Xem mẫu

  1. VJE Tạp chí Giáo dục, Số 462 (Kì 2 - 9/2019), tr 41-45 PHÁT TRIỂN KĨ NĂNG TỰ NHẬN THỨC CHO HỌC SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ QUA TRẢI NGHIỆM TÌNH HUỐNG TRONG DẠY HỌC ĐỌC HIỂU VĂN BẢN TỰ SỰ Nguyễn Chính Thành - Trường Trung học cơ sở Lương Thế Vinh, Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh Ngày nhận bài: 26/7/2019; ngày chỉnh sửa: 01/8/2019; ngày duyệt đăng: 09/8/2019. Abstract: In modern society, educating self-awareness skill is extremely important, especially developing self-awareness skill for secondary school students from narrative texts. Therefore, in order to contribute to improving the effectiveness of teaching and learning as well as helping students to love the works of narrative, the article mentions the development of self-awareness skills for secondary school students through a situational experience in teaching in teaching reading of narrative texts. Keywords: Life skill, self-awareness skill, measures, narrative text. 1. Mở đầu đắn, có tính đến những điều kiện nhất định. Người có Giáo dục kĩ năng sống (KNS) cho học sinh (HS), KN hành động là người nắm vững và vận dụng đúng trong đó có kĩ năng (KN) tự nhận thức trong dạy học đắn các cách thức hành động nhằm thực hiện hành phân môn Văn nói chung và dạy đọc hiểu văn bản tự sự động có kết quả. Để hình thành KN, con người không nói riêng ở trường trung học cơ sở (THCS) đã và đang chỉ nắm vững lí thuyết về hành động mà phải vận dụng được thực hiện trong những năm qua. Đây cũng là vấn vào thực tế” [3; tr 96]. đề được ngành Giáo dục và toàn xã hội quan tâm. Bởi Tác giả Huỳnh Văn Sơn cho rằng: “KN là khả năng việc phát triển KN nói chung và KN tự nhận thức nói thực hiện có kết quả một hành động nào đó bằng cách riêng góp phần rất lớn đến phát triển năng lực của HS. vận dụng những tri thức, kinh nghiệm đã có để hành Tuy nhiên, cho đến nay, dù đã có một số tài liệu đề cập động phù hợp với những điều kiện cho phép” [4; tr 6]. vấn đề này song nhìn chung còn rất chung chung, chưa Còn theo tác giả Trần Trọng Thủy thì “KN là mặt kĩ đi vào cụ thể, nhất là chưa xác định rõ được biện pháp để thuật của hành động, con người nắm được cách thức hành phát triển KN tự nhận thức trong dạy học đọc hiểu văn động nghĩa là có kĩ thuật hành động, có KN” [5; tr 103]. bản tự sự cho HS THCS. Như vậy, xuất phát từ những góc độ khác nhau, các Bài viết đề cập việc phát triển KN tự nhận thức cho nhà nghiên cứu coi KN, hoặc là thiên về mặt kĩ thuật của HS THCS qua trải nghiệm tình huống trong dạy học đọc hành động; hoặc là nghiêng về khả năng của cá nhân, là hiểu văn bản tự sự. một biểu hiện của năng lực cá nhân; hoặc nhấn mạnh đến 2. Nội dung nghiên cứu hành vi ứng xử của cá nhân. 2.1. Một số khái niệm cơ bản Theo chúng tôi, dù xem xét từ góc độ nào, KN cũng 2.1.1. Khái niệm “kĩ năng” bao gồm những đặc điểm sau: 1) KN phải dựa trên cơ sở Có nhiều quan niệm khác nhau về KN: tri thức; muốn có KN trước hết phải có kiến thức, hiểu Theo Từ điển Tiếng Việt thông dụng: “KN là khả biết về đối tượng; 2) KN phải là những hành động có mục năng vận dụng những kiến thức đã thu nhận được trong đích, tức là phải hình dung được kết quả cần đạt; 3) KN một lĩnh vực nào đó áp dụng vào thực tế” [1; tr 567]. đòi hỏi phải có cách thức thực hiện hành động trong các Trong Từ điển Tâm lí học, tác giả Vũ Dũng định điều kiện cụ thể, có quy trình riêng cho từng loại KN; nghĩa: “KN là năng lực vận dụng có kết quả những tri 4) Để đạt được KN phải có sự luyện tập, thực hành; thức về phương thức hành động đã được chủ thể lĩnh hội 5) KN liên quan mật thiết đến năng lực cá nhân. Nó chính để thực hiện những nhiệm vụ tương ứng. Ở mức độ KN, là một mặt biểu hiện của năng lực. công việc được hình thành trong điều kiện hoàn cảnh Như vậy, trong tiếng Việt, hiện khái niệm “KN” đang không thay đổi, chất lượng chưa cao, thao tác chưa được hiểu và sử dụng theo hai cấp độ. Theo nghĩa hẹp, thuần thục và còn phải tập trung chú ý căng thẳng, KN KN là những thao tác, cách thức thực hành, vận dụng được hình thành qua luyện tập” [2; tr 57]. kiến thức, kinh nghiệm đã có để thực hiện một hoạt động Theo N.Đ. Lêvitôp, “KN là sự thực hiện có kết quả nào đó trong môi trường quen thuộc. Theo nghĩa rộng, một động tác nào đó trong một hoạt động phức tạp hơn KN bao hàm những kiến thức, những hiểu biết và trải bằng cách lựa chọn và áp dụng những cách thức đúng nghiệm,... giúp cá nhân có thể thích ứng khi hoàn cảnh 41 Email: chinhthanhluongthevinh@yahoo.com.vn
  2. VJE Tạp chí Giáo dục, Số 462 (Kì 2 - 9/2019), tr 41-45 thay đổi. Theo nghĩa này, khái niệm “KN” có nội hàm ra giá trị cuộc sống, cùng thông điệp mà nhà văn muốn gửi tiệm cận với khái niệm “năng lực”. Ở bài viết này, chúng tới bạn đọc. Để khám phá, hiểu được nhân vật thì chúng ta tôi sử dụng khái niệm KN, KN tự nhận thức với hàm cần bắt đầu từ việc khai thác tình huống truyện. nghĩa rộng nêu trên. Nhà văn Nguyễn Minh Châu coi tình huống là “cái 2.1.2. Khái niệm kĩ năng tự nhận thức tình thế nảy ra truyện”, là “lát cắt” của đời sống mà qua Tự nhận thức (Self-awareness) là một trong những đó có thể thấy được cả trăm năm của đời thảo mộc, là KN sống căn bản của con người, là khởi điểm cho việc “một khoảnh khắc mà trong đó sự sống hiện ra rất đậm làm chủ bản thân và tạo ra những gì ta muốn, là nền tảng đặc”, “khoảnh khắc chứa đựng cả một đời người, thậm để con người thực hiện các KN khác một cách thuận lợi chí cả một đời nhân loại” [11; tr 258]. Nhà văn Nguyên và hiệu quả hơn. Ngọc khi bàn về truyện ngắn đã đặc biệt chú ý đến vấn Có rất nhiều cách định nghĩa khác nhau về tự nhận đề tình huống: “Truyện ngắn điểm huyệt thực hiện bằng thức. Theo Bộ GD-ĐT: “KN tự nhận thức là khả năng cách nắm bắt trúng những tình huống cho phép phơi bày của con người hiểu về chính bản thân mình, như cơ thể, cái chủ yếu nhưng lại bị che giấu trong muôn mặt cuộc tư tưởng, các mối quan hệ xã hội của bản thân: biết nhìn sống hàng ngày” [12; tr 114]. Còn trong Ngữ văn 12, nhận, đánh giá đúng về tiềm năng, tình cảm, sở thích, “tình huống truyện là cái hoàn cảnh riêng được tạo nên thói quen, điểm mạnh, điểm yếu… của bản thân; quan bởi một sự kiện đặc biệt trong truyện khiến tại đó, cuộc tâm và luôn ý thức được là mình đang làm gì, kể cả nhận sống hiện lên đậm đặc nhất và ý đồ tư tưởng của tác giả ra lúc bản thân đang cảm thấy căng thẳng” [6; tr 15]. cũng được bộc lộ sắc nét nhất”. Theo Travis Bradberry và Jean Greaves, “Tự nhận Hiện nay, còn nhiều cách phân loại tình huống khác thức (hay còn gọi là nhận thức về bản thân) là khả năng nhau. Cơ bản có 3 cách như sau: bạn nhận biết một cách chính xác về cảm xúc của mình - Thứ nhất: Tình huống kịch; tình huống tâm trạng; có khuynh hướng làm gì trong tình huống đó” [7; tr 23]. tình huống tượng trưng. Theo Daniel Goleman: “Tự nhận thức là khả năng - Thứ hai: Tình huống thắt nút; tình huống tương nhận biết các tình trạng, sở thích, nguồn lực của bản phản; tình huống luận đề. thân và trực giác” [8; tr 53]. - Thứ ba: Tình huống hành động; tình huống tâm Theo Higgs và Dulewicz, tự nhận thức là “Khả năng trạng; tình huống nhận thức. tự thấu hiểu cảm xúc của một người và khả năng nhận Như vậy, rõ ràng tình huống trong các văn bản tự sự ra cũng như kiểm soát những cảm xúc này theo cách mà có nhiều cách phân loại khác nhau, có sự đan xen với người đó cảm nhận và có thể kiểm soát được” [dẫn theo nhau. Nhưng nhìn chung, cách phân loại tình huống 9; tr 52]. thành các kiểu thường được các tác giả chú tâm xây Theo tác giả Trần Thanh Bình, “KN tự nhận thức là dựng. Tình huống hành động chủ yếu xoay quanh hành năng lực cá nhân vận dụng có hiệu quả những tri thức, động có tính bước ngoặt của nhân vật. Hành động này có những kinh nghiệm thành hành động để nhận biết đúng chức năng làm thay đổi cảnh ngộ, tình huống hoặc một đắn mình là ai, mình có thể làm được gì, điểm mạnh, đoạn đời của nhân vật. Tình huống tâm trạng chủ yếu điểm yếu của mình là gì, mình đang sống trong hoàn xoay quanh tâm trạng, cảm xúc có tính phát khởi, gây cảnh nào...” [10; tr 10]. biến đổi của nhân vật khi đối diện với tình thế đặc biệt diễn ra trong cảnh huống có liên quan đến bản thân (được Trên cơ sở ý kiến của các nhà khoa học, ở đây chúng đặt ra trong truyện). Loại tình huống này thường gặp tôi quan niệm: Tự nhận thức là khả năng nhận biết được trong những kiểu truyện trữ tình, không có cốt truyện, cảm xúc, những điểm mạnh, điểm yếu, giá trị và năng lực đậm yếu tố lãng mạn mà dòng diễn biến tâm lí nhân vật của bản thân để có thể xác định mục tiêu, điều chỉnh cảm là hạt nhân cốt lõi làm nên cấu trúc của truyện (loại xúc, hành vi của mình một cách phù hợp nhằm phát triển truyện ít diễn biến, nghèo về hành động, đối tượng chủ bản thân và góp phần phát triển cộng đồng, xã hội. yếu mà nhà văn khám phá là thế giới nội tâm tinh tế, là 2.2. Phát triển kĩ năng tự nhận thức cho học sinh trung trạng thái cảm xúc mơ hồ của nhân vật trước cuộc sống). học cơ sở qua trải nghiệm tình huống trong dạy học So với tình huống hành động, loại tình huống tâm đọc hiểu văn bản tự sự trạng khó nhận ra hơn. Tình huống nhận thức chủ yếu 2.2.1. Tình huống trong văn bản tự sự xoay quanh tình thế chứa đựng giây phút “giác ngộ” chân Tình huống gắn liền với cốt truyện và chủ đề tư tưởng lí của nhân vật (sự nhận thức lại về ý nghĩa thật sự của tác phẩm. Nếu như đi khai thác một bài thơ, chúng ta chú ý một vấn đề, một lĩnh vực nào đó trong quan niệm hoặc tới hình ảnh, cấu tứ, nhịp điệu…, thì khai thác một tác phẩm trong đời sống). Nhà văn đặt nhân vật vào một tình huống tự sự phải chú ý tới nhân vật ở các góc cạnh, từ đó phát hiện đầy bất ngờ, nghịch lí để từ đó nhân vật hiểu ra, vỡ lẽ ra và 42
  3. VJE Tạp chí Giáo dục, Số 462 (Kì 2 - 9/2019), tr 41-45 nhận thức được những vấn đề mà trước đó họ hiểu chưa cột chặt anh vào giường bệnh, Nhĩ mới nhận ra vẻ đẹp lạ đầy đủ hoặc chưa hiểu hay thậm chí đã ngộ nhận về nó. lùng của nó; 2) Nhĩ đã nhờ cậu con trai thực hiện giúp Các văn bản tự sự nói chung, văn bản tự sự trong mình khao khát được đặt chân lên bãi bồi bên sông, chương trình Ngữ văn THCS nói riêng đều xây dựng được nhưng trên đường đi, cậu con trai sa vào đám chơi cờ thế những tình huống truyện khá đặc sắc, kể cả các truyện tự và có thể lỡ chuyến đò ngang duy nhất trong ngày. Tình sự trung đại và dân gian. Trong truyện ngụ ngôn Ếch ngồi huống truyện là những gợi mở cho HS suy nghĩ về vẻ đáy giếng, tác giả dân gian đã tạo ra một tình huống thú vị: đẹp và giá trị của cuộc sống xung quanh chúng ta; là sự “một con ếch sống dưới đáy giếng, từ dưới nhìn lên thấy nhắc nhở về việc lựa chọn mục tiêu sống và những thời bầu trời chỉ bé xíu như cái vung nồi, mỗi khi nó cất tiếng cơ dễ bị đánh mất trong đời. kêu ồm ộp, các loài vật nhỏ bé quanh nó như nhái, cua, ốc Như vậy, các tình huống trong văn bản tự sự vừa là vô cùng hoảng sợ khiến ếch tự cho mình là chúa tể, chẳng tâm điểm để triển khai câu chuyện, vừa là cái khung cho coi ai ra gì”. Tình huống bất ngờ tiếp theo xảy ra: “sau nhà văn mô tả, khắc họa bản lĩnh, ý chí, tính cách, số cơn mưa lớn, nước giếng tràn đẩy ếch ra ngoài, nó vẫn phận của nhân vật. Cùng với nhân vật, tình huống truyện nghênh ngang thiếu hiểu biết nên đã bị trâu dẫm bẹp”. là yếu tố tạo nên sức hấp dẫn, lôi cuốn của câu chuyện. Tình huống truyện là một bài học, một lời khuyên hữu ích Bám vào tình huống truyện để tìm hiểu nhân vật là mục đối với HS về việc phải khắc phục thói kiêu ngạo, chủ tiêu cơ bản, quan trọng trong đọc hiểu văn bản tự sự. quan và cách nhìn nhận con người, cuộc đời nông cạn, Đồng thời, đây cũng là cơ hội để hình thành bản lĩnh, ý thiển cận để tránh phải trả giá đắt. chí và khả năng giải quyết vấn đề cho HS. Tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương của 2.2.2. Quy trình phát triển kĩ năng tự nhận thức cho học Nguyễn Dữ được tạo ra từ một tình huống truyện hết sức sinh trung học cơ sở qua trải nghiệm tình huống trong bất ngờ, căng thẳng: Vũ Nương là một người vợ hiền, dạy học đọc hiểu văn bản tự sự dâu thảo, khi Trương Sinh đi lính đã một lòng chung thủy Bước 1: Sau khi đọc văn bản giáo viên (GV) lựa chọn chờ chồng, phụng dưỡng mẹ chồng, nuôi dạy con thơ. hoặc hướng dẫn HS xác định, lựa chọn được những tình Khi Trương Sinh trở về, con thơ không nhận cha, Trương huống khó khăn, bất thường, éo le, nghịch lí mà nhân vật Sinh cả ghen nghi ngờ vợ, Vũ Nương oan khuất tày trời, phải đối mặt trong tác phẩm; tóm tắt được tình huống đó sau mọi cố gắng không thành đã gieo mình tự vẫn dưới bằng lời hoặc bằng sơ đồ. dòng nước Hoàng Giang; khi Trương Sinh biết vợ bị oan Bước 2: GV hướng dẫn HS xác định, tóm tắt được cách thì đã quá muộn. Tình huống truyện đã mở rộng hiểu biết phản ứng, ứng xử, giải quyết của nhân vật; phân tích chỉ ra cho HS về cuộc sống: rằng, cuộc đời đầy rẫy những bất ưu điểm, nhược điểm của cách ứng xử, giải quyết đó. trắc, có những bất trắc do chính người thân của mình vô tình tạo ra, có những người tốt thường bị thiệt thòi, vì Bước 3: GV cho HS suy nghĩ, thảo luận nhóm và viết vậy, cần phải cố gắng để thấu hiểu những người xung ra các cách phản ứng, ứng xử, giải quyết có thể; phân tích quanh và cần phải thận trọng trong từng lời nói, cử chỉ để chỉ ra ưu điểm, nhược điểm của mỗi cách ứng xử, giải tránh làm tổn thương những người tốt. quyết. GV và HS có thể sử dụng kĩ thuật bản đồ tư duy, khăn trải bàn hoặc kẻ bảng để trình bày, so sánh các Trong truyện ngắn Làng, Kim Lân cũng rất thành phương án. công khi xây dựng được tình huống chuyện độc đáo: nghe tin làng Chợ Dầu theo giặc, ông Hai vốn là người Bước 4: GV cho HS lựa chọn, phát biểu, chia sẻ cách rất yêu và tự hào về làng mình đã cảm thấy tủi hổ, nhục phản ứng, giải quyết mà HS thích nhất hoặc cho là tối ưu nhã, xót xa, đau đớn, dằn vặt và đi đến quyết định khó nhất đối với HS đó. HS có thể chia sẻ theo nhóm hoặc khăn: làng thì yêu thật nhưng làng đã theo Tây thì phải viết vào phiếu học tập riêng. thù. Khi nghe được tin cải chính, ông Hai như một người Bước 5: GV chia sẻ, trao đổi, cố vấn và định hướng đang chết mòn, chết mỏi được hồi sinh. Tình huống cách phản ứng, giải quyết vấn đề phù hợp và tốt nhất đối truyện như một thứ thuốc thử lòng yêu làng, yêu nước với HS nếu chẳng may ở vào tình huống tương tự như của nhân vật ông Hai đồng thời là một dẫn chứng sinh nhân vật trong tác phẩm. động đối với HS về phạm trù trừu tượng là “lòng yêu Ví dụ: khi dạy đọc hiểu văn bản Trong lòng mẹ, GV nước”, cách thể hiện lòng yêu nước. có thể dẫn dắt HS thực hiện các bước như sau: Bến quê của Nguyễn Minh Châu đã tạo ra hai tình Bước 1: GV nêu câu hỏi: Sau khi đọc xong văn bản, huống nghịch lí: 1) Nhĩ đã làm một công việc cho phép em thử phát hiện xem, nhân vật bé Hồng (hoặc mẹ bé anh đi “không sót một xó xỉnh nào trên trái đất” nhưng Hồng) đang phải đối mặt hoặc gặp phải khó khăn gì? bãi bồi bên kia sông ngay trước cửa sổ nhà anh lại chưa Em thử tóm tắt tình huống khó khăn, thách thức đó bằng bao giờ đặt chân tới, chỉ đến khi căn bệnh hiểm nghèo lời hoặc bằng sơ đồ tư duy? Dưới sự dẫn dắt của GV, HS 43
  4. VJE Tạp chí Giáo dục, Số 462 (Kì 2 - 9/2019), tr 41-45 có thể phát hiện và tóm tắt được tình huống: Bé Hồng mồ - Nếu là nhân vật người cô em sẽ đối xử với bé Hồng côi cha, mẹ bỏ đi tha hương cầu thực, phải sống cùng gia theo cách nào? Vì sao?... đình bà cô. Bà cô dùng những lời lẽ cay nghiệt để hạ nhục Với những câu hỏi này, HS có thể đưa ra nhiều ý kiến, mẹ nhằm khiến bé Hồng căm ghét mẹ, lãng quên tình nhiều cách lựa chọn khác nhau. GV cần tôn trọng ý kiến, mẫu tử. Bề ngoài, bé Hồng cố gắng nín nhịn, kiềm chế cách lựa chọn của các em. Có như vậy, giờ học mới hứng nhưng trong lòng thì đau đớn, xót xa. thú và tạo được môi trường cho các em phát triển năng Bước 2: GV nêu câu hỏi: Em hãy tìm và tóm tắt cách lực bản thân. Chẳng hạn, với câu hỏi Nếu ở vào hoàn phản ứng, ứng xử của bé Hồng khi nghe người cô nói về cảnh như bé Hồng, em có sẵn sàng chấp nhận và vẫn yêu mẹ và xui em nhảy tàu vào Thanh Hóa thăm mẹ? Theo thương mẹ mình khi mẹ lấy chồng mới và sinh em bé em, cách ứng xử của bé Hồng như vậy có nên không? Vì không? Vì sao? HS chắc chắn sẽ có những cách trả lời sao có, vì sao không? HS có thể đọc lại văn bản, liệt kê khác nhau, thậm chí trái ngược nhau. Ví dụ: các biểu hiện cảm xúc, tâm trạng, lời nói, cách ứng xử của bé Hồng như: “tôi cúi đầu không đáp”, “Nhưng đời - Em sẵn sàng đồng ý, bởi vì em cần một người bố, nào tình thương yêu và lòng kính mến mẹ tôi lại bị những mẹ em cũng cần một bờ vai nâng đỡ, một người chia sẻ, rắp tâm tanh bẩn xâm phạm đến”, “Tôi cũng đã cười đáp cảm thông với mình trong hiện tại và tương lai. lại cô tôi”, “Không! Cháu không muốn vào. Cuối năm - Em đồng ý, nhưng cần phải xem xét thận trọng xem thế nào mợ cháu cũng về”... cha dượng có thương mẹ mình thật hay chỉ lợi dụng... Bước 3: GV nêu vấn đề cho HS làm việc theo nhóm - Em đồng ý cho mẹ lấy chồng nhưng không được 3-4 HS: Theo em, bé Hồng có thể ứng xử theo những sinh em bé vì như vậy mình sẽ dần dần bị bỏ rơi... cách nào khác nữa? Hãy liệt kê các cách phản ứng, ứng xử có thể có trong tình huống này? Phân tích chỉ ra ưu - Em phản đối, vì nếu mẹ có chồng mới thì sớm hay điểm, nhược điểm của mỗi cách ứng xử, giải quyết đó? muộn gì mình cũng trở thành người thừa. Bởi lúc đó mẹ Bước 4: GV nêu vấn đề: Theo em, cách phản ứng, sẽ chăm lo cho em bé, cho cha dượng nhiều hơn và cha giải quyết nào tốt nhất? Vì sao? Nếu em ở vào tình huống dượng thì chỉ quan tâm lúc đầu thôi... của bé Hồng, em sẽ phản ứng theo cách nào? Vì sao? Thông qua ý kiến của mỗi HS trong tình huống phải Bước 5: GV chia sẻ, trao đổi, cố vấn và định hướng lựa chọn này, GV đã phần nào thấy được nhận thức cũng cách phản ứng, giải quyết vấn đề phù hợp và tốt nhất đối như bản lĩnh, ý chí, khả năng vượt khó của mỗi em. Các với HS nếu chẳng may ở vào tình huống tương tự như ý kiến đồng ý phần nào cho thấy các em đã trưởng thành nhân vật bé Hồng. hơn, chín chắn hơn, biết suy nghĩ cho người khác, dám HS có thể thực hiện nhiệm vụ học tập ở các bước 3, đối mặt với thực tế; ngược lại, các ý kiến không đồng ý 4, 5 bằng cách điền vào bảng sau: chứng tỏ các em hoặc còn rất ngây thơ, yếu đuối, hoặc Cách có phần ích kỉ kiểu con trẻ... Trên cơ sở chia sẻ của các Cách Cách Cách em, GV sẽ có những định hướng giúp HS vừa thấu hiểu Tình ứng xử ứng xử ứng xử ứng xử những chuẩn mực giá trị của xã hội, vừa đưa ra những huống của bé của bạn của tôi tốt nhất quyết định phù hợp với tình huống thực tế mà mình có Hồng thể phải đối mặt trong cuộc sống. GV cũng có thể phân tích sâu tình huống đối thoại với người cô của bé Hồng để thấy bé Hồng rất tinh ý và xử sự rất lễ phép và thông minh: Đối với một đứa trẻ một năm không được gặp mẹ, khi được hỏi “có muốn vào chơi với Trong khi HS làm việc, GV có thể gợi ý cho HS liên mẹ hay không? ” thường sẽ trả lời ngay là "có”. Nhưng khi tưởng, tưởng tượng để vừa hiểu nhân vật, vừa hiểu chính nhận ra những ý nghĩa cay độc trong giọng nói và nụ cười mình như: rất kịch của người cô, bé Hồng trả lời: “Cháu không muốn - Nếu là bé Hồng, em sẽ chọn cách trả lời người cô vào”. Nhưng diễn biến tâm trạng của Hồng đều trái ngược như thế nào khi người cô hỏi bé Hồng có muốn vào với lời nói, hành động của em: nỗi đau thầm kín đang Thanh Hóa thăm mẹ không? giằng xé tâm hồn em, nhưng không phải nỗi đau vì hận mẹ - Nếu ở vào hoàn cảnh như bé Hồng, em có sẵn sàng mà là sự căm phẫn trước những hủ tục đã làm khổ mẹ, chấp nhận và vẫn yêu thương mẹ mình khi mẹ lấy chồng cướp đi hạnh phúc, tổ ấm mà lẽ ra một người như mẹ được mới và sinh em bé không? Vì sao? hưởng. Bé Hồng không chỉ cảm thông mà còn mong mỏi - Em sẽ phải nói năng, hành động như thế nào nếu mẹ được hạnh phúc để được sống cùng mẹ. Đây là một phải sống với một người cô như trong văn bản này? cách ứng xử lễ phép và thông minh, bao dung và chín chắn 44
  5. VJE Tạp chí Giáo dục, Số 462 (Kì 2 - 9/2019), tr 41-45 mà HS có thể học tập khi chẳng may phải ở vào tình huống MỘT SỐ KĨ NĂNG CƠ BẢN… tương tự trong cuộc sống. (Tiếp theo trang 48) 3. Kết luận Như vậy, qua các văn bản tự sự từ dân gian đến trung đại, hiện đại trong chương trình Ngữ văn THCS hiện hành Tóm lại, một bài văn nghị luận nói chung luôn là sự chứa đựng rất nhiều tình huống truyện có khả năng phát kết hợp một cách linh hoạt, nhuần nhuyễn các TTLL; triển KN tự nhận thức cho HS. Vấn đề là GV cần phải biết trong đó, tuỳ theo yêu cầu của đề bài, căn cứ vào vấn đề lựa chọn và xác định được những tình huống phù hợp để nghị luận được nêu ra trong bài mà có sự lựa chọn và sử HS liên hệ, trải nghiệm. Bởi việc được nếm trải qua những dụng kết hợp các thao tác. Rèn luyện kĩ năng kết hợp các tình huống, nhất là những tình huống éo le trong các văn bản TTLL trong làm văn nghị luận vì thế rất quan trọng và tự sự không chỉ giúp các em hiểu rõ hơn về văn bản mà còn cần thiết cho HS THPT. giúp các em có thêm những khám phá thú vị về chính bản 3. Kết luận thân mình, tự nhận thức sâu sắc hơn về khả năng vượt khó Dạy học hướng đến rèn luyện kĩ năng, hình thành của chính mình. Đây cũng là môi trường thuận lợi để HS năng lực và phẩm chất người học đang trở thành xu thế phát triển các KN quan trọng khác như: KN giao tiếp, KN tất yếu của giáo dục hiện nay. Phương pháp dạy học theo chế ngự cảm xúc, KN làm việc nhóm, KN tư duy sáng tạo,... quan điểm này không chỉ chú ý tích cực hóa HS về hoạt và góp phần phát triển tư duy sáng tạo ở các em. động trí tuệ mà còn chú ý rèn luyện năng lực, kĩ năng giải quyết vấn đề. Trong dạy học Làm văn nghị luận, ngoài Tài liệu tham khảo việc trang bị cho HS hệ thống lí thuyết về văn nghị luận, [1] Phạm Lê Liên (chủ biên, 2015). Từ điển tiếng Việt GV cần tiến hành rèn luyện cho HS các kĩ năng về sử thông dụng. NXB Hồng Đức. dụng lập luận, kĩ năng sử dụng TTLL và kĩ năng sử dụng [2] Vũ Dũng (chủ biên, 2008). Từ điển Tâm lí học. NXB kết hợp các TTLL trong bài văn nghị luận. Có được Từ điển Bách khoa - Viện Tâm lí học. những kĩ năng cơ bản này, cùng với những kĩ năng chung [3] N.Đ. Lêvitov (1983). Tâm lí học cá nhân (tập 3). về Làm văn, HS sẽ viết được những bài văn nghị luận NXB Giáo dục. chặt chẽ, thuyết phục, từ đó chất lượng dạy học Làm văn [4] Huỳnh Văn Sơn (2009). Nhập môn Kĩ năng sống. nghị luận ở THPT sẽ được nâng cao. NXB Giáo dục Việt Nam. [5] Trần Trọng Thủy (1998). Tâm lí học lao động. NXB Đại học Quốc gia Hà Nội. Tài liệu tham khảo [6] Bộ GD-ĐT (2010). Giáo dục kĩ năng sống trong [1] Hoàng Phê (chủ biên, 1992). Từ điển tiếng Việt. môn Ngữ văn. NXB Giáo dục Việt Nam. Trung tâm từ điển ngôn ngữ, Hà Nội. [7] Travis Bradberry - Jean Greaves (2014). Thông [2] Lê Văn Hồng (2001). Tâm lí học lứa tuổi và tâm lí minh cảm xúc thế kỉ 21. (Dịch giả: Uông Xuân Vy, học Sư phạm. NXB Đại học Quốc gia Hà Nội. Trần Đăng Khoa). NXB Phụ nữ. [3] Nguyễn Trí (2009). Một số vấn đề dạy học tiếng Việt [8] Daniel Goleman (2007). Trí tuệ xúc cảm ứng dụng theo quan điểm giao tiếp ở tiểu học. NXB Giáo dục trong công việc (Biên dịch: Phương Thúy, Minh Việt Nam. Phương, Phương Linh). NXB Tri thức. [4] Devine, T. G. (1987). Teaching study skills: A guide [9] Andrea Bacon - Ali Dawson (2012). Giải mã trí tuệ for teachers. Boston: Allyn and Bacon. cảm xúc. (Biên dịch: Kim Vân, Song Thu, Vi Thảo Nguyên). NXB Trẻ. [5] Hoàng Thị Mai (chủ biên, 2009) - Kiều Thọ Long. Phương pháp dạy học văn bản nghị luận ở trường [10] Trần Thanh Bình (2013). Giúp trẻ tự nhận thức bản phổ thông. NXB Giáo dục Việt Nam. thân. NXB Văn hóa - Thông tin. [11] Bộ GD-ĐT (2018). Chương trình giáo dục phổ [6] Nguyễn Quang Ninh - Nguyễn Thị Ban - Trần Hữu thông môn Ngữ văn (Ban hành kèm theo Thông tư Phong (2000). Luyện cách lập luận trong đoạn văn số 32/2018/TT-BGDĐT ngày 26/12/2018 của Bộ nghị luận cho học sinh phổ thông. NXB Đại học trưởng Bộ GD-ĐT). Quốc gia Hà Nội. [12] Nguyễn Minh Châu (1994). Trang giấy trước đèn. [7] Chu Huy - Chu Văn Sơn - Vũ Nho (2005). Nâng cao NXB Khoa học xã hội. kĩ năng làm văn nghị luận. NXB Giáo dục. [13] Bùi Việt Thắng (biên soạn và sưu tầm, 2000). [8] Lê A - Nguyễn Quang Ninh - Bùi Minh Toán Truyện ngắn - Những vấn đề lí thuyết và thực tiễn (1996). Phương pháp dạy học môn Làm văn. NXB thể loại. NXB Đại học Quốc gia Hà Nội. Giáo dục. 45
nguon tai.lieu . vn