Xem mẫu

  1. Hội thảo Khoa học “Các vấn đề đương đại trong lĩnh vực Kinh tế, Luật: Từ lí thuyết đến thực tiễn” PHÁT TRIỂN NGƯỜI THAM GIA BẢO HIỂM XÃ HỘI TỰ NGUYỆN ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP CỦA KHU VỰC ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG INCREASING THE NUMBER OF PEOPLE IN VOLUNTARY SOCIAL SECURITY, PROPOSED SOLUTIONS OF THE MEKONG RIVER DELTA AREA NCS. Nguyễn Công Chánh1 Tóm tắt – Bảo hiểm xã hội không chỉ giúp người dân chủ động đảm bảo bù đắp hoặc thay thế một phần thu nhập khi gặp rủi ro mà còn giảm sức ép đối với hệ thống trợ giúp xã hội. Do vậy, hầu hết các quốc gia đều nỗ lực tìm kiếm các giải pháp tạo điều kiện cho người dân tiếp cận, tham gia bảo hiểm xã hội, tăng diện bao phủ của hệ thống bảo hiểm xã hội. Bài viết đề cập đến một số vấn đề lí luận cơ bản đối với loại hình bảo hiểm xã hội tự nguyện; thực trạng công tác quản lí bảo hiểm xã hội của khu vực Đồng bằng sông Cửu Long. Trong đó, loại hình bảo hiểm xã hội tự nguyện được đánh giá còn nhiều tiềm năng phát triển. Bài viết nêu lên một số nguyên do dẫn đến việc tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện chưa nhiều. Qua đó, chúng tôi đề xuất một số giải pháp trong công tác khai thác và phát triển loại hình bảo hiểm xã hội tự nguyện của khu vực Đồng bằng sông Cửu Long trong những năm tiếp theo. Từ khóa: bảo hiểm xã hội, bảo hiểm tự nguyện, Đồng bằng sông Cửu Long. 1. SỰ CẦN THIẾT PHẢI THAM GIA BẢO HIỂM XÃ HỘI TỰ NGUYỆN Bảo hiểm xã hội (BHXH) là trụ cột chính của hệ thống an sinh xã hội trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. BHXH góp phần quan trọng trong việc thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, đảm bảo ổn định chính trị – xã hội, đời sống của Nhân dân và phát triển bền vững đất nước. BHXH không chỉ có chức năng giúp người dân chủ động đảm bảo bù đắp hoặc thay thế một phần thu nhập khi gặp rủi ro mà nó còn giảm sức ép đối với hệ thống trợ giúp xã hội. Tại Điều 34 của Hiến pháp nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (2013) nêu rõ: ‘Công dân có quyền được đảm bảo an sinh xã hội’ [1]. Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã luôn quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng và thực hiện chính sách BHXH, coi đó là động lực phát triển bền vững đất nước, thể hiện tính ưu việt, bản chất tốt đẹp của chế độ ta. Nghị quyết số 1 Bảo hiểm Xã hội tỉnh Kiên Giang; Email: ncchanh@sdh.tvu.edu.vn 218
  2. Hội thảo Khoa học “Các vấn đề đương đại trong lĩnh vực Kinh tế, Luật: Từ lí thuyết đến thực tiễn” 21-NQ/TW ngày 22/11/2012 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác BHXH, bảo hiểm y tế (BHYT) giai đoạn 2012 – 2020 [2] đã nêu: ‘BHXH và BHYT là hai chính sách xã hội quan trọng, là trụ cột chính của hệ thống an sinh xã hội, góp phần thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo đảm ổn định chính trị – xã hội và phát triển kinh tế – xã hội’, ‘Phát triển hệ thống BHXH, BHYT đồng bộ với phát triển các dịch vụ xã hội, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của Nhân dân; tạo điều kiện thuận lợi cho mọi người tham gia và thụ hưởng các chế độ BHXH, BHYT. Thực hiện tốt các chế độ, chính sách BHXH, BHYT là trách nhiệm của các cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể, tổ chức xã hội, doanh nghiệp và của mỗi người dân”. Quan điểm này được kế thừa và tiếp tục thể hiện trong Nghị quyết số 28- NQ/TW ngày 23/5/2018 của Hội nghị lần thứ Bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XII [3]: ‘BHXH là một trụ cột chính của hệ thống an sinh xã hội trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, góp phần quan trọng thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo đảm ổn định chính trị – xã hội, đời sống nhân dân, phát triển bền vững đất nước’; đồng thời, mục tiêu cụ thể là: ‘đến năm 2021 đạt khoảng 35% lực lượng lao động trong độ tuổi lao động tham gia BHXH (trong đó, nông dân và lao động khu vực phi chính thức tham gia BHXH tự nguyện chiếm khoảng 1,0%); đến năm 2025 đạt khoảng 45% (trong đó, nông dân và lao động khu vực phi chính thức tham gia BHXH tự nguyện chiếm khoảng 2,5%); đến năm 2030 đạt khoảng 60,0% (trong đó, nông dân và lao động khu vực phi chính thức tham gia BHXH tự nguyện chiếm khoảng 5,0%)’[4]. Như vậy, có thể thấy Đảng, Nhà nước hết sức quan tâm đến chính sách BHXH, coi đây là trụ cột chính của hệ thống an sinh xã hội; là trách nhiệm của các cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể, tổ chức xã hội, doanh nghiệp và của mỗi người dân. Việc mở rộng đối tượng tham gia BHXH có ý nghĩa to lớn không chỉ đối với BHXH mà còn đối với hệ thống an sinh xã hội và cả sự phát triển bền vững kinh tế xã hội của mỗi quốc gia. 2. THỰC TRẠNG CỦA VIỆC PHÁT TRIỂN LOẠI HÌNH BẢO HIỂM XÃ HỘI TỰ NGUYỆN Vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), theo cách gọi của người dân Việt Nam là miền Tây, là vùng cực nam của Việt Nam. ĐBSCL có 12 tỉnh và 01 thành phố trực thuộc Trung ương. Đây là vùng sản xuất nông nghiệp và thủy sản lớn nhất cả nước, có vị trí quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội. Với đặc thù sản xuất nông nghiệp, nông dân chiếm đa số trong cơ cấu dân số. Để thực hiện mục tiêu theo tinh thần Nghị quyết số 28-NQ/TW nêu trên, thời gian qua, BHXH đã triển khai nhiều giải pháp đồng bộ để phát triển người tham gia BHXH, đặc biệt số người tham gia BHXH tự nguyện của khu vực ĐBSCL tính đến nay còn tương đối thấp so với lực lượng lao động ở khu vực phi chính thức (thời gian đầu từ năm 2010, số người tham gia BHXH tự nguyện chỉ có 13.319 219
  3. Hội thảo Khoa học “Các vấn đề đương đại trong lĩnh vực Kinh tế, Luật: Từ lí thuyết đến thực tiễn” người; tính đến nay, tổng số người tham gia BHXH tự nguyện được gần 128.000 người tham gia, tăng gần gấp 10 lần so với những năm đầu) [3]. Xét về lợi ích đối với người lao động: BHXH tự nguyện bảo đảm thu nhập cho người lao động và gia đình họ khi gặp những khó khăn trong cuộc sống. Đối tượng tham gia là người lao động tự do, thu nhập thấp và không ổn định như nông dân, kinh doanh, buôn bán. Nên khi tham gia BHXH tự nguyện, người tham gia sẽ đảm bảo phần thu nhập của họ và gia đình khi gặp những rủi ro trong cuộc sống như ốm đau, tai nạn lao động, già yếu rồi chết. Ngoài ra, BHXH tự nguyện còn giúp người lao động nâng cao hiệu quả trong tiêu dùng cá nhân, giúp họ tiết kiệm được những khoản tiền nhỏ và đều đặn để có nguồn dự phòng cần thiết khi về già, khi mất sức lao động, góp phần ổn định cuộc sống cho bản thân và gia đình. Người lao động tham gia BHXH tự nguyện được đảm bảo về thu nhập ổn định ở mức độ cần thiết nên họ thường có tâm lí tự tin hơn trong cuộc sống, từ đó, cuộc sống của các thành viên khác trong gia đình được đảm bảo. Về lợi ích đối với xã hội: BHXH tự nguyện tạo ra cơ chế chia sẻ rủi ro, nâng cao tính cộng đồng xã hội, củng cố truyền thống đoàn kết gắn bó giữa các thành viên trong xã hội. BHXH tự nguyện là công cụ phân phối, sử dụng nguồn quỹ dự phòng hiệu quả cho việc giảm hậu quả rủi ro, tạo động lực phát triển kinh tế – xã hội. Mặc dù trong những năm vừa qua, công tác phát triển người tham gia BHXH tự nguyện của khu vực có tăng. Nhưng số người tham gia BHXH tự nguyện còn khoảng cách rất xa so với tiềm năng. Hiện nay, số người trong độ tuổi lao động (không tính đến đối tượng là học sinh, sinh viên từ đủ 15 tuổi trở lên) ước còn trên 10 triệu người chưa tham gia BHXH, nhưng số người tham gia so với lực lượng lao động trong độ tuổi lao động còn quá thấp. Do đó, dư địa để vận động người tham gia BHXH tự nguyện còn nhiều [5]. 3. NGUYÊN NHÂN NGƯỜI THAM GIA BẢO HIỂM XÃ HỘI TỰ NGUYỆN CHƯA NHIỀU - Hằng năm, tỉ lệ di dân từ nông thôn ra thành thị rất lớn. Điều này gây ra hệ luỵ cho vùng nông thôn. Do phần lớn lao động có sức khoẻ, có tri thức di cư ra thành phố sống nên nông thôn rơi vào tình trạng thiếu lao động. Đa số công việc ở nông thôn chỉ theo mùa vụ, thu nhập bấp bênh, thiếu ổn định. Vì vậy, lao động khó có khả năng tham gia để đảm bảo tính liên tục. - Một số địa bàn do người dân chủ yếu làm nghề đi biển, buôn bán nên đời sống kinh tế khá ổn định. Khi vận động, họ cho cho rằng điều kiện kinh tế của mình hoàn toàn có thể trang trải đủ tuổi già nên không cần tham gia để có lương về sau. - Người dân thuần nông, đời sống kinh tế khó khăn hơn thì rất cần và tích cực tham gia để về già có đồng lương hưu. Việc đời sống kinh tế của người dân 220
  4. Hội thảo Khoa học “Các vấn đề đương đại trong lĩnh vực Kinh tế, Luật: Từ lí thuyết đến thực tiễn” còn gặp khó khăn không phải là nguyên nhân chính dẫn đến tỉ lệ tham gia BHXH tự nguyện thấp. - Môi trường làm việc của lao động khu vực phi chính thức không tốt như khu vực chính thức, sức khỏe suy giảm nhanh hơn do cường độ và thời gian làm việc kéo dài, đặc biệt là nguy cơ bị tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp lớn nên rủi ro và độ tuổi bị suy giảm khả năng lao động cao. - Tỉ lệ người dân được hưởng trợ giúp xã hội thấp: Mục tiêu hướng tới đảm bảo an sinh xã hội hiện nay chủ yếu cho nhóm người yếu thế, không có khả năng thu nhập và tham gia BHXH như người nghèo, người khuyết tật và bộ phận người già không lương từ 80 tuổi trở lên. Như vậy, mô hình an sinh xã hội của Việt Nam chủ yếu bao phủ ở hai nhóm chính: nhóm người nghèo và nhóm lao động trong khu vực chính thức có BHXH bắt buộc. - Một số người chưa biết thông tin về BHXH tự nguyện, kể cả việc chính sách BHXH tự nguyện, chưa biết quyền lợi được hưởng và chưa biết tham gia ở đâu, ra sao. - Người lao động không đủ tiền để tham gia. Việc thu nhập thấp và không ổn định khiến người lao động không tiếp cận đến loại hình BHXH tự nguyện này, nhất là đối với những người lao động làm việc ở khu vực nông thôn. - Quyền lợi BHXH tự nguyện theo quy định như hiện nay chưa thật sự hấp dẫn. Người tham gia BHXH tự nguyện chỉ có hai chế độ; trong khi đó, người tham gia BHXH bắt buộc thì lại có năm chế độ. Bên cạnh đó, người dân chưa nhận thấy được sự chia sẻ rủi ro khi tham gia BHXH tự nguyện. Họ chỉ thấy rõ sự chia sẻ rủi ro giữa những người tham gia BHYT, họ có thể nhận được quyền lợi nhiều hơn rất nhiều lần số tiền họ bỏ ra nếu họ gặp rủi ro khi tham gia BHYT và quyền lợi trong chính sách BHYT đang hấp dẫn họ hơn. - Nhiều người lao động chưa được biết hoặc họ chưa quan tâm đến thông tin về việc Nhà nước hỗ trợ mức đóng BHXH tự nguyện (từ ngày 01/01/2018). Hơn nữa, hằng năm, việc rà soát danh sách phân loại người dân thuộc hộ nghèo, cận nghèo, dân có mức sống thu nhập trung bình còn chậm, chính sách hỗ trợ cho các nhóm đối tượng này đôi lúc chưa kịp thời. - Chưa có tài liệu, quy trình tuyên truyền, vận động người tham gia BHXH tự nguyện; chưa hướng dẫn cụ thể về phương thức tiếp cận, vận động người tham gia BHXH tự nguyện. Các hình thức mới chỉ dừng lại ở dạng phát tờ rơi, tờ gấp; kĩ năng tuyên truyền, vận động của nhân viên đại lí, cán bộ BHXH còn chưa chuyên nghiệp, chưa được đào tạo bài bản. 221
  5. Hội thảo Khoa học “Các vấn đề đương đại trong lĩnh vực Kinh tế, Luật: Từ lí thuyết đến thực tiễn” 4. ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN BẢO HIỂM XÃ HỘI TỰ NGUYỆN 4.1. Phương pháp tiếp cận - Tiếp cận vòng đời: Vấn đề an sinh xã hội thì vòng đời không đơn thuần từ khi sinh ra cho đến khi mất đi mà phải là từ khi chưa sinh (trong bụng mẹ) đến khi mất đi vẫn còn thân nhân hưởng chế độ tử tuất [6]. - Quản trị rủi ro theo phân loại rủi ro: Các rủi ro sinh học như ốm đau, thai sản, tuổi già; những rủi ro trong lao động như tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp. - Tiếp cận linh hoạt phù hợp với xu thế thời đại, với tiêu chuẩn quốc tế, với biến động của thị trường lao động trong thời kì hội nhập kinh tế quốc tế cùng với cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 [6]. - Tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế trong việc thiết kế và tổ chức thực hiện chính sách BHXH tự nguyện. b. Giải pháp - Mở rộng BHXH tự nguyện được xem như vấn đề ưu tiên: + Hiệp hội an sinh xã hội quốc tế (ISSA) đặc biệt quan tâm và cho rằng: để mở rộng phạm vi bảo hiểm, việc quản lí và thiết kế các chương trình BHXH đóng góp phải tính đến các đặc điểm và hoàn cảnh đặc biệt của các nhóm khó bảo hiểm hoặc khó tiếp cận. Vì vậy, thách thức đối với tổ chức an sinh xã hội là phát triển các giải pháp hành chính phù hợp để hỗ trợ người lao động không hoạt động trong nền kinh tế chính thức và người lao động tự làm chủ được gia nhập hệ thống BHXH. Do đó, tham vọng bao phủ bảo hiểm cho toàn bộ dân số chỉ có thể đạt được những tiến bộ đáng kể nếu có các chiến lược hiệu quả cho nhóm lao động này [6], [8], [9]. + Bản chất và đặc điểm của người tự làm chủ khác nhau giữa các nước và cũng khác nhau ngay trong mỗi quốc gia. Khác nhau giữa các nhóm lao động dễ bị tổn thương và được trả lương thấp nhất, những người làm nghề tự do, những người lao động trong khu vực phi chính thức, những người trong nền kinh tế chính thức. + Thực tế cho thấy, độ bao phủ của BHXH được mở rộng đáng kể và nhanh chóng khi thực hiện thành công BHXH tự nguyện. Tuy nhiên, để đạt được điều này, Chính phủ cần có một số biện pháp hỗ trợ bổ sung như hỗ trợ đóng, đơn giản hoá thủ tục tham gia, xây dựng chính sách về lợi ích và mức đóng góp phù hợp với người tự làm chủ. - Nhà nước cần phải nâng mức hỗ trợ đóng và cho phép người tham gia BHXH tự nguyện được hưởng đầy đủ các chế độ như khi tham gia BHXH bắt 222
  6. Hội thảo Khoa học “Các vấn đề đương đại trong lĩnh vực Kinh tế, Luật: Từ lí thuyết đến thực tiễn” buộc. Kinh nghiệm của Trung Quốc có thể thu hút người lao động ở khu vực phi chính thức vì họ vừa giảm chi phí đóng góp vào BHXH, vừa được hưởng thêm lợi ích từ sự hỗ trợ của Nhà nước, nhưng điều này sẽ làm tăng gánh nặng cho ngân sách. - Một số định hướng khi triển khai: + Hình thức triển khai: Tổ chức hội nghị tuyên truyền hướng tới người lao động ở từng nhóm độ tuổi khác nhau. Cụ thể: Đối với nhóm có độ tuổi từ 60 trở lên không phải là đối tượng hưởng lương hưu, trợ cấp mất sức lao động: Nhóm người này chỉ nên tiếp xúc thông qua người thân trong gia đình như con cháu hỗ trợ đóng BHXH tự nguyện tuỳ theo mức vận động tham gia phù hợp với khả năng tài chính hiện có của từng gia định. Từ đó, để gia đình có được chế độ mai táng phí và tuất 1 lần về sau. Vì đây cũng là một khoản chi phí để gia đình và người thân lo mai táng phí, giảm bớt gánh nặng. Người tham gia BHXH bắt buộc đã nghỉ mà chưa đủ 20 năm công tác và có tuổi đời gần đến tuổi hưởng lương hưu. Nhóm người có thu nhập thường xuyên như hộ kinh doanh cá thể, buôn bán, nghề nghiệp ổn định ở thành thị và nông thôn: Vận động họ tham gia mức đóng cao để được hưởng hưu trí ở mức cao. Nhóm người lao động khoán ở các tất cả đơn vị sự nghiệp: Họ có thu nhập theo hình thức khoán và thu nhập thường xuyên nên dễ có điều kiện tham gia. Chủ yếu bằng hình thức vận động qua chủ sử dụng (chủ quản lí) để tuyên truyền vận động, thuyết phục tham gia. Nhân viên các đại lí thu, cộng tác viên và thân nhân của họ. Nhóm người trong các hội đoàn thể như Hội Phụ nữ, Hội Nông dân, Đoàn Thanh niên, Hội Cựu chiến binh, các hội nghề nghiệp. Người đồng bào dân tộc thiểu số, có đời sống kinh tế phát triển tương đối khá. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền đến vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, đến tổ dân phố, cụm dân cư. Đặc biệt là phát huy vai trò của già làng, trưởng ấp hoặc người có uy tín, các chư vị chức sắc tôn giáo của địa phương. Người lao động nghỉ việc, dừng đóng BHXH nhưng chưa đến thời gian hưởng lương hưu và chưa nhận trợ cấp BHXH một lần; người lao động đang hưởng trợ cấp thất nghiệp; hộ kinh doanh cá thể, tiểu thương; công nhân, thợ thủ công có hợp đồng mùa vụ tại các cơ sở sản xuất, kinh doanh; lao động tự do trên địa bàn xã, phường, thị trấn có thu nhập tương đối ổn định. Sự ủng hộ và tạo điều kiện của chính quyền địa phương các cấp cùng với sự phối hợp chặt chẽ giữa các ngành, các hội đoàn thể. 223
  7. Hội thảo Khoa học “Các vấn đề đương đại trong lĩnh vực Kinh tế, Luật: Từ lí thuyết đến thực tiễn” Thường xuyên tổ chức hội nghị, hội thảo trong toàn quốc để chia sẽ mô hình và kinh nghiệm để nắm bắt các thông tin có cơ sở đề nghị hoàn thiện chính sách BHXH tự nguyện. Công tác tuyên truyền, hội nghị phải lựa chọn địa bàn, rà soát trước nguồn đối tượng tiềm năng, thời điểm thu hoạch mùa vụ của người dân. Tài liệu minh họa phải sống động, dùng hình ảnh quảng bá người đã được hưởng chế độ khi đã tham gia loại hình này. Các yếu tố công nghệ hỗ trợ chiến lược cho các chuyển đổi cải thiện dịch vụ khách hàng thông qua tương tác với cá nhân qua cổng thông tin. Cụ thể, triển khai hệ thống tương tác đa phương tiện với các dịch vụ: call center; chatbot; ứng dụng trí tuệ nhân tạo; trang mạng xã hội Fanpage; chuyên trang BHXH với các tổ chức, cá nhân; thanh toán điện tử; ứng dụng qua di động; tin nhắn thương hiệu; đánh giá sự hài lòng. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Hiến pháp Nước CHXHCN Việt Nam năm 2013. [2] Bộ Chính trị. Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 22/11/2012 về công tác bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế giai đoạn 2012 – 2020. [3] Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 23/5/2018 về cải cách chính sách bảo hiểm xã hội. [4] Bảo hiểm Xã hội Việt Nam. Báo cáo kết quả hoạt động 09 tháng đầu năm 2020. [5] Chính phủ Nước CHXHCN Việt Nam. Nghị định số 134/2015/NĐ-CP, ngày 29/12/2015 quy định chi tiết một số điều của Luật bảo hiểm xã hội về bảo hiểm xã hội tự nguyện. [6] Bùi Sỹ Tuấn. Cơ sở lý luận và thực tiễn mở rộng diện bao phủ BHXH với lao động khu vực phi chính thức. Tạp chí Bảo hiểm Xã hội, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội. [7] Bích Thủy. Tăng cường các giải pháp phát triển đối tượng tham gia BHXH tự nguyện. Tạp chí Bảo hiểm Xã hội. 2018. [8] Công ước số 102 của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) ban hành năm 1952. [9] Nguyễn Ngọc Toàn. Giải pháp xây dựng hệ thống BHXH đa tầng, bền vững ở Việt Nam. Tạp chí Bảo hiểm Xã hội, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. 224
nguon tai.lieu . vn