- Trang Chủ
- Nông nghiệp
- Phát triển nông nghiệp bền vững ở Việt Nam trong bối cảnh cách mạng 4.0: Những thách thức và gợi ý chính sách
Xem mẫu
- The fourth Scientific Conference - SEMREGG 2018
PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP BỀN VỮNG Ở VIỆT NAM
TRONG BỐI CẢNH CÁCH MẠNG 4.0: NHỮNG THÁCH THỨC VÀ
G I Ý CHÍNH SÁCH
Phạm Hữu Thanh Nhã1
1
Khoa Luật & Lý luận chính trị
Trường ĐH Tài Nguyên và Môi Trường TP.HCM
236B Lê Văn Sỹ, Phường 1, Quận Tân Bình, TP. Hồ Chí Minh
Email: nha.pht@hcmunre.edu.vn
TÓM TẮT
Trên nền tảng lý thuyết về phát triển nông nghiệp bền vững, bài viết sử dụng nguồn số liệu thứ
cấp từ Tổng cục Thống kê và Báo cáo hiện trạng môi trường quốc gia của Bộ Tài nguyên và Môi
trường để phân tích thực trạng phát triển nông nghiệp bền vững ở Việt Nam, thể hiện ở hai khía
cạnh chính là môi trường tự nhiên và môi trường con người. Từ đó, bài viết nhận diện những thách
thức mà nền nông nghiệp Việt Nam phải đối mặt để có thể phát triển bền vững trong bối cảnh cách
mạng 4.0, đồng thời đề xuất một số giải pháp để phát triển nông nghiệp bền vững ở Việt Nam trong
thời gian tới.
Từ khóa: Phát triển nông nghiệp bền vững, cách mạng 4.0.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Phát triển nông nghiệp bền vững là mục tiêu mà Việt Nam đang hướng đến. Trong bối cảnh
cách mạng 4.0 đang diễn ra và tác động mạnh mẽ vào lĩnh vực nông nghiệp thì Việt Nam cũng phải
nhanh chóng nắm bắt xu hướng này. Vì vậy, nghiên cứu để nhận diện thực trạng phát triển nông
nghiệp bền vững ở Việt Nam, chỉ ra những thời cơ và thách thức trên con đường phát triển nhằm
tìm ra những giải pháp tháo gỡ là điều hết sức cần thiết.
2. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tƣơng nghiên cứu
Thực trạng phát triển nông nghiệp bền vững ở Việt Nam hiện nay, nhận diện những rào cản
chủ yếu trên con đường phát triển nông nghiệp bền vững trong bối cảnh cách mạng 4.0. Từ đó gợi
ý những giải pháp cơ bản để thúc đẩy nền nông nghiệp Việt Nam phát triển bền vững trong thời
gian tới.
2.2. Phƣơng pháp nghiên cứu
Bài viết thu thập số liệu thứ cấp từ Tổng cục thống kê, từ Báo cáo hiện trạng môi trường quốc
gia giai đoạn 2011 - 2015 của Bộ Tài nguyên và Môi trường để tiến hành phân tích, đánh giá thực
trạng phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững ở nước ta.
Trên cơ sở nguồn dữ liệu thu thập được, bài viết chủ yếu sử dụng phương pháp thống kê mô tả
và phân tích, tổng hợp.
380
- Hội nghị Khoa học Công nghệ lần thứ 4 - SEMREGG 2018
3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Khía cạnh kinh tế học về phát triển nông nghiệp bền vững
Vào thập niên 90 của thể kỷ XX, một trong những mối quan tâm hàng đầu của thế giới trong
lĩnh vực nông nghiệp là phát triển nông nghiệp bền vững. Cho đến nay có rất nhiều định nghĩa về
nông nghiệp bền vững của các học giả Douglas GK (1980), Nijkamp, Bergh và Soetoman (1990),
Rao CHH và Chopra K(1991),… nhưng tựu chung lại, phát triển bền vững cốt lõi phải đảm bảo
được 2 yếu tố sau:
+ Thứ nhất là môi trường tự nhiên: không thể phát triển bền vững khi mà tăng trưởng nông
nghiệp diễn ra kèm theo đó là suy thoái môi trường tự nhiên, làm mất cân bằng sinh thái.
Biểu hiện của nông nghiệp bền vững theo khía cạnh này theo thời gian được đo lường bởi các
tiêu chí như: Tốc độ tăng trưởng bình quân hằng năm của sản lượng nông nghiệp và dân số, năng
suất đất và lao động theo thời gian, diện tích rừng bị phá và khôi phục, độ màu mỡ của đất,…
+ Thứ hai là môi trường con người: Phát triển nông nghiệp được xem là bền vững khi mà đảm
bảo được sinh kế bền vững cho nông dân, đồng thời đảm bảo sức khỏe - dinh dưỡng và trình độ văn
hóa cho nông dân.
Biểu hiện của nông nghiệp bền vững theo khía cạnh này theo thời gian được đo lường bởi các
tiêu chí như: tỉ lệ hộ nghèo đói ở vùng nông thôn, tỉ lệ lao động thất nghiệp ở vùng nông thôn, trình
độ dân trí của người dân nông thôn,…
Như vậy, có rất nhiều lý thuyết về phát triển nông nghiệp bền vững, trong đó đa phần đều
thống nhất rằng phát triển nông nghiệp bền vững là mô hình phát triển, mà trong đó có sự ràng
buộc giữa tăng trưởng nông nghiệp với môi trường tự nhiên, sự nghèo đói và môi trường con người
của nông dân và người dân nông thôn.
3.2. Thực trạng phát triển nông nghiệp bền vững ở Việt Nam
3.2.1. T ng trưởng của ngành nông nghiệp
CẢ NƯỚC NGÀNH NÔNG NGHIỆP DÂN SỐ
8.48
6.78 6.81
6.23 5.98 6.21
5.89 5.68
5.32 5.25 5.42
3.79 4.01
3.4 3.49
2.78 2.68 2.64 2.9
2.41
1.82
1.09 1.07 1.09 1.07 1.05 1.08 1.07 1.08 1.08 1.36
1.07 1.03
2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017
Nguồn: Tổng cục thống kê.
Hình 1. Tốc độ tăng trưởng (ĐVT: %).
Khi Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO) năm 2007, chính thức hội nhập
sâu rộng với thế giới thì kinh tế Việt Nam chịu ảnh hưởng bởi tình hình kinh tế của thế giới. Riêng
ngành nông nghiệp đã có sự tăng trưởng liên tục. Trong giai đoạn 2007-2014, tốc độ tăng trưởng
381
- The fourth Scientific Conference - SEMREGG 2018
của ngành nông nghiệp dao động khoảng 3 %/năm, từ năm 2015 đến nay tốc độ tăng trưởng có
phần giảm sút. Nhưng nhìn chung, ngành nông nghiệp luôn duy trì đà tăng trưởng ổn định, đóng
góp quan trọng vào sự tăng trưởng của nền kinh tế. Tốc độ tăng trưởng của cả nước và của ngành
nông nghiệp luôn cao hơn nhiều so với tốc độ gia tăng dân số.
3.2.2. Hiện trạng m i trường tự nhiên
- Hiện trạng rừng
Mặc dù thời gian qua Chính phủ đã chú trọng đến việc trồng rừng và nâng cao tỉ lệ che phủ,
tuy nhiên diện tích rừng bị suy giảm do tình trạng chặt phá và bị cháy vẫn đáng lo ngại, nhất là diện
tích rừng tự nhiên. Trung bình 10 năm qua, diện tích bị suy giảm là 36.835,9 ha, trong khi diện tích
rừng được trồng mới là chỉ 2.216,4 ha. Tính ra tổng diện tích bị suy giảm cao hơn 21 lần so với diện
tích rừng trồng mới.
Bảng 1. Hiện trạng rừng Việt Nam (ĐVT: ha).
Năm Rừng trồng mới Tổng diện tích bị suy giảm Diện tích bị chặt phá Diện tích bị cháy
2007 189,9 6.484,5 1.348,1 5.136,4
2008 200,1 4721,9 3.172,2 1.549,7
2009 243,0 3221,0 1.563,0 1.658,0
2010 252,5 8676,9 3.942,0 4.734,9
2011 212,0 7887,4 6.710,3 1.177,1
2012 187,0 3636,5 2.251,0 1.385,5
2013 227,1 1699,5 1.204,5 495,0
2014 221,7 2492,1 716,5 1.775,6
2015 250,0 3496,6 1.506,7 1.989,9
2016 233,1 4519,5 1.198,7 3.320,8
Nguồn: Tổng cục thống kê.
- Hiện trạng m i trƣờng đất nông nghiệp
Theo số liệu thống kê, tính đến ngày 31 tháng 12 năm 2015, tổng diện tích đất cả nước là
33123,1 nghìn ha, trong đó đất sản xuất nông nghiệp và lâm nghiệp là 26.453,8 nghìn ha, chiếm
80 % diện tích đất của cả nước.
Tuy nhiên, kết quả điều tra cho thấy tài nguyên đất ở nước ta đang bị suy thoái. Cụ thể ở Tây
Nguyên đất bị thoái hóa nặng, ước khoảng 547.800 ha (chiếm 10 %). Nguyên nhân chính là do nạn
chặt phá, đốt rừng tại đây.
Ở khu vực Đồng bằng sông Cửu Long, tỷ lệ nhóm đất thoái hóa nặng chiếm tỷ lệ khá cao
(14 %), chủ yếu do nhiễm mặn và nhiễm phèn.
Tỷ lệ đất bị thoái hóa nặng cao nhất ở khu vực duyên hải Nam Trung Bộ (21 %). Ở vùng Đồng
bằng Sông Hồng, nhóm đất thoái hóa nặng chỉ chiếm 4 %.
Bên cạnh đó, môi trường đất ở nước ta thời gian qua bị ô nhiễm chủ yếu do sử dụng không hợp
lý phân bón hóa học và thuốc bảo vệ thực vật trong nông nghiệp.
Việc sử dụng phân bón hóa học mất cân đối, thời gian bón, cách bón phân không có cơ sở
khoa học và mang tính tự phát, dẫn đến hậu quả làm ô nhiễm môi trường, mất cân bằng sinh thái,
làm cho đất bị chua hóa, mất khả năng sản xuất.
382
- Hội nghị Khoa học Công nghệ lần thứ 4 - SEMREGG 2018
Song song với việc sử dụng phân bón tràn lan, lượng thuốc bảo vệ thực vật cũng đang tăng
nhanh. Theo thống kê của Cục Bảo vệ thực vật, từ năm 2011 đến 2015, hàng năm Việt Nam nhập
và sử dụng từ 70.000 đến 100.000 tấn thuốc bảo vệ thực vật. Trong đó, thuốc trừ sâu chiếm khoảng
20 %, thuốc trừ bệnh chiếm khoảng 23 %, thuốc trừ cỏ khoảng 44 %, các loại thuốc bảo vệ thực vật
khác chiếm 13 %. Các chất độc hại nêu trên tồn tại dư lượng trong môi trường, ngấm xuống đất gây
ô nhiễm môi trường đất.
- Hiện trạng m i trƣờng nƣớc
Hiện nay, tài nguyên nước của nước ta ẩn chứa nhiều yếu tố kém bền vững gây suy giảm tài
nguyên nước, do nhu cầu sử dụng nước gia tăng trong khi nguồn nước đang tiếp tục bị suy giảm,
đặc biệt là trong mùa khô, nhiều vùng phải đối mặt với nguy cơ thiếu nước, một số khu vực thuộc
loại khan hiếm nước. Trong khi nhu cầu nước không ngừng tăng lên thì nhiều dòng sông lại bị suy
thoái, ô nhiễm, nước sạch ngày một khan hiếm. An ninh về nước cho phát triển bền vững và bảo vệ
môi trường đang không được bảo đảm ở nhiều nơi, nhiều vùng trên cả nước.
Môi trường nước ta hiện cũng bị ô nhiễm do nhiều nguyên nhân, trong đó có hoạt động sản
xuất nông nghiệp.
Trước hết là hoạt động chăn nuôi. Hoạt động chăn nuôi gia súc, gia cầm thời gian qua tăng
trưởng liên tục với các trang trại chăn nuôi tập trung ngày càng được mở rộng về quy mô và diện
tích. Theo Cục Chăn nuôi, trung bình mỗi năm ngành chăn nuôi thải ra 85-90 triệu tấn phân,
nhưng chỉ khoảng 40 % được xử lý, phần còn lại bị xả thải trực tiếp ra môi trường. Điều này làm
ảnh hưởng nghiêm trọng đến nước mặt, nước ngầm, tạo mùi khó chịu, ảnh hưởng tới sức khỏe
người dân.
Trong lĩnh vực nuôi trồng thủy sản, giai đoạn vừa qua diện tích mặt nước sử dụng cho nuôi
trồng không tăng, nhưng sản lượng thủy sản lại gia tăng liên tục, với mức tăng bình quân là
9,07 %/năm. Bên cạnh những thành tựu kinh tế đạt được, thì vấn đề ô nhiễm nguồn nước chủ yếu
từ việc xả nước thải không qua xử lý ra hệ thống sông ngòi tại các địa phương đang là hiện tượng
nhức nhối.
Cùng với đó, việc sử dụng không hợp lý phân bón hóa học và thuốc bảo vệ thực vật trong
nông nghiệp không chỉ làm cho đất bị ô nhiễm mà cũng làm cho môi trường nước bị ô nhiễm. Theo
kết quả điều tra của cục Quản lý tài nguyên nước, từ gần 323 nghìn mẫu phân tích tại 6938 xã trên
địa bàn 660 huyện thuộc 63 tỉnh, thành phố trên cả nước năm 2014, có 12,5 % số mẫu có hàm lượng
asen từ 0,05 mg/L trở lên, vùng Đồng bằng Sông Hồng có tỷ lệ cao nhất (18,7 %), vùng Tây Bắc có
tỷ lệ thấp nhất (0,1 %). Có 1.385 xã, trên địa bàn 54 tỉnh (chiếm 12,5 %) phát hiện ít nhất một mẫu
có hàm lượng asen từ 0,05 mg/L trở lên.
Nhận xét: Từ việc phân tích hiện trạng trên cho thấy cách thức sản xuất nông nghiệp ở nước ta
còn lạc hậu, mặc dù đạt mục tiêu tăng trưởng nông nghiệp nhưng việc khai thác quá mức tài nguyên
thiên nhiên và lạm dụng hóa chất, không thực hiện việc xử lý tốt chất thải từ các hoạt động nông
nghiệp đã làm suy thoái môi trường và làm cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên ở nước ta.
3.2.3. Hiện trạng m i trường con người
Về số lượng: Theo số liệu từ Tổng cục thống kê, dân số Việt Nam hiện hơn 94 triệu người,
nhưng tập trung ở khu vực nông thôn tới khoảng 65 %, thành thị khoảng 25 %.
Năm 2017, lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên của cả nước là 53.7 triệu người, chủ yếu tập
trung ở khu vực nông nghiệp.
383
- The fourth Scientific Conference - SEMREGG 2018
(ĐVT: %)
Nông nghiệp Công nghiệp Dịch vụ
29.5 30.3 31.6 32.2 32.4 33.3 33.3 34
21 21.3 21 21.1 21.3 22.7 24.8 25.7
49.5 48.4 47.4 46.7 46.3 44 41.9 40.3
2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017
Nguồn: Tổng cục thống kê và tính toán của tác giả.
Hình 1. Cơ cấu lao động của các khu vực kinh tế giai đoạn 2010-2017.
+ Xét theo nhóm tuổi: thì lực lượng lao động trên 40 tuổi trở lên chiếm khoảng 50 % và đang
có xu hướng ngày càng già đi.
4,44%
20,7% Dưới 20 tuổi
21,21%
Từ 20 đến dưới 30 tuổi
28,3% 25,52% Từ 30 đến dưới 40 tuổi
Từ 40 đến dưới 50 tuổi
Từ 50 tuổi trở lên
Nguồn: Tổng cục thống kê.
Hình 2. Lao động trong nông nghiệp phân theo nhóm tuổi năm 2016.
Bảng 2. Trình độ dân trí ở nông thôn từ 15 tuổi trở lên chia theo bằng cấp cao nhất.
Tỷ lệ dân số chia theo trình độ
Tỷ lệ dân số chia theo trình độ giáo dục (%)
chuyên môn kĩ thuật (%)
Năm Chưa Chưa Tốt Tốt Tốt Sơ cấp Trung Cao đẳng/
từng tốt nghiệp nghiệp nghiệp nghiệp nghề cấp Đại học
đi học tiểu học tiểu học THCS THPT trở lên
2008 8,8 15,3 24,9 30,1 12,3 2,5 3,7 2,4
2010 7,3 16,5 24,9 29,3 12,2 2,6 4,1 3,0
2012 6,9 16,2 24,7 29,7 12,3 2,5 3,9 3,7
2014 6,6 15,4 24,3 30,4 12,5 2,3 3,8 4,7
2016 5,8 13,4 25,3 32,8 12,8 0,6 3,4 5,8
Nguồn: Tổng cục thống kê.
384
- Hội nghị Khoa học Công nghệ lần thứ 4 - SEMREGG 2018
Về chất lượng lao động: Mặc dù ở Việt Nam tỉ lệ người biết chữ rất cao trên 95 %, nhưng trình
độ dân trí của người dân vùng nông thôn còn thấp và chậm cải thiện theo thời gian. Tỉ lệ dân số
chưa tốt nghiệp tiểu học lên đến trên 20 %, trong khi đó tỉ lệ dân số có trình độ cao đẳng, đại học
chỉ chiểm tỉ lệ rất khiêm tốn, dao động khoảng 5 %.
Theo kết quả điều tra lao động việc làm của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, năm 2017
cả nước có 11,6 triệu người có bằng cấp/chứng chỉ đang làm việc (chiếm 21,5 % tổng số người
đang làm việc) thì ngành nông nghiệp chỉ có 870.000 người có bằng cấp/chứng chỉ, chiếm 7,49 %.
Con số này là quá thấp so với mặt bằng chung của các ngành khác.
7,49%
Nông nghiệp
22,41%
Công nghiệp
70,1%
Dịch vụ
Nguồn: Bộ Lao động Thương binh và Xã hội.
Hình 3. Cơ cấu người có bằng cấp chứng chỉ theo ngành làm việc năm 2017.
Từ những số liệu thống kê bên trên, có thể khái quát bức tranh về nguồn nhân lực của ngành
nông nghiệp Việt Nam là đông về số lượng, nhưng chất lượng nguồn nhân lực thì thấp thể hiện qua
trình độ dân trí thấp, tỉ lệ lao động đã qua đào tạo và số người có bằng cấp chuyên môn thấp hơn rất
nhiều so với các ngành khác. Lực lượng lao động này chủ yếu là lao động giản đơn và đang phải đối
mặt với xu hướng già hóa dân số.
Về mức sống và thu nhập của ngƣời dân nông thôn
Từ sau đổi mới đến nay, Việt Nam đã đạt kết quả to lớn trong công tác xóa đói giảm nghèo.
Mặc dù tỉ lệ nghèo đói ở Việt Nam trong thời gian qua liên tục giảm, tuy nhiên tỉ lệ hộ nghèo ở
nông thôn còn cao.
Bảng 3. Tỷ lệ hộ nghèo (ĐVT: %).
Năm 2008 2010 2012 2014 2016
Cả nước 13,4 14.2 11,1 8,4 5,8
Thành thị 6,7 6,9 4,3 3,0 2,0
Nông thôn 16,1 17,4 14,1 10,8 7,5
Nguồn: Tổng cục thống kê.
Cũng ở vùng nông thôn, tỉ lệ thiếu việc làm cao gần gấp 3 lần thành thị, do đó thu nhập bình
quân đầu người thấp, chỉ bằng 1/3 thu nhập trung bình của cả nước.
385
- The fourth Scientific Conference - SEMREGG 2018
Bảng 4. Tỷ lệ thiếu việc làm của lực lượng lao động trong độ tuổi lao động (ĐVT: %).
Năm 2010 2013 2014 2015 2016
Cả nước 3,75 2,75 2,40 1,89 1,66
Thành thị 1,82 1,48 1,20 0,84 0,73
Nông thôn 4,26 3,31 2,96 2,39 2,12
Nguồn: Niên giám thống kê 2016.
Nông nghiệp Cả nước 93.2
84.5
79.4
74.7
68.7
63.1
55.2
44
32.9 35.8
26.4 28.6 30.6
22.3 25.6
16.3
2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017
Nguồn: Tổng cục thống kê.
Hình 4. Thu nhập bình quân tính theo giá hiện hành phân theo ngành kinh tế
(ĐVT: triệu đồng/người/năm).
Với mức thu nhập thấp dẫn đến chất lượng cuộc sống của người dân vùng nông thôn chưa cao,
mức thụ hưởng và tiếp cận các dịch vụ còn hạn chế.
Ví dụ như dịch vụ khám chưa bệnh. Theo kết quả khảo sát mức sống dân cư Việt Nam năm
2014 của Tổng cục thống kê, thì có 84 % lượt người ở khu vực nông thôn khám, chữa bệnh nội trú
tại các bệnh viện Nhà nước, trong khi tỷ lệ này ở khu vực thành thị là 91 %.
Tỷ lệ hộ dùng nước máy của cả nước đạt 34,3 %, trong đó thành thị đạt 73,4 %, nông thôn đạt
16,6 %. Tỷ lệ hộ có hố xí tự hoại và bán tự hoại đạt 67,4 %, trong đó khu vực nông thôn đạt 56,9 %.
Số hộ có rác thải được thu gom đạt 48,6 %, trong đó khu vực thành thị đạt 81,4 %, nông thôn đạt
33,8 %.
Bảng 5. Tỷ lệ hộ có nguồn nước hợp vệ sinh (ĐVT: %).
Năm 2008 2010 2012 2014 2016
Cả nƣớc 92,1 90,5 91,0 93,0 93,4
Thành thị 97,6 97,7 98,1 98,3 99,0
Nông thôn 89,9 87,4 87,9 90,6 90,8
Nguồn: Tổng cục thống kê.
Nhận xét: Như vậy, trong thời gian dài vừa qua, tăng trưởng nông nghiệp duy trì ở mức cao và ổn
định nhưng môi trường con người vùng nông thôn chậm được cải thiện và chưa phát triển tương xứng.
386
- Hội nghị Khoa học Công nghệ lần thứ 4 - SEMREGG 2018
3.3. Phát triển nông nghiệp bền vững trong bối cảnh cách mạng 4.0
3.3.1. Tác động của cuộc cách mạng 4.0 đối với ngành nông nghiệp
Nhân loại hiện nay đang ở cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật lần thứ 4. Cuộc cách mạng này
diễn ra vào đầu thế kỷ XXI đến nay với đặc trưng chính là dựa trên nền tảng công nghệ số và tích hợp
tất cả các công nghệ thông minh để tối ưu hóa các quy trình và phương thức sản xuất, kinh doanh.
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư được ứng dụng vào lĩnh vực nông nghiệp đã tạo ra nền nông
nghiệp 4.0. Nông nghiệp 4.0 là nền nông nghiệp thông minh, đặc trưng bởi: số hóa, kết hợp hữu cơ
giữa công nghệ vật lý, công nghệ sinh học và công nghệ điều hành, tự động hóa và thông minh hóa,
đảm bảo cho chuỗi thực phẩm nông sản diễn ra liên tục, hiệu quả và bền vững. Khác với nông nghiệp
công nghệ cao đó là tập trung thay đổi phương thức sản xuất từ truyền thống sang hiện đại, nông
nghiệp 4.0 chính là thay đổi phương thức quản lý nông nghiệp. Theo đó, nông nghiệp 4.0 sẽ mở
đường cho những hoạt động sản xuất chính xác, chặt chẽ mà con người không cần có mặt trực tiếp.
Hiện tại, nông nghiệp Việt Nam cũng đã nắm bắt xu hướng này, một vài doanh nghiệp và nông
dân đã áp dụng một số thành phần của nông nghiệp 4.0 vào sản xuất. Tuy nhiên, hiện tại chúng ta
chưa có mô hình nông nghiệp 4.0 hoàn chỉnh.
3.3.2. Những thời cơ và thách thức để phát triển nông nghiệp b n vững ở Việt Nam
Với thực trạng phát triển nông nghiệp bền vững ở Việt Nam hiện nay, thì cách mạng 4.0 tạo
cho chúng ta nhiều cơ hội để thay đổi phương thức sản xuất lạc hậu, làm tăng năng suất lao động,
đồng thời giải quyết những khó khăn mà ngành nông nghiệp đang đối mặt như diện tích đất nông
nghiệp ngày càng bị thu hẹp, giá nhân công ngày càng tăng, thời tiết ngày càng cực đoan do biến
đổi khí hậu,…
Tuy nhiên để phát triển nông nghiệp bền vững ở nước ta trong thời gian tới, chúng ta phải đối
mặt với những thách thức sau đây:
Thứ nhất: Tư duy tiểu nông còn rất nặng nề.
Cho đến nay Việt Nam vẫn chưa hoàn thành công nghiệp hóa, nghĩa là về cơ bản vẫn là nước
nông nghiệp lạc hậu, người nông dân vẫn mang nặng tâm lý tiểu nông rất năng nề. Họ quan tâm đến
lợi ích của cá nhân hơn là lợi ích của xã hội. Trong bối cảnh kinh tế thị trường hiện nay, họ đặt mục
tiêu lợi nhuận lên trên hết nên dễ dàng bỏ qua yếu tố môi trường và sức khỏe của người khác. Do
vậy, tình trạng lạm dụng hóa chất và thuốc bảo vệ thực vật để thu nhiều lợi nhuận sẽ còn diễn ra,
môi trường tự nhiên tiếp tục bị hủy hoại.
Mặc khác, do thu nhập thấp, cuộc sống khó khăn nên họ sẵn sàng khai thác tận diệt các nguồn
lực trong tự nhiên để đảm bảo sinh kế trước mắt mà không nghĩ đến thế hệ tương lai. Chính kiểu tư
duy này đã tạo ra thách thức không nhỏ trong việc bảo vệ môi trường tự nhiên ở nước ta.
Thứ 2: Chất lượng nguồn nhân lực trong lĩnh vực nông nghiệp còn quá thấp.
Mặc dù có tỉ lệ người biết chữ cao nhưng trình độ dân trí ở vùng nông thôn còn thấp, đa phần
là lớn tuổi và đang có xu hướng già đi. Điều này dẫn đến những hạn chế trong nhận thức của họ về
môi trường, khó để họ hiểu thế nào là phát triển bền vững, cũng như tiếp cận những giải pháp công
nghệ cao vào sản xuất để bảo vệ môi trường. Đây sẽ là thách thức rất lớn để họ tiếp cận công nghệ
và sử dụng các thành phần tiên tiến của nông nghiệp 4.0 trong sản xuất.
Bên cạnh đó, một bộ phận nông dân có tư duy ngại thay đổi, không dám đối mặt với rủi ro, nên
họ cứ ôm mãi cách sản xuất cũ, không chịu học hỏi tiếp thu công nghệ mới trong sản xuất, nhất là
lực lượng lao động trong độ tuổi trung niên và lão niên.
Thứ ba: Sự chênh lệch về thu nhập, gia tăng khoảng cách bất bình đẳng.
387
- The fourth Scientific Conference - SEMREGG 2018
Hiện nay, số nông dân tiên phong làm nông nghiệp 4.0 chiểm tỉ lệ rất nhỏ. Vì vậy thành quả của
công nghệ mới này chỉ có một bộ phận nhỏ được thụ hưởng, tức là mức thu nhập của họ cao nhờ áp
dụng công nghệ mới. Phần lớn còn lại với cách làm nông nghiệp truyền thống, thu nhập vẫn sẽ bấp
bênh, khó được cải thiện. Từ đó sẽ làm gia tăng khoảng cách chênh lệch giàu nghèo trong xã hội.
Thứ tư: Vấn đề giải quyết viêc làm.
Khi áp dụng các thành phần 4.0 vào sản xuất nông nghiệp sẽ sử dụng rất ít lao động, vì phần
lớn máy móc đã thay thế cho con người ở những công đoạn giản đơn, vì vậy tỉ lệ thất nghiệp ở nông
thôn sẽ tăng lên. Mặc dù nền kinh tế có xu hướng tự cân bằng cung cầu, khi thay đổi phương thức
sản xuất sẽ làm xuất hiện những ngành mới, nhưng trong điều kiện ở Việt Nam hiện nay, với lực
lượng lao động dồi dào, chủ yếu là lao động phổ thông, tập trung đông ở khu vực nông nghiệp, thì
giải quyết bài toán việc làm là vấn đề không hề đơn giản.
Trình độ dân trí, việc làm, thu nhập có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, khi thu nhập thấp thì
mức độ đầu tư cho phát triển con người như giáo dục, chăm sóc sức khỏe… cũng sẽ bị hạn chế. Do
đó mục tiêu cải thiện môi trường con người ở khu vực nông thôn sẽ khó đạt được.
4. KẾT LUẬN VÀ GỢI Ý CHÍNH SÁCH
Phát triển nông nghiệp bền vững vẫn sẽ là mục tiêu xuyên suốt của Việt Nam trong thời gian
tới. Trên cơ sở những thách thức nêu trên, chúng tôi xin kiến nghị những giải pháp sau đây:
Một là: Trong nền kinh tế thị trường, Nhà nước giữ vai trò quản lý, tạo điều kiện để nền kinh
tế diễn ra một cách hiệu quả, giúp khắc phục những khuyết tật của thị trường. Cụ thể ở đây là Nhà
nước cần làm tốt vai trò quản lý của mình, kiểm soát chặt chẽ hàng hóa nông nghiệp trên thị trường,
đảm bảo phải đạt tiêu chuẩn chất lượng về an toàn vệ sinh thực phẩm. Phải quyết liệt xem chống
thực phẩm bẩn là vấn đề an nguy của quốc gia vì nó liên quan trực tiếp đến bữa ăn hằng ngày của
nhân dân. Có như vậy thì mới chấm dứt nạn lạm dụng hóa chất, thuốc bảo vệ thực vật trong sản
xuất nông nghiệp, góp phần làm thay đổi tư duy sản xuất của nông dân.
Hai là: Tập trung đầu tư cho con người ở vùng nông thôn trên hai khía cạnh chính là giáo dục
và y tế để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Trước mắt cần có kế hoạch đào tạo, nâng cao khả
năng ứng dụng khoa học kĩ thuật vào trong sản xuất cho người làm nông. Về lâu dài, phải đạt mục tiêu
xây dựng được lực lượng lao động có trình độ cao để phục vụ cho phát triển nông nghiệp hiện đại.
Bên cạnh đó, Nhà nước cần tăng cường đầu tư cải thiện môi trường sống ở vùng nông thôn,
nhất là cơ sở hạ tầng, vệ sinh môi trường, chăm sóc sức khỏe.
Ngoài ra, cần đổi mới các biện pháp giáo dục, tuyên truyền nhằm nâng cao nhận thức của
người dân về bảo vệ môi trường. Ý thức bảo vệ môi trường phụ thuộc không chỉ vào trình độ dân trí
mà còn phụ thuộc vào nhận thức của mỗi người vào đạo đức của mỗi cá nhân. Vì vậy phải thường
xuyên tuyên truyền, giáo dục cho người dân về lòng tự trọng, về trách nhiệm của mình với xã hội,
về đạo đức với môi trường, tránh cách tuyên truyền sáo rỗng, kém hiệu quả như giai đoạn vừa qua.
Thứ 3: Mở rộng các ngành nghề, việc làm phi nông nghiệp. Đẩy mạnh cải cách hành chính, có
chính sách ưu đãi, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp hoạt động, góp phần giải quyết tình trạng
thiếu việc làm ở vùng nông thôn.
Thứ 4: Chênh lệch giàu nghèo và bất bình đẳng là hiện tượng tất yếu sẽ diễn ra trong quá trình
phát triển kinh tế thị trường. Nhưng không thể để quá trình này diễn ra một cách tự phát, mà phải có
sự can thiệp của Nhà nước. Chính phủ cần thực hiện tốt hơn nữa chính sách an sinh xã hội, tạo điều
kiện cho người nghèo tiếp cận các dịch vụ giáo dục, y tế của Chính phủ. Bên cạnh đó, tiếp tục huy
động mọi nguồn lực trong xã hội cho công tác xóa đói giảm nghèo.
388
- Hội nghị Khoa học Công nghệ lần thứ 4 - SEMREGG 2018
TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH
1. Bộ Tài nguyên và Môi Trường (2016) - Báo cáo hiện trạng môi trường quốc gia giai đoạn 2011
- 2015.
2. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2018) - Bảng tin cập nhật thông tin lao động việc làm
Việt Nam số 16 quý 4 - 2017.
3. Đỗ Kim Chung (2018) - Nông nghiệp 4.0 và một số gợi ý chính sách..
4. Lưu Tiến Dũng (2016) - Phát triển nông nghiệp bền vững ở Việt Nam trong bối cảnh mới của
hội nhập kinh tế quốc tế.
.
5. Lê Quý Kha (2017) - Mô hình nông nghiệp 4.0 và khả năng áp dụng ở Việt Nam .
6. Đinh Phi Hổ (2008) - Kinh tế học nông nghiệp bền vững. Nxb. Phương Đông.
7. Tổng cục thống kê (2017) - Niên giám thống kê 2016, Hà Nội, Nxb. Thống kê.
8. Tổng cục thống kê (2018) - Báo cáo tình hình kinh tế xã hội năm 2017.
9. Tổng cục thống kê (2017) - Báo cáo tóm tắt Kết quả tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp và
thủy sản năm 2016.
10. Tổng cục thống kê (2016) - Kết quả khảo sát mức sống dân cư Việt Nam năm 2014.
SUSTAINABLE DEVELOPMENT OF VIETNAMESE AGRICULTURE IN THE
INDUSTRY 4.0: CHALLENGES AND POLICY SUGGESTIONS
Pham Huu Thanh Nha
Faculty of Law and Political theory
Hochiminh City University of Natural Resources and Environment
Email: nha.pht@hcmunre.edu.vn
ABSTRACT
On a theoretical basis about Sustainable agricultural development, the author uses secondary
data from The General Department of statistics, report current nation about environtment of
Ministry of Natural Resources and Environment to analyze the current situation of sustainable
agricultural development in Vietnam, expressed in two aspects: the natural environment and the
human environment. On this basis, we identify the challenges faced by Vietnam's agriculture in the
context of the 4.0 revolution. At the same time, the author offers some solutions to promote
Vietnamese sustainable agriculture in the coming years.
Keywords: Sustainable agricultural development, revolution 4.0.
389
nguon tai.lieu . vn