẩm tài chính chính thức, người nông dân cũng cần được đào tạo về cách
chi tiêu, cách tiết kiệm, cách quản lý tiền để từ đó tăng khả năng tiết kiệm của họ.
Thứ ba, coi trọng phát triển dịch vụ ngân hàng đại lý
Kinh nghiệm của các quốc gia cho thấy rằng một trong những chính sách làm nên sự thành
công trong tài chính toàn diện đó là phát triển dịch vụ ngân hàng đại lý. Nhờ sự hữu ích và tiện
dụng của ngân hàng đại lý (quy trình mở tài khoản đơn giản, thực hiện một số dịch vụ đơn giản
như chuyển tiền, thanh toán hóa đơn, dịch vụ tiện ích giúp khách hàng giao dịch kịp thời, thuận
tiện và tiết kiệm chi phí vì khách hàng không phải di chuyển quá xa nơi cư trú) sẽ làm tăng số
lượng người tiếp cận và sử dụng dịch vụ lên nhanh chóng. Mô hình này nếu được áp dụng sẽ gỡ
bỏ những rào cản địa lý trong việc nhiều xã, huyện không có chi nhánh ngân hàng. Các cửa hàng
bán lẻ, đại lý xổ số và bưu điện được liên kết với nhiều tổ chức tài chính hợp lệ để làm đại lý và
sử dụng các thiết bị hoặc điện thoại di động hoạt động tức thời, để họ thực hiện giao dịch thay
cho các tổ chức mà mình liên kết.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) có thể khuyến khích phát triển mô hình này bằng
cách cho phép tất cả các tổ chức tài chính thuộc sự quản lý và giám sát của NHNN thuê đại lý tại
bất kỳ nơi nào trong nước, đồng thời quy định rõ ràng về các dịch vụ mà đại lý có thể cung cấp,
đưa ra các hướng dẫn cần thiết về hợp đồng giữa tổ chức tài chính và đại lý, và yêu cầu báo cáo
cho NHNN.
3.2. Đối với các TCTD
Các tổ chức tín dụng, tổ chức tài chính phi ngân hàng cần được quan tâm phát triển. Hiện
nay, các tổ chức tài chính vi mô đã hoạt động trên phạm vi 136/703 quận, huyện, thị trấn tại
34/63 tỉnh thành. Do vậy, trong thời gian tới để phát triển hoạt động tài chính trên phạm vi toàn
quốc, nhất là ở khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa, cần phát triển các tổ chức tài chính phi
ngân hàng.
Bên cạnh đó, hoạt động của các tổ chức vi mô nói chung phải được sự giám sát chặt chẽ
của các tổ chức đại diện cho Nhà nước mà đại diện cao nhất là Ngân hàng Nhà nước để đảm bảo
hoạt động an toàn, hiệu quả và có trách nhiệm. Các tổ chức này cần được giám sát và có chế tài
tuân thủ các nguyên tắc hoạt động mà Ngân hàng Nhà nước đưa ra, đồng thời khuyến khích các
hoạt động như cung cấp thông tin đầy đủ, minh bạch và kịp thời lên các cơ quan đại diện giám sát.
Cuối cùng, các tổ chức này cũng cần thiết kế các sản phẩm phù hợp hơn với nhu cầu của
các nhóm khác nhau, đặc biệt các sản phẩm tiết kiệm và thanh toán bởi thực tế quy mô tiết kiệm
của người dân tại khu vực nông thôn rất nhỏ và mức độ tổn thương của các gia đình thường cao
555
- do sản xuất kinh doanh của họ phụ thuộc nhiều vào thời tiết. Dường như các sản phẩm tiết kiệm,
vay vốn với quy mô nhỏ, thời gian đáo hạn nhanh phù hợp hơn với nhóm khách hàng này. Mặt
khác, thủ tục, giấy tờ luôn là một rào cản lớn đối với người dân khi tiếp cận các dịch vụ tài chính
tại nông thôn, điều này đã được đề cập trong nhiều nghiên cứu. Việc cải thiện thủ tục hành chính
sẽ tăng khả năng tiếp cận dịch vụ tài chính của khu vực nông thôn.
Kết luận
Hầu hết các chính phủ, các tổ chức tài chính quốc tế, các nhà nghiên cứu đều ghi nhậnvai
trò quan trọng của việc tiếp cận sản phẩm, dịch vụ tài chính chính thức đối với mọi đối tượng
trong nền kinh tế xã hội, nó được xem là một trong những công cụ sống còn để phát triển nền
kinh tế nói chung và góp phần xoá đói giảm nghèo nói riêng. Vì vậy, phát triển tài chính toàn
diện là mục tiêu của nhiều quốc gia trong đó có Việt Nam. Việc nghiên cứu kinh nghiệm các
nước ASEAN trong việc phát triển tài chính toàn diện hiệu quả, bền vững sẽ giúp Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam cùng với các tổ chức tài chính đưa ra các giải pháp hoàn thiện hệ thống tài chính
toàn diện còn khá manh nha, và giàu tiềm năng phát triển của nước ta.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
* Tiếng Việt
1. ThS. Lê Thị Khuyên, ThS. Bùi Ngọc Mai Phương (2018), Tiếp cận tài chính toàn diện của
các nước ASEAN và một số khuyến nghị đối với Việt Nam
2. Nguyễn Phương Linh, Nguyễn Mai Hảo (2017), Vụ Hợp tác quốc tế - Bộ Tài chính, Một
số vấn đề chung về tài chính toàn diện
3. ThS. Phạm Thị Ánh Phượng, (2017), Chiến lược tài chính toàn diện tại châu Á và hàm ý
cho Việt Nam
4. TS. Phạm Thị Hồng Vân, ThS. Trần Thị Thu Hường, ThS. Vũ Thị Thanh Hà (2018), Kinh
nghiệm phát triển tài chính toàn diện tại một số quốc gia trên thế giới, Tạp chí Khoa học & Đào
tạo Ngân hàng, 193, 55-64
* Tiếng Anh
1. Abd Rahman, Zarina(2012), Financial Inclusion in Malaysia: Tracking Progress Using
Index, IFC Bulletin No. 38, Bank for International Settlements, Basle
2. Allen, F., Demirgüç-Kunt, A., Klapper, L. F. & Martinez Peria, M. S. (2012). The
foundations of financialinclusion: Understanding ownership and use of formal accounts. World
Bank Policy Research Working Paper, 6290. The World Bank, Washington DC, USA.
3. Al Benedict. & B. Magday. (2015). Advancing Inclusive Financial System in the next
decade: Microfinance in the Philippines. The SEACEN centre, 278, 189-212. Kuala Lumpur,
Malaysia.
4. Barlon, Colin, and Francis Loh Kok Wah (2003), Malaysian Economics and Politics in
the New Century
5. Beck, T., Demirgüç-Kunt, A. & Peria, M. S. M. (2007). Reaching out: Access to and use
of bankingservices across countries. Journal of Financial Economics, 85(1), 234-266.
6. Cihak, M., Mare, D. S. & Melecky, M. (2016). The Nexus of financial inclusion and
financial stability: A study of trade-offs and synergies. Policy Research working paper, 7722.
World Bank, Washington DC, USA.
7. Demirgüç-Kunt, A. & Klapper, L. (2012). Measuring Financial Inclusion. The Global
Findex Database.World Bank Policy Research Working Paper, 6025, The World Bank,
Washington DC, USA.
8. Demirgüç-Kunt, A., Klapper, L., Singer, D. & Van Oudheusden, P. (2015). The Global
Findex Database2014. Measuring financial inclusion around the World. World Bank Policy
Research Working Paper, 7255.The World Bank, Washington DC, USA.
556
- 9. Hannig, A.& Jansen, S. (2010). Financial inclusion and financial stability. Current policy
issues. ADBIWorking Paper, 259. Asian Development Bank Institute, Tokyo, Japan.
10. John Villasenor, Darrell M. West. & Robin Lewis. (2016). The 2016 Brookings
Financial Inclusion Project Report: Advancing Equitable Financial Ecosystems. Center for
Technology Innovation at Brookings. Washington DC, USA.
11. Ou Sokpanha. (2015). Advancing Inclusive Financial System in the next decade: A
Perspective from Cambodia’s Banking sector. The SEACEN centre, 278, 35-60. Kuala Lumpur,
Malaysia.
12. Shrestha, M. B. (2015). Advancing Inclusive Financial System in the next decade. The
SEACEN centre, 278. Kuala Lumpur, Malaysia.
13. The World Bank (2013). World development report 2014: Risk and opportunity.
Managing risk fordevelopment. The World Bank, Washington DC, USA.
14. The World Bank (2014). Global Financial Development report 2014: Financial
Inclusion. The World Bank, Washington DC, USA.
15. The World Bank Group’s current partnership with Malaysia (2017), Financial Inclusion
in Malaysia - Distilling Lessons for Other Countries
16. The Economist Intelligence Unit (EIU). (2015). Global Microscope 2015: The enabling
environment for financial inclusion. Sponsored by MIF/IDB, CAF, Accion and the Metlife
Foundation. EIU, New York, NY.
17. Woro Widyaningrum. (2015). Advancing Inclusive Financial System in the next decade:
Strategy of Financial Inclusion - The case of Indonesia. The SEACEN centre, 278, 63-90. Kuala
Lumpur, Malaysia.
18.Zarina Abd. Rahman & Wan Mohammad Zainuddin Mohammad Zaini. (2015).
Advancing Inclusive Financial System in the next decade: Advancing Inclusive Financial system
in the next decade in Malaysia. The SEACEN centre, 278, 91-112. Kuala Lumpur, Malaysia.
557
nguon tai.lieu . vn