- Trang Chủ
- Xã hội học
- Phát triển nguồn lực trí thức nữ trong bối cảnh Công nghiệp 4.0 tại Việt Nam
Xem mẫu
- PHÁT TRIỂN NGUỒN LỰC TRÍ THỨC NỮ TRONG BỐI CẢNH
CÔNG NGHIỆP 4.0 TẠI VIỆT NAM
Hà Diệu Linh* - Trần Thị Thanh Nga** - Nguyễn Thị Hiền***
1 2 3
Tóm tắt: Nguồn lực trí thức nói chung và nguồn lực trí thức nữ nói
riêng là nguồn nhân lực có đóng góp quan trọng vào công cuộc
xây dựng và phát triển đất nước. Trong bối cảnh công nghiệp 4.0,
nguồn lực trí thức nữ có vị trí quan trọng trong đội ngũ trí thức
nói chung không chỉ vì về mặt số lượng, mà còn do những đặc
điểm về sinh lý, tâm lý. Bài viết này nghiên cứu làm rõ đặc điểm,
vai trò của nguồn lực trí thức nữ và kiến nghị các giải pháp phát
triển nguồn lực trí thức nữ trong bối cảnh công nghiệp 4.0.
Từ khoá: Nguồn lực; Trí thức nữ; Công nghiệp 4.0.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Phụ nữ Việt Nam chiếm hơn 48% lực lượng lao động xã hội, có
mặt trong mọi lĩnh vực, trên mọi địa bàn, chủ động tham gia các hoạt
động của đời sống xã hội, thực hiện tốt chủ trương, đường lối của
Ðảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; tích cực hưởng ứng các
phong trào thi đua yêu nước, đạt nhiều thành tích xuất sắc. Ðồng
thời, phụ nữ làm tốt vai trò người vợ, người mẹ, giữ thiên chức làm
mẹ, sinh con, duy trì nòi giống, là điểm tựa tinh thần vững chắc, gắn
kết các thành viên trong gia đình, cùng chăm lo xây dựng gia đình
hạnh phúc. Do vậy, lực lượng lao động nữ chính là nguồn nhân lực
có vai trò đặc biệt.
*
Nghiên cứu sinh, Bộ Giáo dục và Đào tạo.
**
Trung tâm Thông tin - Thư viện, Đại học Quốc gia Hà Nội.
***
Thạc sĩ, Trường Đại học Y dược, Đại học Quốc gia Hà Nội.
- PHÁT TRIỂN NGUỒN LỰC TRÍ THỨC NỮ TRONG BỐI CẢNH CÔNG NGHIỆP 4.0 TẠI VIỆT NAM
297
Ở Việt Nam, nguồn lực trí thức nói chung và nguồn lực trí thức
nữ nói riêng là nguồn nhân lực có đóng góp quan trọng vào công
cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Kinh nghiệm và thực tiễn các
nước có nền kinh tế phát triển cao cho thấy quá trình phát triển kinh
tế số đòi hỏi phải có một đội ngũ lao động có trình độ chuyên môn kỹ
thuật cao, sức sáng tạo lớn, trong đó nguồn lực trí thức nữ đóng vai
trò không nhỏ. Do đó, việc phát triển và phát huy năng lực sáng tạo
mọi lực lượng lao động trong xã hội, trong đó có trí thức nữ là một
nhiệm vụ có ý nghĩa quyết định.
Trong bối cảnh công nghiệp 4.0 sẽ tạo ra những bước nhảy vọt về
năng suất lao động trong các ngành nghề nhưng đồng thời cũng đặt
ra các thách thức đối với lực lượng lao động khi máy móc sẽ dần thay
thế lao động chân tay và dần thay thế cả những lao động có kỹ thuật
và nhân viên văn phòng (Đỗ Anh Đức, 2020), nguồn lực trí thức nữ có
vị trí quan trọng trong đội ngũ trí thức nói chung không chỉ vì về mặt
số lượng, mà còn do những đặc điểm về sinh lý, tâm lý. Chính những
đặc điểm tâm - sinh lý này là những lợi thế hoặc yếu thế của nữ giới so
với nam giới trong nhiều ngành, nhiều lĩnh vực hoạt động. Vì vậy, bên
cạnh những chính sách chung, cần thiết phải đi sâu nghiên cứu đối
tượng trí thức nữ để đề xuất những giải pháp, chính sách riêng hoặc
trong chính sách chung có chú ý đến đặc điểm và điều kiện của trí thức
nữ. Có vậy, đội ngũ trí thức nói chung, trí thức nữ nói riêng mới có thể
phát triển mạnh về số lượng, nâng cao về chất lượng và phát huy được
tiềm năng của mình trong sự nghiệp đổi mới.
2. NGUỒN LỰC TRÍ THỨC NỮ
2.1. Nguồn lực trí thức
Ở nước ta, khái niệm trí thức cũng được nhiều người, nhất là các
nhà khoa học, các nhà nghiên cứu quan tâm. Đã có nhiều cách tiếp cận
và lý giải khác nhau, song tất cả đều thống nhất ở một số đặc trưng:
Người trí thức là khái niệm dùng để chỉ tất cả những người lao động
trí óc, có trình độ học vấn, có khả năng sáng tạo và phẩm chất đạo đức
cá nhân.
- PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ CHO CÁC THƯ VIỆN VIỆT NAM
298
Theo Hồ Chí Minh, người tốt nghiệp Đại học, nhưng nếu chỉ
thuộc kiến thức sách vở, không biết vận dụng vào thực tế, thì đó chỉ
là “trí thức học sách”, “trí thức một nửa”, “chưa phải là trí thức hoàn
toàn”. Như vậy, theo Hồ Chí Minh, ở người trí thức không chỉ cần có
kiến thức chuyên môn, mà một dấu hiệu cơ bản khác phải có là biết
vận dụng sáng tạo những kiến thức đó vào thực tế cuộc sống. Trên cơ
sở quan điểm của một số nhà nghiên cứu ở nước ta về trí thức, có thể
đi tới một quan niệm chung về trí thức như sau: Trí thức là một tầng
lớp xã hội đặc biệt, có trình độ học vấn cao; trình độ chuyên môn sâu,
có phẩm chất; lương tri; lao động trí óc phức tạp; sáng tạo, phổ biến
và nghiên cứu ứng dụng tri thức khoa học trong hoạt động thực tiễn,
góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Với khái niệm trí thức
này chúng ta có thể nhận biết trí thức trên một số đặc điểm cơ bản sau:
Một là, trí thức không phải là một giai cấp mà là một tầng lớp xã
hội. Khi xã hội phân chia thành giai cấp, cái quyết định cho tính chất
giai cấp của các lực lượng xã hội là quan hệ sở hữu. Trong xã hội đó, trí
thức không có quan hệ riêng và trực tiếp với sở hữu về tư liệu sản xuất,
trí thức không hợp thành một giai cấp độc lập về kinh tế mà là tầng lớp
xã hội trung gian. Như vậy, căn cứ vào quan hệ sở hữu về tư liệu sản
xuất có thể khẳng định rằng, trí thức là một tầng lớp xã hội.
Hai là, trí thức là người có trình độ học vấn cao, trình độ chuyên
môn sâu. Trình độ học vấn của người trí thức phải được hiểu ở trình độ
khoa học cơ bản và trình độ khoa học chuyên ngành. Trình độ học vấn
và chuyên môn cao ở mức độ nào để được gọi là trí thức thì tuỳ thuộc
vào điều kiện kinh tế - xã hội và văn hoá của mỗi quốc gia tại mỗi thời
điểm lịch sử. Ngày nay, trình độ chuẩn mực về học vấn ở nước ta là
bậc Cao đẳng, Đại học trở lên. Tuy nhiên, bằng cấp mới chỉ là tiêu chí
ban đầu; bởi vì trong thực tế, không ít người có bằng cấp đó nhưng lại
không tham dự vào lao động trí óc phức tạp, không thể hiện được họ
có trình độ đó. Cùng với trình độ học vấn cơ bản cao, người trí thức còn
phải được trang bị kiến thức sâu về chuyên ngành. Đó là cơ sở, điều
kiện cho lao động sáng tạo khoa học của trí thức. Để tham gia vào quá
trình lao động sáng tạo khoa học, người trí thức phải đi sâu nghiên cứu
- PHÁT TRIỂN NGUỒN LỰC TRÍ THỨC NỮ TRONG BỐI CẢNH CÔNG NGHIỆP 4.0 TẠI VIỆT NAM
299
chuyên ngành được đào tạo hoặc tham gia nghiên cứu khoa học. Có
kiến thức sâu về chuyên ngành thì họ mới có thể sáng tạo ra những sản
phẩm đích thực, được xã hội thừa nhận.
Ba là, người trí thức chân chính phải là người có đạo đức, lương
tâm. Người trí thức chân chính phải là người có đạo đức, phục vụ lợi
ích cho toàn dân tộc, luôn đặt lợi ích dân tộc, lợi ích của nhân dân lên
trên lợi ích cá nhân của mình. Người trí thức trong giai đoạn phát triển
kinh tế số đương nhiên phải là những người sáng tạo ra những thành
tựu khoa học - công nghệ, những sản phẩm văn hoá có giá trị đích
thực, đóng góp cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Bốn là, người trí thức là người lao động trí óc phức tạp và sáng
tạo. Đây là dấu hiệu cơ bản, quan trọng nhất phân biệt trí thức với bộ
phận lao động khác. Lao động trí óc có nhiều dạng khác nhau, từ đơn
giản đến phức tạp. Tiêu chí để phân biệt hai dạng thức lao động này
là sự hao phí trí lực, hàm lượng chất xám ít hay nhiều trong quá trình
lao động (Das và Kotikula, 2018). Lao động trí óc giản đơn như những
người làm công việc hành chính, sự vụ, nhiệm vụ chủ yếu của họ là
làm thông suốt các qui trình hành chính qua công văn, giấy tờ thì sự
hao phí năng lượng trí lực không phải là cơ bản. Lao động của người trí
thức là sự tìm tòi, khám phá, sáng tạo cái mới, cái tiến bộ đòi hỏi phải
tư duy ở mức độ cao, và ở đây, sự hao phí năng lượng thần kinh trung
ương là chủ yếu. Lao động trí óc phức tạp của trí thức là lao động sáng
tạo. Sự sáng tạo thường có mầm mống và tích luỹ dần qua giáo dục,
đào tạo và nảy sinh trong quá trình nghiên cứu, tìm tòi.
2.2. Nguồn lực trí thức nữ
Trí thức nữ, trước hết họ là trí thức và là bộ phận nằm trong cơ cấu
hợp thành của tầng lớp trí thức nước ta. Họ có những đặc trưng cơ bản
của người trí thức đã nói ở trên, nhưng đồng thời nguồn lực trí thức
nữ có những nét đặc thù riêng phân biệt với những người trí thức, bộ
phận trí thức khác (Keinänen và Beck, 2017).
Rahman và Islam (2013) nhận định những nét đặc thù mang tính
tự nhiên mà ngày nay khoa học diễn đạt bằng thuật ngữ giới tính
- PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ CHO CÁC THƯ VIỆN VIỆT NAM
300
(Sexual - Giới tính chỉ sự khác biệt giữa nam và nữ về mặt y - sinh học,
liên quan đến chức năng tái sản xuất giống nòi) và những đặc thù
mang tính xã hội được diễn đạt bằng thuật ngữ giới (Gender - Giới chỉ
mối quan hệ và tương quan giữa địa vị xã hội của phụ nữ và nam giới
trong một bối cảnh xã hội). Trong mỗi trí thức nữ có sự gắn bó hữu cơ
giữa tư cách trí thức và tư cách nữ.
Heintz và các cộng sự (2018) cho rằng, để tiếp cận nguồn lực trí
thức nữ buộc chúng ta phải tiếp cận đồng thời từ hai phía: Họ là người
trí thức đồng thời họ là người phụ nữ. Nếu hiểu trí thức nữ chỉ với
những đặc trưng người trí thức tuy là đúng nhưng chưa đủ, mà còn
phải hiểu họ ở cả tư cách nữ, tức là từ góc độ giới tính. Họ có những
đặc thù, những thiên chức giới tính khác với lao động trí thức nam.
Xét cả mặt tự nhiên và xã hội, họ có những ưu thế và cũng có những
yếu thế so với lao động trí thức nam trong quá trình hoạt động trí tuệ,
sáng tạo của mình (Clarke và các cộng sự, 2017). Như vậy, trí thức nữ
là người lao động trí thức, họ có đầy đủ đặc trưng của người trí thức,
là một bộ phận của đội ngũ trí thức tham gia hoạt động lao động trên
tất cả các lĩnh vực; đồng thời họ là một bộ phận tiêu biểu của phụ nữ
với những phẩm chất của người phụ nữ như tinh thần cần cù, chịu
khó, nhân hậu, đảm đang... và thiên chức làm vợ, làm mẹ. Nguồn lực
trí thức nữ là những người phụ nữ có học vấn, có trình độ chuyên môn
từ cao đẳng, đại học trở lên, làm việc trong các lĩnh vực khác nhau của
nền kinh tế, thực hiện các chức năng của người trí thức nhằm phát
triển kinh tế - xã hội.
3. VAI TRÒ CỦA NGUỒN LỰC TRÍ THỨC NỮ TRONG BỐI CẢNH CÔNG NGHIỆP 4.0
Trong bối cảnh công nghiệp 4.0 đang mang đến sự phát triển
KH-CN như vũ bão trên phạm vi toàn cầu và với xu thế hội nhập quốc
tế như hiện nay, định hướng phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta là
theo hướng toàn diện, bền vững. Jagannathan và Maclean (2019) cho
rằng lực lượng chủ yếu để thúc đẩy quá trình này là lực lượng trí thức.
Với mục tiêu xây dựng một xã hội phát triển bền vững, sự tăng trưởng
không chỉ về mặt kinh tế - kỹ thuật, mà còn đảm bảo sự phát triển hài
- PHÁT TRIỂN NGUỒN LỰC TRÍ THỨC NỮ TRONG BỐI CẢNH CÔNG NGHIỆP 4.0 TẠI VIỆT NAM
301
hoà giữa kinh tế với xã hội nói chung, giữa kinh tế - kỹ thuật với việc
đảm bảo sự cân bằng về sinh thái, môi trường. Trên quan điểm này, sự
phát triển kinh tế - xã hội ở đây chủ yếu là quá trình đẩy mạnh các hoạt
động nhằm nâng cao chất lượng dân số và cải thiện đời sống nhân dân,
mở rộng quy mô và chất lượng đào tạo nguồn nhân lực, bồi dưỡng
nhân tài trên cơ sở không ngừng nâng cao dân trí, mức hưởng thụ văn
hoá cho mọi người. Lực lượng lao động chủ yếu thực hiện việc thúc
đẩy các quá trình này chính là đội ngũ trí thức, trong đó có các giảng
viên ở các trường đại học, cao đẳng, các thầy thuốc, kỹ sư... Nguồn lực
trí thức nữ nước ta ngày càng khẳng định vai trò trong nhiều lĩnh vực
khác nhau. Hiện nay, đội ngũ trí thức nữ hoạt động trong rất nhiều
các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, bao gồm chính trị, quản lý,
giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, y tế... Họ tham gia hoạt
động kể cả những lĩnh vực mà trước đây hầu như chỉ có nam giới tham
gia như luật pháp, kiểm soát, thông tin, bưu chính, khoa học... Mặc dù,
tỷ lệ tham gia của lao động trí thức nữ ở các lĩnh vực còn thấp, chưa
tương xứng với tỷ lệ phụ nữ trong dân cư nói chung và khả năng to
lớn của chị em phụ nữ nói riêng, nhưng chúng ta có thể thấy họ đã và
đang thể hiện vai trò, khả năng trí tuệ của mình trong công cuộc phát
triển kinh tế - xã hội.
Trong lĩnh vực khoa học: Nguồn lực trí thức nữ được đào tạo ở
nhiều ngành khoa học khác nhau và đang công tác ở hầu hết trong
các ngành kinh tế quốc dân. Phụ nữ đang tham gia ngày càng nhiều
hơn trong các lĩnh vực khoa học đòi hỏi tư duy cao như công nghệ, kỹ
thuật, tự nhiên. Trong đội ngũ lao động trí thức nữ đã hình thành một
bộ phận chuyên gia có trình độ ngày càng cao. Trong số các lao động
trí thức nữ này rất nhiều người đã có những cống hiến xuất sắc trên các
lĩnh vực khoa học tự nhiên như PGS.TS. Trần Thị Thu Hà, Viện trưởng
Viện Nghiên cứu và Phát triển Lâm nghiệp, Trường Đại học Nông Lâm,
Đại học Thái Nguyên, với thành công nổi bật trong thực hiện quy trình
nhân giống, nuôi trồng loài cây dược liệu và lâm nghiệp được áp dụng
vào thực tiễn cho kết quả tốt, 12 giống dược liệu quý được Nhà nước
cấp bằng bảo hộ... đã được nhận giải thưởng Kovalevskaia năm 2019,
- PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ CHO CÁC THƯ VIỆN VIỆT NAM
302
ngoài ra còn nhiều người có những đóng góp nhất định trong lĩnh vực
khoa học và nhân văn... Tất cả nguồn lực trí thức nữ này đó đã góp
phần to lớn vào phát triển kinh tế và tiến bộ xã hội.
Trong lĩnh vực quản lý, lãnh đạo: Ngoài lĩnh vực khoa học, vai trò
to lớn của nguồn lực trí thức nữ còn tập trung thể hiện ở một bộ phận
quan trọng cán bộ nữ đang tham gia công tác lãnh đạo và quản lý đất
nước, giữ các cương vị cao trong cơ quan của Đảng và nhà nước. Bộ
phận trí thức này đang góp phần to lớn và trực tiếp vào việc hoạch
định, hướng dẫn thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà
nước trong phát triển kinh tế - xã hội. Trong những năm gần đây, thực
tế cho thấy một hiện tượng là nguồn lực trí thức nữ, các nhà khoa học
nữ tham gia vào công tác quản lý và lãnh đạo các xí nghiệp kinh doanh
có hiệu quả tăng lên rõ rệt. Trong nền kinh tế thị trường với sự cạnh
tranh khốc liệt, nhiều doanh nghiệp, đơn vị kinh tế làm ăn thua lỗ và
phá sản, nhưng đã có không ít các doanh nghiệp do trí thức nữ lãnh
đạo chẳng những đứng vững mà có nơi, có mặt còn phát triển nhanh,
ổn định sản xuất và kinh doanh có hiệu quả, nâng cao đời sống người
lao động, góp phần đáng kể vào ngân sách Quốc gia (Ví dụ như Công
ty Liên doanh Đông Nam Á, Dệt 8-3, Bánh kẹo Hải Hà, Dệt 10-10...).
Hiện tượng trên đã khẳng định không chỉ các ngành như giáo dục, y
tế... mới phù hợp với nguồn lực trí thức nữ, mà cả trong các lĩnh vực
sản xuất mang tính chất công nghiệp và hiện đại, trong môi trường
cạnh tranh quyết liệt, vẫn hoàn thành tốt chức năng điều hành quản
lý. Điều đó chứng tỏ trong lĩnh vực rất mới, phụ nữ đã tỏ rõ khả năng,
sự thông minh, nhạy bén của mình góp phần to lớn vào sự nghiệp phát
triển đất nước.
Trong lĩnh vực Giáo dục và Đào tạo: Hội nghị Ban chấp hành
Trung ương lần thứ hai (khoá VIII), Đảng ta đã khẳng định giáo dục
và đào tạo (GD&ĐT), khoa học và công nghệ (KH&CN) là quốc sách
hàng đầu, lấy phát triển GD&ĐT và KH&CN làm yếu tố cơ bản, coi đó
là khâu đột phá trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Sở dĩ như vậy là
bởi vì GD& ĐT, KH&CN có vai trò hết sức quan trọng. Trong bối cảnh
công nghiệp 4.0, đội ngũ trí thức Việt Nam có trách nhiệm lớn trong
- PHÁT TRIỂN NGUỒN LỰC TRÍ THỨC NỮ TRONG BỐI CẢNH CÔNG NGHIỆP 4.0 TẠI VIỆT NAM
303
việc nâng cao dân trí, tạo ra mặt bằng trí tuệ cho dân tộc ngang tầm với
các quốc gia trên thế giới, trước hết trong lĩnh vực GD&ĐT. Cùng với
một số lĩnh vực quan trọng nói trên, đội ngũ trí thức nói chung cũng
như nguồn lực trí thức nữ nói riêng còn có vai trò lớn trong các lĩnh
vực khác như sáng tạo văn học, nghệ thuật, làm phong phú thêm đời
sống vật chất, tinh thần, góp phần vào sự nghiệp giáo dục, định hướng
cho thế hệ trẻ và nhân cách con người Việt Nam, nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực Việt Nam.
Cuối cùng, nguồn lực trí thức nữ có vai trò đặc biệt quan trọng
trong tái sản xuất sức lao động có chất lượng cao cho xã hội. Phụ nữ
chiếm gần một nửa dân số, có tiềm năng trí tuệ to lớn, thực sự trở thành
động lực mạnh mẽ đối với sự phát triển của mỗi quốc gia. Hơn thế nữa,
trước khi trở thành một nhà khoa học, một nhà quản lý hay doanh nhân,
họ là một phụ nữ, một người vợ, người mẹ. Ở cương vị này, họ giữ vai
trò đặc biệt trên lĩnh vực tái sản xuất và giáo dục những con người hữu
ích cho xã hội, trong việc chăm sóc và bồi dưỡng từ ban đầu những đứa
con - nguồn lực tương lai quý báu nhất của dân tộc. Nếu những người
mẹ có sự hiểu biết đầy đủ về chăm sóc, giáo dục con cái, về văn hoá, xã
hội,... sẽ là cái nôi của lớp người tài năng trong tương lai.
4. MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NGUỒN LỰC TRÍ THỨC NỮ TRONG BỐI CẢNH
CÔNG NGHIỆP 4.0
Thứ nhất, tăng cường công tác tuyên truyền trong xã hội về bình
đẳng nam nữ. Tuyên truyền, giáo dục trong xã hội những vấn đề về giới
bằng các phương tiện khác nhau nhằm thay đổi quan niệm cũ, hình
thành và phát triển quan niệm mới về bình đẳng nam nữ trong xã hội
là công việc cần được làm liên tục, ở mọi cấp, mọi môi trường. Nội dung
công tác tuyên truyền không những chỉ là nội dung của quan niệm về
sự bình đẳng nam nữ, mà còn là các văn bản, chính sách của Đảng, Nhà
nước có liên quan; các biểu hiện cụ thể về sự bình đẳng và bất bình đẳng
đang diễn ra trên thực tế,... Đối tượng công tác tuyên truyền không chỉ là
phụ nữ, mà là cả nam và nữ, từ lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhà nước,
đến người dân. Cần thông qua các phương tiện truyền thông khác nhau,
- PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ CHO CÁC THƯ VIỆN VIỆT NAM
304
trước hết là các phương tiện thông tin đại chúng. Công tác tuyên truyền
cũng cần được thực hiện ngay tại các diễn đàn của Đảng, Nhà nước, các
đoàn thể quần chúng. Kết quả công tác tuyên truyền không chỉ được
đánh giá bởi các cam kết mang tính tuyên bố, mà cần được đánh giá bởi
kết quả của việc lồng ghép quan điểm giới vào các kế hoạch phát triển
các lĩnh vực khác nhau như giáo dục và đào tạo, lao động, xoá đói giảm
nghèo, vay vốn,...
Thứ hai, phát triển giáo dục, đào tạo, nâng cao dân trí cho phụ nữ.
Ngày nay, nhiều nước trên thế giới tập trung vào việc hoạch định và
hiện thực hoá chiến lược con người, xem đó như một chiến lược bao
trùm, chiến lược của mọi chiến lược (Brody và các cộng sự, 2017). Nét
đặc trưng nổi bật của chiến lược con người trong giai đoạn văn minh
trí tuệ là xác định vai trò quan trọng hàng đầu của GD&ĐT, coi GD&ĐT
là phương tiện chủ yếu quyết định chất lượng nguồn lực con người.
Để đáp ứng yêu cầu ở rộng quy mô và nâng cao chất lượng đào tạo,
cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao cho thị trường lao động trong
bối cảnh toàn cầu hoá thì đội ngũ giảng viên đủ năng lực, trình độ và
nhiệt huyết đóng vai trò hết sức quan trọng (Đỗ Anh Đức và Nguyễn
Ngọc Quỳnh, 2020). Ngoài ra, các giá trị tri thức mới được tạo ra trong
các trường đại học thông qua quá trình trình giảng dạy và nghiên cứu
cũng cần được quan tâm đưa vào đời sống xã hội, vào sản xuất và kinh
doanh (Đỗ Anh Đức và Trương Thị Huệ, 2018). Vì vậy, nhiều nước trên
thế giới coi việc phát triển GD&ĐT là quốc sách hàng đầu.
Thứ ba, có chính sách hợp lý trong đào tạo, bồi dưỡng nâng cao
trình độ đội ngũ trí thức nữ để đảm bảo đào tạo ra một lớp trí thức nữ
trẻ có chất lượng cao, số lượng và cơ cấu đảm bảo đáp ứng đòi hỏi của
công nghiệp 4.0. thông qua các biện pháp cụ thể sau: (1) Khuyến khích
các nữ sinh thi vào các trường đại học, có chính sách ưu tiên cho nữ
sinh ở các vùng nông thôn, đồng bào dân tộc thiểu số trong việc tuyển
sinh; cấp học bổng, hỗ trợ cho nữ sinh học giỏi nhằm đào tạo ra một
đội ngũ trí thức nữ có chất lượng; tăng cường hơn việc đào tạo trí thức
nữ cho các vùng nông thôn, vùng đồng bào dân tộc để khắc phục tình
trạng thiếu hụt trí thức nữ ở nhiều vùng quan trọng như hiện nay.
(2) Khuyến khích nữ sinh thi vào các trường đại học thuộc các lĩnh vực
- PHÁT TRIỂN NGUỒN LỰC TRÍ THỨC NỮ TRONG BỐI CẢNH CÔNG NGHIỆP 4.0 TẠI VIỆT NAM
305
hợp với sở trường của nữ như Sư phạm, Y, Dược,... Mặt khác, khích lệ,
động viên nữ sinh thi vào các lĩnh vực khoa học mới, khoa học ứng
dụng, khoa học đòi hỏi tư duy trừu tượng nhằm phát huy khả năng
của phụ nữ ở các lĩnh vực đó. Từ đó tạo điều kiện mở rộng lĩnh vực việc
làm cho nữ sinh viên sau khi tốt nghiệp. Đồng thời phải trang bị cho
sinh viên nói chung, nữ sinh viên nói riêng những kiến thức về các mặt
để có đủ phẩm chất, năng lực, lòng tự tin bước vào cuộc sống, tham gia
vào các lĩnh vực chính trị, quản lý, kinh doanh,... (3) Thành lập các quỹ
hỗ trợ tài năng trẻ cho nữ sinh viên là việc làm cần được khuyến khích
mở rộng nhằm thu hút sự tài trợ, đóng góp của các tổ chức, cá nhân vì
hiền tài của đất nước và vì sự phát triển của phụ nữ. Đồng thời, việc
làm này tạo ra động lực thúc đẩy, giúp đỡ nữ sinh viên có ý chí vươn
lên trong học tập, nhất là nữ sinh viên thuộc diện có hoàn cảnh khó
khăn, có tinh thần vượt khó. (4) Đa dạng hoá các hình thức học tập và
các loại hình trường đại học, cũng tạo điều kiện để phụ nữ tham gia
học tập liên tục, nâng cao không ngừng trình độ của mình. Việc mở các
nhánh về các tỉnh hay khu vực để giảm bớt khó khăn đi lại và chi phí
tốn kém trong thời gian học cho người học cũng sẽ thu hút và tạo thêm
điều kiện cho nữ sinh hay phụ nữ ở các vùng nông thôn, vùng xa có
cơ hội được đi học.
Thứ tư, tạo lập chính sách phù hợp trong sử dụng nữ trí thức
thông qua các các giải pháp cụ thể sau: (1) Cần bố trí những công việc
phù hợp với nữ trí thức. Đối với ngành kỹ thuật - tự nhiên, công việc
phù hợp với nữ là giảng dạy, thí nghiệm, nghiên cứu, phân tích, thiết
kế, đồ hoạ, thống kê về kỹ thuật, kiểm tra,... Các công việc này đòi hỏi
tính tỉ mỉ, kiên nhẫn, khéo tay, chính xác, thận trọng nhưng vẫn phải
sáng tạo. Với công tác nghiên cứu, nữ thiên về nghiên cứu tại bàn, ít
đi xa, ít đến công trường,... Những công việc không phù hợp với nữ là
công việc mua bán trang thiết bị công nghiệp, tham gia các dự án/ hợp
đồng sản xuất, trực tiếp sản xuất chế tạo, thi công, lắp đặt, sửa chữa
bảo trì, khảo sát thực địa, chào hàng sản phẩm công nghiệp,... Đối với
nhóm ngành kinh tế - xã hội - nhân văn, hầu hết các công việc đều phù
hợp với nữ, như giảng dạy, nghiên cứu, văn phòng, tài chính, kế toán,
dịch thuật, hướng dẫn du lịch, tiếp thị, bán hàng, thống kê,... (2) Trong
- PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ CHO CÁC THƯ VIỆN VIỆT NAM
306
trường hợp nữ trí thức đang nuôi con nhỏ, có thể làm việc theo cách
khoán công việc, không nên theo giờ hành chính. Hiện nay nhiều cơ
quan nghiên cứu khoa học, trường đại học đã áp dụng phương thức
quản lý cán bộ theo cách này. Với các cơ quan, doanh nghiệp khác,
nếu có thể, nhất là với các công việc nghiệp vụ, ít tiếp xúc với khách
hàng, nên bố trí công việc và thực hiện khoán theo số lượng và chất
lượng công việc. Trong điều kiện thông tin hiện đại như hiện nay (qua
e-mail, điện thoại,...) phương thức làm việc này là hoàn toàn khả thi.
Với phương thức này, người nữ trí thức có thể vừa làm việc, vừa chăm
con của mình. (3) Cần tạo được môi trường làm việc thuận lợi cho trí
thức nữ để các nhà khoa học, công nghệ, tích cực trong sáng tạo, cống
hiến; cần tạo điều kiện làm việc cần thiết cho các nhà trí thức nữ như
cung cấp thông tin, trang bị phương tiện thí nghiệm, các cơ sở triển
khai. Tạo cơ chế thuận lợi cho việc ứng dụng nhanh các kết quả nghiên
cứu vào thực tiễn. Mặt khác, cần giải quyết thoả đáng lợi ích vật chất
và lợi ích tinh thần, lợi ích kinh tế và lợi ích chính trị - xã hội cho các
nhà nghiên cứu, sáng chế, phát minh, ứng dụng có hiệu quả khoa học,
công nghệ. Phải coi lao động của trí thức là lao động trí óc, sáng tạo. Do
vậy, sản phẩm trí tuệ trước hết phải là sở hữu của người tạo ra chúng,
được coi như hàng hoá đặc biệt, cần tạo lập thị trường để sản phẩm
đó được lưu thông và được trả giá tương xứng với giá trị của chúng.
Nhà nước có trách nhiệm tổ chức, quản lý, tạo điều kiện thuận lợi cho
các hoạt động sáng tạo của trí thức nói chung, trí thức nữ nói riêng và
bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ của họ, tạo ra bầu không khí dân chủ, tự
do trong hoạt động, sáng tạo... Chỉ có như vậy mới toàn dụng và khai
thác có hiệu quả lao động trí tuệ của đội ngũ trí thức nữ. (4) Chú ý bồi
dưỡng nữ trí thức đưa vào vị trí quản lý, lãnh đạo. Xét dưới góc độ
Giới, phụ nữ và nam giới đều có khả năng trở thành người quản lý,
lãnh đạo. Song trên thực tế, do nhiều nguyên nhân, ở công tác này phụ
nữ chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ (Kompa và Witkowska, 2018). Bởi vậy, để phụ
nữ tham gia vào công tác quản lý thì vấn đề quan trọng nhất là phải
phát triển toàn diện người phụ nữ, chú ý bồi dưỡng năng lực và phát
triển nhân cách cá nhân người phụ nữ, đồng thời công tác quản lý cần
được tổ chức một cách khoa học để phụ nữ vừa tham gia quản lý, vừa
chăm lo được gia đình, nuôi dạy con cái.
- PHÁT TRIỂN NGUỒN LỰC TRÍ THỨC NỮ TRONG BỐI CẢNH CÔNG NGHIỆP 4.0 TẠI VIỆT NAM
307
Thứ năm, cần cải tiến chính sách lương đối với trí thức. Về chính
sách đãi ngộ đối với trí thức nữ nói riêng và trí thức nói chung của Đảng
và Nhà nước hiện nay còn nhiều điều chưa hợp lý, chưa thoả đáng.
Curkrowska (2014) chỉ ra rằng, phân phối trong thu nhập của xã hội
chưa phù hợp với yêu cầu của quy luật phân phối theo lao động. Mức
độ thu nhập của nhiều người trong xã hội hiện nay, nhiều khi và không
phải lúc nào cũng bắt nguồn từ nhân tố tài năng, sự cống hiến, mà là do
những nhân tố khác. Hiện tượng một trí thức nữ được đào tạo rất tốn
kém, ra trường làm công tác nghiên cứu, giảng dạy có mức lương thu
nhập thấp hơn một nữ công nhân hay một lao động giản đơn không cần
qua đào tạo hay đào tạo qua loa; lương của một giáo sư, tiến sĩ còn thấp
hơn rất nhiều lần so với một giám đốc doanh nghiệp hay công ty trách
nhiệm hữu hạn mới tốt nghiệp cử nhân (thậm chí chưa có bằng cấp gì)...
còn đang rất phổ biến trong xã hội ta. Điều đó làm giảm sút nhiệt tình,
lòng quyết tâm vươn lên của bản thân trí thức nữ, gây ra tâm trạng thiếu
tin tưởng vào chế độ ưu đãi hiền tài của Đảng và Nhà nước.
Thứ sáu, tăng cường các chính sách xã hội đối với gia đình. Dù ở
bất kỳ cương vị nào, phụ nữ đều phải dành thời gian và có trách nhiệm
đối với gia đình. Một đặc điểm đáng lưu ý ở nước ta, phần lớn phụ nữ
thành đạt trong khoa học, quản lý thường là những phụ nữ có gia đình
ổn định, được chồng con giúp đỡ về cả vật chất, tinh thần. Hoàn cảnh
này không phải ở đâu cũng có. Điều đó cho thấy, yếu tố gia đình rất
quan trọng đối với phụ nữ Việt Nam nói chung và đối với trí thức nữ
nói riêng, đòi hỏi các nhà làm chính sách quan tâm đặc biệt đến yếu tố
này. Do bị chi phối bởi công việc gia đình, chị em chịu thiệt thòi hơn
nam giới trong việc học tập và nâng cao trình độ, nắm bắt thông tin và
tham gia các hoạt động xã hội. Vì vậy, chính sách xã hội phải tập trung
giảm nhẹ công việc gia đình cho phụ nữ. Ngoài các chính sách về tạo
việc làm, tăng thu nhập cho trí thức nữ... đã nêu ở trên, Nhà nước cần
quan tâm tăng cường các hệ thống dịch vụ gia đình nhằm giảm nhẹ
công việc nội trợ cho phụ nữ, như: “công nghệ hoá” việc sản xuất các
phương tiện, dụng cụ bếp núc nội trợ gia đình; Mở rộng và nâng cao
chất lượng hệ thống nhà trẻ, mẫu giáo, cơ sở y tế, chăm sóc sức khoẻ bà
- PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ CHO CÁC THƯ VIỆN VIỆT NAM
308
mẹ trẻ em; Cải tiến chế độ bảo hiểm xã hội, xây dựng và ban hành chế
độ cân bằng trách nhiệm của nam giới trong việc cùng chăm sóc con cái
và các thành viên trong gia đình.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Brody, C., Hoop, T. D., Vojtkova, M., Warnock, R., Dunbar, M., Murthy, P., &
Dworkin, S. L. (2017), Can self-help group programs improve women’s em-
powerment? A systematic review, Journal of Development Effectiveness, 9(1), 15-40.
2. Clarke, L., Gleeson, C., & Wall, C. (2017), Women and low energy construc-
tion in Europe, New York: Routledge
3. Das, S., Carranza, E., & Kotikula, A. (2018), Addressing Gender-Based Em-
ployment Segregation. Jobs Group, World Bank.
4. Đỗ Anh Đức (2020), Đổi mới sáng tạo tại Việt Nam trong bối cảnh công
nghiệp 4.0, Tạp chí Kinh tế và Quản lý, số 33, 57-60.
5. Đỗ Anh Đức, Nguyễn Ngọc Quỳnh (2020), "Quản lý đội ngũ giảng viên
Trường Đại học Khoa học Xã hội Nhân văn: Thực trạng và giải pháp",
Tạp chí Quản lý Nhà nước, số 296, 105-108.
6. Đỗ Anh Đức, Trương Thị Huệ (2018), "Xây dựng mô hình đại học định
hướng đổi mới sáng tạo trong bối cảnh cách mạng công nghệ 4.0", Tạp
chí Kinh tế châu Á Thái Bình Dương, số 512, 25-27.
7. Heintz, J., Kabeer, N., & Mahmud, S. (2018), Cultural norms, economic in-
centives and women’s labour market behaviour: empirical insights from
Bangladesh. Oxford Development Studies, 46(2), 266-289.
8. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 5, NXB. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
9. Jagannathan, S., Ra, S., & Maclean, R. (2019), Dominant recent trends
impacting on jobs and labor markets-An Overview. International Journal
of Training Research, 17(sup1), 1-11.
10. Keinänen, M., & Beck, E. E. (2017), Wandering intellectuals: establishing
a research agenda on gender, walking, and thinking, Gender, Place & Cul-
ture, 24(4), 515-533.
11. Kompa, K., & Witkowska, D. (2018), Factors affecting men’s and women’s
earnings in Poland. Economic research-Ekonomska istraživanja, 31(1), 252-269.
12. Rahman, R. I., & Islam, R. (2013), Female labour force participation in Bangla-
desh: trends, drivers and barriers, International Labour Organization, DWT
for South Asia and Country Office for India.
nguon tai.lieu . vn