Xem mẫu
- Phát triển ngành hàng lúa gạo tại Việt Nam
Đào Thị Bích Thủy
Trường Đại học Kinh tế, ĐHQGHN
1. MỞ ĐẦU
Lúa gạo là ngành hàng chủ lực trong sản xuất nông nghiệp và có vị
trí quan trọng đối với sự phát triển của nông nghiệp và nông thôn ở Việt
Nam. Sự phát triển của ngành lúa gạo một mặt góp phần cho đảm bảo an
ninh lương thực quốc gia và mặt khác đóng góp một tỷ trọng lớn trong giá
trị xuất khẩu hàng hóa nông sản. Từ năm 1989 Việt Nam trở thành nước
xuất khẩu gạo và đến nay luôn duy trì là 1 trong 3 nước xuất khẩu gạo lớn
nhất thế giới. Trong giá trị sản xuất của toàn ngành nông nghiệp, giá trị sản
xuất của ngành trồng trọt chiếm từ 64-68%. Lúa gạo chiếm vị thế cao nhất
trong ngành trồng trọt, với diện tích đất trồng lúa chiếm trên 50% tổng diện
tích gieo trồng các loại cây. Ở Việt Nam, mặc dù diện tích đất trồng lúa có
ở khắp các vùng miền trên cả nước song chủ yếu tập trung vào các khu vực
Đồng bằng sông Cửu Long, Đồng bằng sông Hồng và Bắc Trung Bộ và
Duyên hải miền Trung. Tùy thuộc theo điều kiện tự nhiên về khí hậu và đất
đai, các vùng miền có thể canh tác từ 2 đến 3 vụ lúa trong một năm. Đồng
bằng sông Hồng có hai vụ lúa chính là vụ lúa chiêm xuân và vụ lúa mùa.
Khu vực đồng bằng ven biển Trung Bộ mỗi năm có ba vụ lúa chính là vụ
Thu Hè, vụ Đông Xuân và vụ Mùa. Đồng bằng sông Cửu Long có khí hậu
cận nhiệt đới rất thuận lợi, mỗi năm có hai vụ lúa chính là vụ Chiêm và vụ
Mùa và ngoài ra còn có thêm một vụ lúa nữa là vụ Hè Thu
(https://khogaomientay.com/co-bao-nhieu-vu-lua-mot-nam-va-thoi-gian-
moi-vu-o-nuoc-ta.html). Thực trạng phát triển ngành sản xuất lúa gạo được
đánh giá trên các góc độ về diện tích đất trồng, sản lượng, năng suất lúa và
hiệu quả sử dụng đất trên cả nước và theo vùng miền.
2. THỰC TRẠNG TRÊN CẢ NƯỚC
Tính trong giai đoạn 1995-2020, diện tích đất trồng lúa trên cả nước
có gia tăng, mặc dù không đáng kể với tốc độ tăng bình quân hàng năm là
0,31%. Quan sát diễn biến cụ thể hàng năm có thể thấy diện tích đất trồng
321
- biến động lên xuống theo 4 thời kỳ. Thời kỳ 1995-2000, diện tích đất trồng
lúa tăng với tốc độ bình quân hàng năm ở mức 2,54%/năm; thời kỳ 2001-
2007 diện tích đất trồng giảm với tốc độ bình quân 0,9%/năm; thời kỳ 2008-
2013, diện tích đất trồng tăng với tốc độ bình quân 1,59%/năm và đạt đỉnh
cao nhất ở mức 7,9 triệu ha vào năm 2013 và thời kỳ 2014-2020 diện tích
đất trồng giảm với tốc độ bình quân 1,16%/năm. Năm 2020 diện tích đất
trồng lúa của cả mước là 7,28 triệu ha và được dự tính tiếp tục giảm. Lý
giải cho sự sụt giảm mạnh diện tích đất trồng lúa trong những năm gần đây
là bao gồm cả yếu tố khách quan và chủ quan. Thứ nhất là do biến đổi khí
hậu và nước biển dâng (https://2075.com.vn/giai-phap-khoa-hoc-cong-
nghe-trong-hoat-dong-san-xuat-lua-gao). Biến đổi khí hậu làm nước biển
dâng cao không những gây ra ngập lụt mà còn làm mất đất trồng lúa ở các
vựa lúa quan trọng như Đồng bằng sông Cửu Long, Đồng bằng sông Hồng
và các tỉnh duyên hải miền Trung. Bên cạnh đó, nước biển dâng còn gây ra
sự nhiễm mặn, làm giảm hệ số sử dụng đất và ảnh hưởng tới khả năng sinh
trưởng và chất lượng lúa. Biến đổi khi hậu đi kèm với sự gia tăng nhiệt độ
kéo dài làm giảm độ ẩm của đất, gây hạn hán làm giảm diện tích đất trồng.
Một số vùng ở miền núi phía Bắc và duyên hải miền Trung là những vùng
chịu tác động nặng nề nhất của hạn hán. Thứ hai là cùng với tiến trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đất trồng lúa ngày càng giảm do phải
dành diện tích cho phát triển công nghiệp, kết cấu hạ tầng và đô thị hóa
(http://agro.gov.vn/vn/tID15248_Moi-nam-dien-tich-trong-lua-cua-Viet-
Nam-bi-thu-hep-59000ha.html). Thứ ba là do sự chuyển đổi đất trồng khi
một phần đất trồng lúa kém hiệu quả được chuyển đổi sang nuôi trồng thủy
sản và cây trồng khác có hiệu quả kinh tế cao hơn.
Hình 1. Diện tích đất trồng lúa trên cả nước giai đoạn 1995-2020
(Đơn vị: nghìn ha) (Nguồn: Tổng cục Thống kê)
322
- Trong giai đoạn 1995-2020, sản lượng lúa của cả nước tăng với tốc
độ bình quân hàng năm là 2,23%. Năm 1995, sản lượng lúa của cả nước
chỉ là 24,96 triệu tấn nhưng đến năm 2015 đã đạt mức cao nhất là 45,09
triệu tấn. Năm 2020 sản lượng lúa đạt mức 42,76 triệu tấn. Tăng trưởng
trong sản lượng lúa được quyết định bởi sự gia tăng trong diện tích đất
trồng và gia tăng trong năng suất lúa (được tính theo giá trị sản lượng lúa
trên một đơn vị diện tích đất trồng). Trong giai đoạn này năng suất lúa được
ghi nhận tăng với tốc độ bình quân hàng năm ở mức 1,9%. Với sự tăng
trưởng trong năng suất lúa cao hơn gấp 6,1 lần so với tốc độ tăng trưởng
của diện tích đất trồng, năng suất lúa đã trở thành yếu tố chủ chốt quyết
định tăng trưởng của sản lượng lúa. Nhìn chung, tăng trưởng trong năng
suất lúa đóng góp khoảng 86% và tăng trưởng trong diện tích đất trồng
đóng góp khoảng 14% vào tăng trưởng trong sản lượng lúa trong giai đoạn
này.
Hình 2. Sản lượng lúa trên cả nước giai đoạn 1995-2020
(Đơn vị: nghìn tấn) (Nguồn: Tổng cục Thống kê)
Diện tích đất trồng là có giới hạn, do vậy tăng trưởng bền vững trong
sản lượng lúa hoàn toàn phụ thuộc vào sự gia tăng trong năng suất lúa.
Năng suất lúa trải nghiệm gia tăng theo thời gian và đến năm 2020, năng
suất lúa đạt mức 58,7 tạ/ha, bằng 1,6 lần so với năm 1995. Tính đặc thù của
việc trồng lúa phụ thuộc nhiều vào yếu tố thời tiết với những năm có thời
tiết thuận lợi đạt được năng suất cao trong khi những năm có thiên tai, hạn
hán hay lũ lụt gây ra mất mùa và sụt giảm trong năng suất. Tuy nhiên chiều
hướng gia tăng rõ ràng của năng suất lúa trong giai đoạn này là thành quả
323
- của việc ứng dụng khoa học công nghệ và những tiến bộ trong sản xuất lúa.
Ngành nông nghiệp khuyến khích cơ giới hóa, cơ giới hóa đồng bộ vào quá
trình sản xuất từ khâu làm đất, chăm sóc, thu hoạch đến bảo quản và chế
biến nông sản. Theo Bộ NN & PTNT, mức độ cơ giới hóa trong nông
nghiệp ngày càng cao ở các khâu trước và sau thu hoạch. Tại thời điểm năm
2020, tỷ lệ cơ giới hóa khâu làm đất cây nông nghiệp đạt 94%, khâu gieo,
trồng đạt 42%, khâu chăm sóc đạt 77%, khâu thu hoạch lúa đạt 65%
(http://consosukien.vn/day-manh-co-gioi-hoa-nong-nghiep.htm).
Hình 3. Năng suất lúa trên cả nước giai đoạn 1995-2020
(Đơn vị: tạ/ha) (Nguồn: Tổng cục Thống kê)
Để tạo thuận lợi cho các hộ canh tác, áp dụng cơ giới hóa nông
nghiệp, chính sách dồn điền đổi thửa được thực hiện. Dồn điền đổi thửa
cho phép các hộ nông dân dồn ruộng đất từ các ô thửa nhỏ thành các thửa
ruộng lớn. Điều này thay đổi nền sản xuất nông nghiệp manh mún, từ đó
tạo tiền đề phát triển việc sản xuất thống nhất, quy mô lớn. Bên cạnh đó
các chính sách tập trung đất đai nhằm xây dựng và phát triển các vùng thâm
canh lúa năng suất, chất lượng, hiệu quả cao được đẩy mạnh. Đầu tư vào
kết cấu hạ tầng nông nghiệp, đặc biệt vào thủy lợi được chú trọng. Đáng
chú ý nhất là các hoạt động nghiên cứu giống cây trồng mới được thực hiện
đã góp phần xây dựng và phát triển bộ cơ cấu giống lúa gồm các giống đạt
năng suất, chất lượng cao, phù hợp với từng điều kiện sản xuất, thời tiết để
làm căn cứ cho các địa phương lựa chọn, đưa vào gieo trồng. Bênh cạnh
những chính sách chung của cả nước, một số các địa phương đã xây dựng
324
- cơ chế, chính sách hỗ trợ sản xuất giống cây trồng và qua đó đã khuyến
khích, tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế tham gia nghiên cứu, chọn
tạo, phát triển sản xuất và kinh doanh giống cây trồng nhằm tạo ra bộ giống
đa dạng áp dụng vào sản xuất (https://baothanhhoa.vn/kinh-te/khuyen-
khich-cac-thanh-phan-kinh-te-dau-tu-san-xuat-giong-cay-
trong/139760.htm).
Phân tích theo 4 thời kỳ của biến động diện tích đất trồng lúa có thể
thấy tốc độ tăng trưởng của sản lượng lúa bình quân hàng năm tương ứng
là 5,43%, 1,48%, 3,48% và -0,39%. Như vậy trong 3 thời kỳ đầu sản lượng
lúa gia tăng nhưng trong thời kỳ cuối thì sản lượng lúa có xu hướng giảm.
Tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm của năng suất lúa trong 4 thời kỳ
tương ứng là 2,82%, 2,38%, 1,87% và 0,78%. Có ba nhận xét được rút ra
ở đây. Thứ nhất, một điểm đáng quan ngại là tốc độ tăng trưởng của năng
suất lúa đang có xu hướng giảm theo thời gian, thể hiện ở sự sụt giảm liên
tục qua 4 thời kỳ. Thứ hai, trong hai thời kỳ có diện tích đất trồng giảm thì
ở thời kỳ 2001-2007, do năng suất lúa tăng mạnh hơn so với tốc độ giảm
của diện tích đất trồng nên đã giúp sản lượng lúa vẫn tăng. Tuy nhiên ở thời
kỳ 2014-2020, tốc độ tăng trưởng của năng suất lúa đã giảm so với trước
trong khi diện tích đất trồng giảm mạnh hơn làm cho sản lượng lúa giảm.
Thứ ba, đóng góp của tăng trưởng năng suất lúa đến tăng trưởng sản lượng
lúa là mạnh nhất vào các thời kỳ có diện tích đất trồng giảm. Khi đó để giữ
cho sản lượng gia tăng hoặc không bị giảm sâu thì tăng trưởng của năng
suất đóng vai trò quyết định.
Bảng 1. Tăng trưởng và đóng góp vào tăng trưởng sản lượng lúa
trên cả nước giai đoạn 1995-2020 (Đơn vị: %)
Thời kỳ Tăng Tăng Tăng Đóng góp vào tăng
trưởng trưởng trưởng trưởng sản lượng lúa
của sản của diện của năng Diện tích Năng
lượng lúa tích đất suất lúa đất trồng suất lúa
trồng
1995-2000 5,45 2,54 2,82 47 52
2001-2007 1,48 -0,90 2,38 -61 161
2008-2013 3,48 1,59 1,87 46 54
2014-2020 -0,39 -1,16 0,78 -297 200
(Nguồn: Tính toán của tác giả từ số liệu của Tổng cục Thống kê)
325
- 3. THỰC TRẠNG THEO VÙNG MIỀN
Theo cơ cấu vùng miền, Đồng bằng sông Cửu Long được coi là vựa
lúa lớn nhất của cả nước, chiếm tỷ trọng 52,3% diện tích đất trồng lúa và
đóng góp 53,4% sản lượng lúa của cả nước. Tiếp đến, mặc dù chỉ đứng thứ
3 trong diện tích đất trồng (tỷ trọng 15,6%), song Đồng bằng sông Hồng
đứng thứ 2 về đóng góp sản lượng lúa của cả nước với tỷ trọng 17,7%. Kế
tiếp là các vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung, Trung du và miền
núi phía Bắc, Đông Nam Bộ và Tây Nguyên.
Giai đoạn 1995-2020 chứng kiến những biến động trong diện tích
đất trồng với những vùng miền có sự gia tăng song cũng có những vùng
miền có sự sụt giảm. Trong số những vùng miền có sự gia tăng trong diện
tích đất trồng, Tây Nguyên trải nghiệm tăng trưởng mạnh nhất với tốc độ
tăng bình quân hàng năm là 1,5%. Tiếp đến là Đồng bằng sông Cửu Long
với tốc độ 0,92% bình quân hàng năm và ở Trung du và miền núi phía Bắc
tốc độ tăng bình quân hàng năm là 0,34%. Vùng có diện tích đất trồng giảm
mạnh nhất là Đông Nam Bộ với tốc độ giảm bình quân là 1,11%/năm.
Trong khi đó vùng Đồng bằng sông Hồng và vùng Bắc Trung Bộ và Duyên
hải miền Trung có sự sụt giảm trong diện tích đất trồng với tốc độ giảm
bình quân hàng năm tương ứng là 0,91% và 0,12%.
Mặc dù có biến động về diện tích đất trồng song tất cả các vùng
miền trên cả nước đều ghi nhận tăng trưởng trong sản lượng lúa ở các mức
độ khác nhau. Với tốc độ tăng bình quân hàng năm ở mức 5,23%, Tây
Nguyên đạt tăng trưởng về sản lượng cao nhất, tiếp đến là Trung du và
miền núi phía Bắc (2,92%/ năm), Đồng bằng sông Cửu Long (2,62%/năm),
Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung (2,32%/năm), Đông Nam Bộ
(1,71%/năm) và cuối cùng là Đồng bằng sông Hồng (0,67%/năm).
326
- (a) (b)
Hình 4. Cơ cấu diện tích sử dụng đất (a) và cơ cấu sản lượng (b)
lúa gạo theo vùng miền giai đoạn 1995-2020
(Nguồn: Tính toán của tác giả từ số liệu của Tổng cục Thống kê)
Diễn biến về năng suất lúa giữa các vùng miền qua các năm được
trình bày trong Bảng 2. Có thể rút ra hai quan sát từ số liệu này. Thứ nhất,
hai vựa lúa chính của cả nước là Đông bằng sông Cửu Long và Đồng bằng
sông Hồng thuộc tốp đầu về năng suất lúa. Trong giai đoạn 1995-2020, với
mức bình quân hàng năm là 55,89 tạ/ha, Đồng bằng Sông Hồng có năng
suất lúa cao nhất của cả nước. Đứng thứ hai là Đồng bằng sông Cửu Long
với mức 50,83 tạ/ha, và thứ ba là Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung
với mức 48,03 tạ/ha. Kế tiếp là Trung du và miền núi phía Bắc và Tây
Nguyên với mức tương ứng là 42,69 tạ/ha và 42,42 tạ/ha và cuối cùng là
Đông Nam Bộ với mức 40,67 tạ/ha. Thứ hai, mặc dù tất cả các vùng miền
đều trải nghiệm tăng trưởng dương về năng suất lúa, song có sự chênh lệch
về tốc độ tăng trưởng giữa các vùng miền với những vùng miền thuộc tốp
dưới về năng suất lúa có tốc độ tăng trưởng cao hơn so với những vùng
miền thuộc tốp có năng suất lúa cao. Ở tốp đầu Tây Nguyên đạt tốc độ tăng
trưởng trong năng suất lúa cao nhất ở mức bình quân 3,62%/năm. Ở tốp
327
- giữa, Đông Nam Bộ, Trung du và miền núi phía Bắc và Bắc Trung Bộ và
Duyên hải miền Trung đạt tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm tương
ứng là 2,87%, 2,57% và 2,4%. Ở tốp cuối Đồng bằng sông Cửu Long và
Đồng bằng sông Hồng có tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm tương
ứng là 1,67% và 1,59%. Có thể nhận thấy những vùng miền có năng suất
lúa càng thấp thì trải nghiệm tăng trưởng về năng suất lúa càng cao. Đây là
một bằng chứng cho thấy sự bắt kịp về năng suất lúa giữa các vùng miền
và là tín hiệu cho thấy có sự thu hẹp dần về lợi thế cạnh tranh trong sản
xuất lúa giữa các vùng miền. Những khác biệt trong điều kiện tự nhiên như
khí hậu, thổ nhưỡng đã dần được khắc phục bởi ứng dụng tiến bộ khoa học
kỹ thuật như chọn giống cây trồng. Điển hình nhất là Tây Nguyên. Xuất
phát điểm năm 1995, Tây Nguyên có năng suất lúa thấp nhất ở mức 24,8
tạ/ha chỉ bằng 0,59 lần so với năng suất lúa của Đồng bằng sông Hồng. Tuy
nhiên với tốc độ tăng trưởng về năng suất lúa cao nhất, Tây Nguyên đang
thu hẹp dần khoảng cách với vùng miền có năng suất lúa cao. Năm 2020,
năng suất lúa của Tây Nguyên đã bằng 0,93 lần so với năng suất lúa của
Đồng bằng sông Hồng.
Tăng trưởng diện tích đất trồng và năng suất lúa quyết định tăng
trưởng sản lượng lúa. Trong giai đoạn 1995-2020, khu vực Đồng bằng sông
Hồng, Đông Nam Bộ và Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung có diện
tích đất trồng lúa bị thu hẹp song sản lượng lúa vẫn tăng do tăng trưởng của
năng suất lúa đem lại. Đây cũng là các khu vực có tỷ trọng đóng góp của
tăng trưởng năng suất lúa vào tăng trưởng sản lượng lúa cao nhất của cả
nước. Tiếp đến là các khu vực Trung du và miền núi phía Bắc, Tây Nguyên
và cuối cùng là Đồng bằng sông Cửu Long.
328
- Bảng 2. Năng suất lúa gạo theo vùng miền
Năm Đồng bằng sông Trung du và miền Bắc Trung Bộ và Tây Nguyên Đông Nam Bộ Đồng bằng sông
Hồng núi phía Bắc Duyên hải miền Cửu Long
Trung
Giá trị Tốc độ Giá trị Tốc độ Giá trị Tốc độ Giá trị Tốc độ Giá trị Tốc độ Giá trị Tốc độ
tạ/ha tăng % tạ/ha tăng % tạ/ha tăng % tạ/ha tăng % tạ/ha tăng % tạ/ha tăng %
1995 42,1 27,3 32,4 24,8 26,6 40,2
1996 44,9 6,7 29,1 6,6 32,5 0,3 27,4 10,5 26,6 0 40,1 -0,3
1997 46,5 3,6 31 6,5 36,4 12 28,6 4,4 28,6 7,5 39,8 -0,8
1998 49 5,4 31,4 1,3 35,4 -2,8 26,5 -7,3 28,8 0,7 40,7 2,3
1999 52,4 6,9 34,2 8,9 38,7 9,3 30,9 16,6 28,9 0,4 40,9 0,5
2000 53,6 2,3 35,9 5,0 40 3,4 33,2 7,4 30,3 4,8 42,3 3,4
2001 52,8 -1,5 38,6 7,5 41,5 3,8 35,7 7,5 31,7 4,6 42,2 -0,2
2002 55,8 5,7 40,3 4,4 43,8 5,5 32,5 -9,0 33,1 4,4 46,2 9,5
2003 54,4 -2,5 41,9 4,0 45,7 4,3 38,6 18,8 35,1 6,0 46,3 0,2
2004 57,2 5,2 42,8 2,2 47,8 4,6 39,5 2,3 36,2 3,1 48,7 5,2
2005 53,9 -5,8 43,3 1,2 46,7 -2,3 37,3 -5,6 38 5,0 50,4 3,5
2006 57,4 6,5 43,9 1,4 49,3 5,6 42,6 14,2 38 0 48,3 -4,2
2007 56,1 -2,3 43 -2,1 48,5 -1,6 42,2 -0,9 41,3 8,7 50,7 5,0
2008 58,9 5,0 44,1 2,6 50,5 4,1 44,3 5,0 42,8 3,6 53,6 5,7
2009 58,8 -0,2 45,5 3,2 51,1 1,2 46,3 4,5 43,8 2,3 53 -1,1
2010 59,2 0,7 46,3 1,8 50,7 -0,8 47,8 3,2 44,8 2,3 54,7 3,2
2011 60,9 2,9 47,7 3,0 53,2 4,9 47,6 -0,4 46,4 3,6 56,8 3,8
329
- 2012 60,4 -0,8 48,2 1,05 54,4 2,3 49,6 4,2 47,5 2,4 58,1 2,3
2013 58,9 -2,5 47,4 -1,7 53,6 -1,5 49,5 -0,2 48 1,1 57,6 -0,9
2014 60,2 2,2 48,5 2,3 56,6 5,6 52,4 5,9 49,4 2,9 59,4 3,1
2015 60,6 0,7 48,8 0,6 56,2 -0,7 50,9 -2,9 50,4 2,0 59,5 0,2
2016 59,8 -1,3 49,9 2,3 56,3 0,2 50,3 -1,2 50,6 0,4 56,2 -5,6
2017 56,8 -5,0 49,1 -1,6 55,8 -0,9 54,1 7,6 51,4 1,6 56,4 0,4
2018 60,5 6,5 50,3 2,4 57,2 2,5 56,2 3,9 52,5 2,1 59,7 5,9
2019 60,6 0,2 50,4 0,2 56,8 -0,7 56,9 1,3 53 1,0 59,7 0
2020 61,4 1,3 51 1,2 57,8 1,8 57,3 0,7 53,7 1,3 60,1 0,7
Bình
55,89 1,59 42,69 2,57 48,03 2,4 42,42 3,62 40,67 2,87 50,83 1,67
quân
(Nguồn: Tính toán của tác giả từ số liệu của Tổng cục Thống kê)
330
- Bảng 3. Tăng trưởng và đóng góp vào tăng trưởng sản lượng lúa
theo vùng miền giai đoạn 1995-2020 (Đơn vị: %)
Tăng trưởng Tăng trưởng Tăng trưởng Đóng góp vào tăng
Vùng miền của sản của diện tích của năng trưởng sản lượng
lượng lúa đất trồng suất lúa lúa
Diện tích Năng
đất trồng suất lúa
Đồng bằng 0,67 -0,91 1,59 -136 237
sông Hồng
Trung du và 2,92 0,34 2,57 12 88
miền núi phía
Bắc
Bắc Trung Bộ 2,32 -0,12 2,40 -5 103
và Duyên hải
miền Trung
Tây Nguyên 5,23 1,50 3,62 29 69
Đông Nam Bộ 1,71 -1,11 2,87 -65 168
Đồng bằng 2,62 0,92 1,67 35 64
sông Cửu Long
(Nguồn: Tính toán của tác giả từ số liệu của Tổng cục Thống kê)
4. HIỆU QUẢ SỬ DỤNG ĐẤT TRỒNG LÚA
Sản lượng lúa phụ thuộc vào yếu tố đầu vào chính là diện tích đất
trồng. Hiệu quả sử dụng đất trồng được đo bằng hệ số co dãn của sản lượng
lúa theo diện tích đất trồng theo công thức
= (%∆ )/(%∆ ) (1)
Trong đó: Y là sản lượng và X là diện tích đất trồng. Hệ số E sẽ cho
thấy 1% tăng trong diện tích đất trồng dẫn đến bao nhiêu % tăng trong sản
lượng. Hệ số E có giá trị càng cao thì hiệu quả của việc sử dụng đất trồng
càng lớn.
Để đánh giá hiệu quả sử dụng đất trồng lúa giữa các vùng miền,
nghiên cứu định lượng được thực hiện ở cấp độ địa phương với 63
tỉnh/thành của cả nước trong thời kỳ từ 1995 đến 2020.
Phương trình hồi quy được xác định
, = + , + , + , + ,
331
- + , + , + + + , (2)
Trong đó: chỉ số i chỉ đến tỉnh/thành và t chỉ đến thời gian tính bằng
năm.
Biến phụ thuộc
Sản lượng lúa LNY: được tính bằng logarit tự nhiên của sản lượng
lúa. Số liệu cho sản lượng lúa của từng tỉnh/thành qua các năm được lấy từ
dữ liệu của Tổng cục Thống kê.
Biến độc lập
Diện tích đất trồng LNX: được tính bằng logarit tự nhiên của diện
tích đất trồng. Số liệu cho diện tích đất trồng của từng tỉnh thành qua các
năm được lấy từ dữ liệu của Tổng cục Thống kê. Hệ số mô tả hiệu quả
sử dụng đất khi cho thấy nếu diện tích đất trồng tăng 1% thì sẽ dẫn đến %
tăng trong sản lượng.
Các biến giả được đưa vào mô hình để tính đến sự khác biệt giữa các
vùng miền
Biến giả DUMSH có giá trị bằng 1 nếu là Đồng bằng sông Hồng và
bằng 0 nếu là khu vực khác.
Biến giả DUMNB có giá trị bằng 1 nếu là Trung du và miền núi phía
Bắc và bằng 0 nếu là khu vực khác.
Biến giả DUMMT có giá trị bằng 1 nếu là Bắc Trung Bộ và Duyên
hải miền Trung và bằng 0 nếu là khu vực khác.
Biến giả DUMDN có giá trị bằng 1 nếu là Đông Nam Bộ và bằng 0
nếu là khu vực khác.
Biến giả DUMCL có giá trị bằng 1 nếu là Đồng bằng sông Cửu Long
và bằng 0 nếu là khu vực khác.
Dữ liệu của 63 tỉnh được thu thập trong cùng thời kỳ, tạo nên dữ liệu
bảng cân đối mạnh. Phân tích hồi quy dữ liệu bảng được thực hiện với
chương trình Stata. Hai mô hình tác động cố định (fixed efect) và tác động
ngẫu nhiên (random efect) được thử nghiệm và kiểm định Hausman cho
332
- thấy hệ số Chi-square là 180,73 (p-value = 0.000) hay có nghĩa mô hình tác
động cố định là thích hợp hơn. Bước tiếp theo các kiểm định chẩn đoán cho
thấy số liệu bảng có hiện tượng tương quan đồng thời (phụ thuộc chéo của
sai số), khác biệt phương sai và tương quan chuỗi (tự tương quan của sai
số). Để khắc phục các hiện tượng này, Torres-Reyna (2007) đề xuất sử
dụng phương pháp bình phương tối thiểu tổng quát. Kết quả hồi quy được
trình bày trong Bảng 4.
Bảng 4. Hiệu quả sử dụng đất trồng đến sản lượng lúa theo vùng miền
(Biến phụ thuộc: LNY: Sản lượng lúa)
Biến độc lập Hệ số p-value
LNX: Diện tích đất trồng 1.053 0.000
DUMSH 0.058 0.000
DUMNB 0.005 0.184
DUMMT 0.032 0.000
DUMDN -0.023 0.000
DUMCL 0.017 0.000
CONSTANT 0.843 0.000
Số lượng quan sát: 1611
(Nguồn: Tính toán của tác giả từ kết quả hồi quy)
Bảng kết quả hồi quy cho thấy ngoại trừ biến giả DUMNB, tất cả các
biến độc lập đều có tác động đến biến phụ thuộc. Từ kết quả này ta có thể
thấy Đồng bằng sông Hồng có hiệu quả sử dụng đất cao nhất với 1% tăng
trong diện tích đất trồng dẫn đến 1,11% tăng trong sản lượng lúa. Tiếp đến
là khu vực Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung khi sản lượng lúa tăng
1,08% từ 1% tăng trong diện tích đất trồng. Đứng thứ ba là khu vực Đồng
bằng sông Cửu Long với hệ số hiệu quả sử dụng đất trồng là 1,07. Khu vực
Trung du và miền núi phía Bắc và Tây Nguyên có hệ số hiệu quả sử dụng
đất trồng như nhau ở mức 1,05. Cuối cùng khu vực Đông Nam Bộ có hiệu
quả sử dụng đất trồng thấp nhất khi 1% tăng trong diện tích đất trồng chỉ
đem lại 1,03% tăng trong sản lượng lúa.
333
- Hình 6. Hiệu quả sử dụng đất trồng đến sản lượng lúa giữa các vùng miền
(Nguồn: Kết quả hồi quy)
KẾT LUẬN
Giai đoạn 1995-2020 ghi nhận sự gia tăng trong cả diện tích đất trồng,
sản lượng và năng suất lúa trên cả nước. Tuy nhiên, với sự gia tăng không
đáng kể trong diện tích đất trồng, gia tăng mạnh trong sản lượng lúa chủ
yếu là do sự đóng góp của gia tăng trong năng suất lúa. Cơ giới hóa trong
sản xuất nông nghiệp, phát triển kết cấu hạ tầng nông nghiệp và thủy lơi,
xây dựng và phát triển các vùng thâm canh lúa năng suất và đặc biệt ứng
dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật trong việc lai tạo và phát triển các giống lúa
phù hợp với điều kiện tự nhiên của từng địa phương đã đem lại thành tựu
trong tăng trưởng năng suất lúa. Trong giai đoạn này tất cả các vùng miền
đều trải nghiệm gia tăng trong năng suất lúa mặc dù với tốc độ khác nhau.
Điểm đặc biệt là những vùng miền có năng suất lúa thấp trải nghiệm tốc độ
tăng trưởng trong năng suất cao hơn những vùng miền có năng suất lúa cao,
và do vậy đang thu hẹp dần khoảng cách chênh lệch trong năng suất lúa
giữa các vùng miền. Điều này cho thấy việc ứng dụng tiến bộ khoa học
công nghệ sẽ làm giảm lợi thế so sánh trong sản xuất lúa có được từ sự khác
biệt trong điều kiện tự nhiên về khí hậu và thổ nhưỡng giữa các vùng miền.
Bên cạnh đó, kết quả nghiên cứu cho thấy hiệu quả sử dụng đất trồng (được
đo bằng hệ số co dãn của sản lượng theo diện tích đất trồng) là khác nhau
giữa các vùng miền. Những vùng miền có năng suất lúa cao cũng là những
vùng miền có hiệu quả sử dụng đất trồng cao. Tốp đầu về năng suất lúa bao
gồm Đồng bằng sông Hồng, Đồng bằng sông Cửu Long và Bắc Trung Bộ
và Duyên hải miền Trung cũng thuộc tốp đầu về hiệu quả sử dụng đất trồng.
334
- Nhóm có năng suất lúa thấp hơn bao gồm Trung du và miền núi phía Bắc,
Tây Nguyên và Đông Nam Bộ cũng thuộc tốp có hiệu quả sử dụng đất trồng
thấp hơn. Trong giai đoạn tiếp theo, diện tích đất trồng lúa trên cả nước
được dự báo tiếp tục giảm. Tăng trưởng trong sản lượng lúa do vậy sẽ hoàn
toàn phụ thuộc vào tăng trưởng trong năng suất lúa và đây sẽ là yếu tố quyết
định tăng trưởng bền vững trong ngành sản xuất lúa gạo ở Việt Nam.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Chuyển đổi cơ cấu cây trồng theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả,
2. Có bao nhiêu vụ lúa một năm và thời gian mỗi vụ ở nước ta,
3. Giải pháp khoa học công nghệ trong hoạt động sản xuất lúa gạo,
4. Mỗi năm diện tích trồng lúa của Việt Nam bị thu hẹp 59.000 ha,
5. Đẩy mạnh cơ giới hóa nông nghiệp,
6. Khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư sản xuất giống cây trồng,
Tổng cục Thống kê Việt Nam
Torres-Reyna, O., “Panel data analysis fixed and random effects using Stata”,
335
nguon tai.lieu . vn