- Trang Chủ
- Thư viện thông tin
- Phát triển giáo dục mở và tài nguyên giáo dục mở - Một phương thức bảo đảm quyền tiếp cận, thụ hưởng giáo dục đại học
Xem mẫu
- PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC MỞ VÀ TÀI NGUYÊN GIÁO DỤC MỞ -
MỘT PHƯƠNG THỨC BẢO ĐẢM QUYỀN TIẾP CẬN,
THỤ HƯỞNG GIÁO DỤC ĐẠI HỌC
Tạ Thị Thu Đông
1. TIẾP CẬN, THỤ HƯỞNG GIÁO DỤC ĐẠI HỌC – MỘT QUYỀN CON NGƯỜI PHẢI ĐƯỢC
BẢO ĐẢM MỘT CÁCH BÌNH ĐẲNG, CÔNG BẰNG CHO BẤT CỨ AI CÓ KHẢ NĂNG
Quyền con người là toàn bộ những lợi ích, nhu cầu, giá trị chính
đáng mà con người phải được xã hội cùng các thành viên của nó tôn
trọng, bảo vệ và bảo đảm trong mọi hoàn cảnh hoặc trong một hoàn
cảnh cụ thể nhất định. Xã hội càng phát triển, con người càng có nhu
cầu và phải được quyền bảo đảm các điều kiện, cơ hội để phát triển
cùng xã hội. Tiếp cận, thụ hưởng giáo dục là phương thức quan trọng
nhất giúp mỗi cá nhân có năng lực tự thân để theo kịp sự phát triển
chung của cộng đồng, dân tộc và nhân loại.
Nằm trong nhóm quyền thuộc lĩnh vực văn hóa - xã hội, quyền được
giáo dục chiếm vị trí vô cùng quan trọng, là quyền cơ bản, nhu cầu thiết
yếu “không thể thiếu để bảo đảm nhân phẩm và tự do phát triển về nhân
cách” [dẫn theo 5, tr.52] đối với mỗi cá nhân vì thế đã được khẳng định
tại nhiều văn kiện pháp lý quan trọng. Điều 26 Tuyên ngôn toàn thế giới
về quyền con người năm 1948 khẳng định rõ: “Mọi người đều có quyền
được học tập” [dẫn theo 5, 53]. Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã
hội và văn hóa năm 1966 cũng cụ thể hóa tại Điều 13 và Điều 14.
Nếu giáo dục tiểu học và trung học giúp các cá nhân có kiến thức,
kỹ năng căn bản để tham gia vào lực lượng lao động, không bị rơi vào
đói nghèo cùng cực, bị gạt ra khỏi bên lề xã hội thì giáo dục đại học
lại là cơ hội giúp các cá nhân phát triển tối đa mọi tiềm năng sẵn có
- PHẦN 1. TIẾP CẬN GIÁO DỤC MỞ VÀ TÀI NGUYÊN GIÁO DỤC MỞ 25
(tố chất, thiên hướng) cùng những năng lực, ước vọng về nghề nghiệp
được bồi đắp từ nền tảng giáo dục trước đó. “Giáo dục là con đường
gia công chuyển hóa sức lao động giản đơn thành sức lao động phát
triển, chuyên môn… Quá trình giáo dục, huấn luyện chính là quá trình
kỹ thuật hóa, chuyên môn hóa sức lao động, tạo ra sức lao động trí óc
hiện đại” [4, tr.14]. Xã hội càng phát triển cùng xu hướng toàn cầu hóa
cả về công nghệ lẫn văn hóa thì nhân tố trí lực trong lao động càng trở
thành bắt buộc. Tuy nhiên, năng lực lao động trí tuệ của người lao động
thường không đồng đều trong khi yêu cầu về lao động lại không ngừng
gia tăng đòi hỏi yếu tố trí tuệ, hàm lượng chất xám, khả năng tư duy
cao hơn, sáng tạo hơn. Từ đó tất yếu dẫn tới sự phân hóa về trình độ,
năng lực trong lực lượng lao động. Giáo dục đại học chính là phương
thức thúc đẩy, là cơ sở tạo ra sự phân hóa hợp quy luật đó. Giáo dục đại
học đóng vai trò phân hóa và tách ra trong lực lượng lao động bộ phận
người lao động chân tay trực tiếp trở thành người lao động chuyên đảm
nhiệm các công việc yêu cầu cao về lao động trí óc với những kỹ năng
toàn diện [4, tr.15]. Cho nên, tiếp cận, thụ hưởng giáo dục đại học là
điều kiện giúp các cá nhân có thiên hướng lao động trí óc được đào tạo
trang bị tri thức, huấn luyện kỹ năng toàn diện để chủ động tham gia
vào sự phân hóa trong lực lượng lao động nhằm bảo đảm “quyền làm
việc, quyền tự do lựa chọn nghề nghiệp, được hưởng những điều kiện
làm việc công bằng, thuận lợi và được bảo vệ chống lại nạn thất nghiệp”
[dẫn theo 5, tr.52] được ghi nhận tại Khoản 1 Điều 23, Tuyên ngôn Toàn
thế giới về quyền con người, 1948.
Mỗi cá nhân đều có những năng lực tiềm ẩn gọi là tiềm năng và
thiên hướng nghề nghiệp khác nhau. Thông qua giáo dục – đào tạo –
huấn luyện, năng lực tiềm ẩn ấy có cơ hội trở thành kỹ năng. Kỹ năng
đó càng được tôi luyện, qua trải nghiệm thực tiễn công việc, được hỗ trợ
đầu tư, thúc đẩy sẽ có cơ hội bứt phá thành tài năng. Tiếp cận với giáo
dục đại học là điều kiện để đại đa số các cá nhân có năng lực khác nhau
đều có cơ sở và cơ hội phát huy tiềm năng, thiên hướng nghề nghiệp.
Trong quá trình tiếp cận với giáo dục đại học để đạt được các kỹ năng,
phấn đấu trở thành tài năng, mỗi cá nhân đồng thời có cơ hội phát triển,
bộc lộ nhân tính, bồi đắp giá trị tự thân. Guiních – Giáo sư triết học
- 26 XÂY DỰNG VÀ KHAI THÁC TÀI NGUYÊN GIÁO DỤC MỞ
giáo dục trước đây của trường Đại học Côlômbia cho rằng một đặc
trưng của nhân tính là vượt lên chính mình để theo đuổi và đạt được
mục đích, hoài bão, ước mơ, hạnh phúc [dẫn theo 4, tr.185]. Hạnh phúc
có thể hiểu là sự thỏa mãn niềm say mê, nhu cầu sáng tạo, cống hiến
trong lao động, thành công với việc dấn thân khám phá bản thân, cuộc
sống. Xã hội phải tạo điều kiện để mọi cá nhân thuận lợi trong việc thực
hiện quyền theo đuổi hạnh phúc còn giáo dục đại học phải bảo đảm mở
rộng cơ hội cho tất cả những ai có năng lực, giúp họ tự do phát triển
trong mối liên kết, hợp tác với cộng đồng, xã hội thông qua tiếp cận,
thụ hưởng giáo dục.
Con người vốn bình đẳng về quyền và giá trị nhưng trong cuộc
sống, các cá nhân luôn gặp những điều kiện thuận lợi, khó khăn khác
nhau không chỉ gắn liền với chính mình mà còn gắn liền với cộng đồng,
quốc gia, dân tộc bởi yếu tố kinh tế, chính trị, văn hóa, lịch sử, địa lý…
tất cả góp phần tạo ra sự bất bình đẳng khách quan giữa các cá nhân.
Được tiếp cận, thụ hưởng giáo dục một cách công bằng là cơ hội giúp
mỗi cá nhân có khả năng vượt qua những rào cản khách quan tự vươn
lên giải phóng năng lực bản thân, cộng hưởng giá trị xã hội để đạt được
và mở rộng sự tự do bảo toàn quyền bình đẳng vốn có mà tạo hóa đã
gắn liền với mỗi cá nhân, góp phần thúc đẩy tiến bộ xã hội, thịnh vượng
quốc gia, văn minh nhân loại. Với xu hướng quốc tế hóa, toàn cầu hóa,
năng lực trí tuệ của cá nhân, cộng đồng, dân tộc được giải phóng sẽ tạo
ra sức mạnh, vị thế mới cho chính cá nhân, cộng đồng và dân tộc. Rõ
ràng, bảo đảm một cách bình đẳng, công bằng cho bất cứ ai có khả năng
được tiếp cận, thụ hưởng giáo dục đại học là cách thức bảo đảm quyền
con người thiết thực, giàu giá trị nhân sinh nhân bản.
Giáo dục đại học với vai trò của mình, có mối quan hệ khăng khít
với chất lượng, trạng thái an toàn về nguồn nhân lực. Nguồn nhân lực
có chất lượng là nguồn nhân lực đã qua đào tạo toàn diện về kiến thức
chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp, kỷ luật lao động, năng lực thích
nghi, thích ứng với cường độ, tập quán lao động, phong cách làm việc,
kiến thức - kỹ năng bảo đảm an toàn lao động, bảo vệ quyền lợi trong
quan hệ lao động… Còn trạng thái an toàn về nguồn nhân lực là trạng
thái nguồn nhân lực có khả năng sẵn sàng đảm nhận và đón nhận mọi
- PHẦN 1. TIẾP CẬN GIÁO DỤC MỞ VÀ TÀI NGUYÊN GIÁO DỤC MỞ 27
cơ hội về việc làm trước biến động của cuộc sống, sự thay đổi, cạnh
tranh cao của nghề nghiệp, thị trường lao động, xu hướng hội nhập, toàn
cầu hóa quốc tế hóa để hạn chế ở mức thấp nhất tình trạng thất nghiệp.
Trạng thái an toàn về nguồn nhân lực được duy trì khi người lao động
vừa có thể đảm nhiệm công việc thuộc lĩnh vực đã qua đào tạo vừa có
thể chuyển từ lĩnh vực lao động này sang lĩnh vực lao động khác, từ khu
vực, quốc gia này sang khu vực, quốc gia khác nhờ tri thức, kỹ năng,
kinh nghiệm, văn hóa mà họ chủ động để đạt được trong quá trình học
tập. Thông qua chương trình đào tạo, huấn luyện, giáo dục đại học giúp
các cá nhân có cơ hội ở trong trạng thái an toàn về khả năng lao dộng
được bảo đảm quyền lao động, có việc làm đưa tới sự phát triển bền
vững của quốc gia trên tất cả các lĩnh vực tránh cho các cá nhân, cộng
đồng phải đối mặt với sự gia tăng tệ nạn xã hội, khủng bố, bạo loạn,
chính trị bất ổn, bạo lực gia đình, suy giảm đạo đức, trình độ dân trí –
văn hóa, khủng hoảng trong giải quyết các vấn đề an sinh – xã hội. Nhờ
đó, giá trị, nhân phẩm, quyền tự do phát triển mưu cầu hạnh phúc và an
ninh con người được duy trì, bảo đảm đồng thời còn đưa tới khả năng
bảo đảm quyền, lợi ích của các thế hệ kế tiếp, năng lực cạnh tranh, lợi
thế so sánh từ nguồn nhân lực quốc gia.
Sự phát triển xã hội nói chung được thúc đẩy trước hết từ sự phát
triển kinh tế - sản xuất xã hội dựa trên trình độ của lực lượng lao động.
Trình độ của lực lượng lao động càng cao gắn liền với sự phân khúc
hợp lý về trình độ thì triển vọng, tốc độ phát triển kinh tế - xã hội càng
lớn và ổn định. Tạo sự phân khúc hợp lý về trình độ của lực lượng lao
động không chỉ là điều chỉnh tỷ lệ, cơ cấu nguồn nhân lực theo nhu cầu
phát triển kinh tế - xã hội, nghành nghề mà còn là tạo ra chất lượng thực
sự bên trong các phân khúc về trình độ, năng lực của người lao động
nhằm tránh lãng phí về kinh tế và chính sách trong việc đào tạo nguồn
nhân lực, giảm gánh nặng cản trở sự phát triển xã hội. Do đó, dưới góc
độ kinh tế, pháp luật, chính sách gắn với lý luận về nhân quyền, có thể
thấy việc tiếp cận, thụ hưởng giáo dục đại học không phải chỉ dành cho
những ai có tài chính, nhu cầu theo đuổi việc học tập mà giáo dục đại
học rất cần thiết phải được bảo đảm bình đẳng, công bằng cho bất cứ
ai có khả năng – năng lực (kể cả trong trường hợp họ gặp một số điều
- 28 XÂY DỰNG VÀ KHAI THÁC TÀI NGUYÊN GIÁO DỤC MỞ
kiện kém thuận lợi) nhằm đảm bảo chất lượng thực sự của nguồn nhân
lực trình độ cao.
Trong giới tự nhiên cũng như trong đời sống xã hội, “không có cái
gì xảy ra một cách đơn độc. Hiện tượng này tác động đến hiện tượng
khác và ngược lại…” [7, tr.652]. Bảo đảm bình đẳng, công bằng trong
tiếp cận, thụ hưởng giáo dục đại học cho bất cứ ai có khả năng không
chỉ là phương thức để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực mà còn là
giải pháp thiết thực bảo đảm sự phát triển bền vững của quốc gia; góp
phần xóa đói giảm nghèo, cải thiện bình đẳng giới, chống phân biệt đối
xử trong giáo dục, bảo đảm quyền lao động, có việc làm… thúc đẩy tiến
trình hội nhập quốc tế và thực hiện mục tiêu thiên niên kỷ.
Con người được bình đẳng về quyền khi có cơ hội bình đẳng để phát
triển năng lực, giá trị. Đói nghèo, phải chịu bất bình đẳng giới, phân biệt
đối xử bên cạnh nguyên nhân khách quan còn có nguyên nhân chủ quan
xuất phát trực tiếp từ năng lực của các cá nhân đang ở trong tình trạng
này. Tiếp cận với giáo dục đại học là cơ hội thuận lợi để các cá nhân có
năng lực, ý chí vươn lên thoát nghèo nhờ ứng dụng khoa học kỹ thuật,
công nghệ - truyền thông trong lao động sản xuất, kinh doanh, mở rộng
sự tương tác và các mối quan hệ xã hội… Đây còn là cơ hội thuận lợi để
các cá nhân bị bạo lực, phải chịu bất bình đẳng giới, bị phân biệt đối xử
(phụ nữ, người khuyết tật, người nhiễm HIV, người mới ra tù…) nâng cao
kiến thức, rèn luyện kỹ năng khẳng định chuyên môn tay nghề, mở rộng
hiểu biết pháp luật để đạt được vị trí xứng đáng trong nghề nghiệp, bảo
vệ nhân phẩm chống bạo lực, sự kỳ thị phân biệt đối xử để hòa nhập cộng
đồng đóng góp trí tuệ, năng lực phát triển xã hội. Đây cũng là cơ hội giúp
các cá nhân tiếp cận với các phương thức làm việc năng động, tư duy hiện
đại, khắc phục sự lạc hậu của cá nhân với cộng đồng, của vùng nông thôn,
miền núi với vùng đô thị, của quốc gia với khu vực, quốc tế góp phần đẩy
nhanh tiến trình hội nhập và thực hiện mục tiêu thiên niên kỷ.
Tóm lại, là một quyền con người cơ bản trong xã hội hiện đại, giáo
dục tạo ra động lực thúc đẩy sự phát triển cá nhân, cộng đồng, xã hội. Sự
phát triển xã hội lại dựa trên sự phát triển của cá nhân, hướng tới và hỗ
trợ sự phát triển của cá nhân. Với ý nghĩa ấy, rất cần phải coi trọng giáo
- PHẦN 1. TIẾP CẬN GIÁO DỤC MỞ VÀ TÀI NGUYÊN GIÁO DỤC MỞ 29
dục và tiếp cận giáo dục đại học vì sự phát triển bền vững của cá nhân,
xã hội, mối quan hệ gắn bó giữa cá nhân với xã hội. Cho nên, tại Điều 26
Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người năm 1948 cùng với việc
nhấn mạnh: “Mọi người đều có quyền được học tập” [dẫn theo 5, 53] còn
khẳng định rõ: “Giáo dục đại học hay cao hơn phải theo nguyên tắc công
bằng cho bất cứ ai có khả năng” [dẫn theo 5, 53]. Đối với Việt Nam, từ
Hiến pháp cho tới các luật liên quan đều ghi nhận quyền bình đẳng về tiếp
cận, thụ hưởng giáo dục của mọi công dân, quyền được quan tâm, giúp
đỡ, tạo điều kiện thuận lợi dể học tập không chỉ của trẻ em mà của cả phụ
nữ, thanh niên, người dân tộc thiểu số, người khuyết tật… gắn liền với
trách nhiệm nghề nghiệp của giáo viên, nghĩa vụ tôn trọng, bảo vệ, thực
thi của nhà nước, xã hội, các chủ thể hữu quan. Điều 61 Hiến pháp Việt
Nam năm 2013 khẳng định: phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu
nhằm cung cấp nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Nhà nước phải có trách
nhiệm ưu tiên chăm lo giáo dục,… thực hiện chính sách học bổng, học
phí hợp lý; ưu tiên phát triển giáo dục ở vùng khó khăn; ưu tiên sử dụng,
phát triển nhân tài; tạo điều kiện để người khuyết tật, người nghèo được
học văn hoá và học nghề [9]. Ngoài ra, vì sự phát triển bền vững của cá
nhân và xã hội, việc bảo đảm quyền được giáo dục gắn liền với nguyên
tắc công bằng, bình đẳng, nhân đạo còn được Hiến pháp nhấn mạnh tới
các đối tượng như trẻ em, thanh niên, phụ nữ tại Điều 37, Điều 26.
2. PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC MỞ VÀ TÀI NGUYÊN GIÁO DỤC MỞ - MỘT GIẢI PHÁP THIẾT THỰC,
BỀN VỮNG NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC ĐẠI HỌC, BẢO ĐẢM QUYỀN
TIẾP CẬN, THỤ HƯỞNG GIÁO DỤC ĐẠI HỌC
Là quốc gia đang phát triển với cơ cấu dân số vàng, Việt Nam hiện
có tỷ lệ người đang ở trong (và chuẩn bị bước vào) độ tuổi lao động cao
với nhu cầu tiếp cận, thụ hưởng giáo dục đại học lớn. Trong khi đó, cách
thức tổ chức, các mô hình giáo dục của đa số các trường đại học thực sự
chưa đáp ứng được nhu cầu học tập của người dân, đặc biệt là với người
dân vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, vùng dân tộc
thiểu số. Giáo dục đại học để trở thành động lực phát triển xã hội, đáp
ứng được yêu cầu của thực tiễn, công việc đặt ra đối với mỗi cá nhân đòi
hỏi không chỉ hướng đến các cá nhân ở độ tuổi sinh viên (18 – 25 tuổi)
- 30 XÂY DỰNG VÀ KHAI THÁC TÀI NGUYÊN GIÁO DỤC MỞ
mà còn phải mở rộng cơ hội - mở rộng quyền cho mọi cá nhân có nhu
cầu nâng cao kiến thức chuyên môn, phát triển năng lực, kỹ năng nghề
nghiệp tương dương trình độ đại học để tìm kiếm, duy trì, thúc đẩy các
cơ hội nghề nghiệp, không bị đánh bật ra khỏi lực lượng lao động rơi
vào tình trạng thất nghiệp. Giáo dục đại học Việt Nam hiện nay chưa
đáp ứng được yêu cầu này. Đồng thời, cách thức tổ chức giáo dục của
các trường đại học càng không đáp ứng được nhu cầu học tập của nhóm
người dễ bị tổn thương. Các trường đại học chủ yếu tập trung tại các đô
thị, các tỉnh có điều kiện kinh tế phát triển nên chưa đáp ứng được nhu
cầu, quyền được học tập của người dân cả nước gây lãng phí về kinh tế
trong chi phí cho giáo dục của cả chính phủ lẫn người dân, không phát
huy được lợi thế vàng (nhu cầu đa dạng, người học nhiều, thông minh,
hiếu học, chịu sự cạnh tranh về lao động, việc làm nên có động lực học
tập…). Với phương pháp tổ chức hoạt động giáo dục, truyền thụ tri
thức còn khép kín, thiên về lý thuyết, thiếu ứng dụng khoa học công
nghệ, tương tác xã hội và trao đổi thông tin, thiếu diễn đàn sinh hoạt
khoa học cùng nguồn học liệu tách biệt giữa các trường đã hạn chế rất
lớn cơ hội tiếp cận tri thức hiện đại khiến cả người dạy lẫn người học
đều thụ động, lạc hậu trong tiến trình giảng dạy - học tập. Người học
vẫn thiếu kỹ năng nghề nghiệp, kiến thức thực tiễn, kỹ năng sống, gặp
khó khăn khi ứng dụng lý thuyết vào giải quyết công việc, tình huống
nghề nghiệp, quan hệ xã hội cụ thể. Đó là chưa kể đến nhiều trường đại
học mới nâng cấp từ trường cao đẳng, đội ngũ giáo viên, cơ sở vật chất,
hệ thống phòng thí nghiệm, nguồn học liệu, phương thức quản lý, tiêu
chuẩn đảm bảo chất lượng giáo dục… chưa tương xứng với bậc giáo
dục đại học nên không bảo đảm quyền lợi của người học.
Trước tình hình đó, việc phát triển mô hình giáo dục đại học năng
động, hiện đại với nguồn tài nguyên giáo dục đa dạng, phong phú, sẵn
có là rất cần thiết nhằm đáp ứng nhu cầu tiếp cận, thụ hưởng giáo dục
của mọi cá nhân có khả năng, bảo đảm chất lượng thực sự của giáo dục
đại học, thúc đẩy vai trò tích cực, chủ đạo của giáo dục đại học trong
phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho đất nước.
Nghiên cứu về con người dưới góc độ giáo dục học, động lực học
có thể thấy: năng lực của mỗi người vốn khác nhau, khi ở trong môi
- PHẦN 1. TIẾP CẬN GIÁO DỤC MỞ VÀ TÀI NGUYÊN GIÁO DỤC MỞ 31
trường, điều kiện sống, điều kiện giáo dục khác nhau sẽ có cơ hội bộc
lộ, phát triển, bứt phá khác nhau. Vì thế, phải có hình thức, cách thức
tổ chức giáo dục đa dạng, phong phú để phát triển những năng lực khác
nhau của các cá nhân. Thúc đẩy năng lực riêng của mọi cá nhân sẽ tạo
ra năng lực, sức mạnh chung của cả cộng đồng. Việc tạo ra năng lực cho
cá nhân không phải chỉ vì sự sinh tồn của họ trong hiện tại mà còn phải
vì sự phát triển của họ ở tương lai gắn liền với sự đi lên của cộng đồng,
dân tộc trong giai đoạn kế tiếp. Đó là lý do vì sao tư tưởng quan trọng
của Đặng Tiểu Bình nêu ra trong lĩnh vực giáo dục cũng là phương
hướng căn bản của cải cách giáo dục Trung Quốc chính là: “Giáo dục
phải hướng về hiện đại hóa, hướng ra thế giới và hướng tới tương lai”
[dẫn theo 4, tr.194]. “Hướng tới tương lai là giáo dục phải phục vụ
cho sự phát triển xã hội tương lai của đất nước” [4, tr.195]. Điều đó có
nghĩa: “Một là, giáo dục phải thích ứng với nhu cầu phát triển của xã
hội tương lai; Hai là, giáo dục phải đặt nền móng tốt đẹp cho sự phát
triển suốt đời của cá thể trong tương lai” [4, tr.196].
Giáo dục với vai trò chức năng của mình phải tạo ra những con
đường, cách tiếp cận, thụ hưởng, phương tiện sẵn có khác nhau để
người học thuận lợi trong việc lựa chọn cách thức phát triển năng lực
bản thân đồng thời xã hội cũng dễ dàng, chu đáo hơn trong việc đồng
hành, giúp đỡ họ phát huy năng lực một cách liên tục, bền vững. Nhiều
quốc gia trên thế giới như Pháp, Mỹ, Nhật, Anh, các nước trong OECD,
Hàn Quốc, Singapore… đã xây dựng một nền giáo dục mở và nguồn
tài nguyên giáo dục mở để nhằm gắn kết, thúc đẩy sự tương tác, hỗ trợ
phát triển năng lực giữa cá nhân, cộng đồng, xã hội đồng thời để đảm
bảo ngày càng tốt hơn quyền được tiếp cận, thụ hưởng giáo dục của mọi
thành viên trong xã hội.
Trên thế giới, thuật ngữ “giáo dục mở” (Open Education - OE) với
mô hình, tính chất của nó được biết đến từ đầu thế kỷ XX. Ở Việt Nam,
giáo dục mở mới có những bước đi ban đầu, đang hứa hẹn sự phát triển
vượt bậc bởi nhu cầu phát triển đất nước, xu hướng, sự tác động của thế
giới cùng những ràng buộc về trách nhiệm của chính phủ trong việc nỗ
lực thực thi các cam kết quốc tế về quyền con người thuộc lĩnh vực kinh
tế, văn hóa, xã hội nói chung giáo dục nói riêng. Xét về đặc điểm mô
- 32 XÂY DỰNG VÀ KHAI THÁC TÀI NGUYÊN GIÁO DỤC MỞ
hình, giáo dục mở là mô hình giáo dục trong đó mọi sự cản trở về địa
điểm (phạm vi, không gian, bối cảnh), phương pháp, ý tưởng, chương
trình, học liệu đều được khắc phục tối đa, được xóa bỏ do sự tác động, hỗ
trợ của công nghệ thông tin và truyền thông, hoạt động giáo dục không
ranh giới giữa các quốc gia, quốc tế hóa giáo dục được tăng cường, thúc
đẩy [6, tr.14; 8, tr.4]. Xét về đặc điểm tính chất (bản chất), giáo dục mở
là “giáo dục của mọi người, vì mọi người, cho mọi người, mọi người có
quyền bình đẳng hưởng thụ thành quả của nền giáo dục, có nghĩa vụ đóng
góp, xây dựng, phát triển giáo dục”; “xã hội và người học tự đánh giá
năng lực giá trị thực của mình qua kết quả hoạt động thực tiễn” [8, tr.4].
Như vậy, giáo dục mở gắn liền với thế giới mở, không gian mở, tư duy
mở, tài liệu mở, cơ hội mở và giám sát mở nhằm làm cho ai cũng được
học hành như mong ước của Hồ Chí Minh. Dưới góc độ nhân quyền,
phát triển giáo dục mở và tài nguyên giáo dục mở (Open Educational
Resources - OER) là cách thức tổ chức giáo dục nhằm bảo đảm, hiện thực
hóa ngày càng tốt hơn quyền được học tập của mọi cá nhân.
Từ những vấn đề lý luận và thực tiễn của giáo dục trong nước cũng
như quốc tế, có thể thấy giáo dục đại học Việt Nam hiện đang phải giải
quyết các mâu thuẫn cơ bản sau: (i) mâu thuẫn giữa phương thức tổ chức,
cung cấp giáo dục với nhu cầu tiếp cận, thụ hưởng giáo dục của người dân
dưới góc độ quyền con người; (ii) mâu thuẫn giữa phương thức tổ chức,
cung cấp giáo dục với yêu cầu bảo đảm chức năng, vai trò của giáo dục, yêu
cầu đáp ứng về chất lượng, số lượng nguồn nhân lực cho xã hội; (iii) mâu
thuẫn giữa mục đích, mục tiêu phát triển giáo dục với quy cách tổ chức,
thực hiện các hoạt động giáo dục, hình thức giáo dục; (iv) mâu thuẫn giữa
triết lý giáo dục với việc hiện thực hóa triết lý giáo đục (trước hết là vướng
mắc ở tư duy về tổ chức hoạt động thực tiễn từ đó dẫn tới vướng mắc trong
các hoạt động giáo dục cụ thể trực tiếp; (v) mâu thuẫn giữa yêu cầu hội
nhập và khả năng hội nhập của giáo dục đại học Việt Nam.
Trước xu thế phát triển của thế giới, việc tăng cường phát triển OE,
OER cho giáo dục đại học Việt Nam hiện nay là một hướng đi rất thiết
thực góp phần:
(i) Giải quyết tốt các mâu thuẫn cơ bản trên đây của giáo dục đại học;
- PHẦN 1. TIẾP CẬN GIÁO DỤC MỞ VÀ TÀI NGUYÊN GIÁO DỤC MỞ 33
(ii) Đáp ứng được yêu cầu phát triển giáo dục đại học của quốc gia
gắn với bảo đảm quyền tiếp cận, thụ hưởng giáo dục đại học của tất thảy
các cá nhân có khả năng;
(iii) Giúp giáo dục đại học Việt Nam rút ngắn sự lạc hậu về chất
lượng cũng như phương thức tổ chức so với các nước trong khu vực và
quốc tế;
(iv) Phát huy được vai trò, sự hỗ trợ của khoa học công nghệ thông
tin và truyền thông đối với giáo dục đại học;
(v) Đưa tới sự thuận lợi trong việc thúc đẩy quan hệ hợp tác, đối
ngoại về giáo dục của chính phủ cũng như các trường đại học;
(vi) Tạo cơ hội để xây dựng một cơ chế giám sát mở, cung ứng mở
trong giáo dục đại học đồng thời phát huy được vai trò chủ động tích
cực, lợi thế vàng của người học và nguồn nhân lực giáo dục hiện có.
Bảo đảm quyền tiếp cận, thụ hưởng giáo dục đại học không chỉ là
mở rộng cơ hội để gia tăng số lượng các cá nhân có khả năng được tiếp
với cận giáo dục đại học mà sâu xa, thiết thực hơn là phải bảo đảm về
kết quả tiếp cận, chất lượng thụ hưởng để mọi cá nhân khi tham gia vào
quá trình giáo dục đại học đều có những chuyển biến tích cực về kiến
thức, kỹ năng, hành vi, thái độ, giá trị. Thông qua phát triển OE, OER
yêu cầu về sự bảo đảm trên đây có cơ sở được đáp ứng. Bởi lẽ:
1. Tài nguyên giáo dục mở (OER) là những tài liệu số hóa được
cung cấp và mở miễn phí trên mạng giúp người dạy, người học sử dụng,
nghiên cứu, học tập thuận lợi [6, tr.14]. Đây là mấu chốt, điều kiện để
xây dựng một nền giáo dục đại học có tính mở, hiện đại, năng động,
chất lượng, hiệu quả kinh tế - xã hội cao.
2. Phát triển OE, OER là sự tuân thủ, thực tiễn hóa các tiêu chuẩn
quốc tế về giáo dục như tính sẵn có, tính có thể tiếp cận, tính có thể
chấp nhận được và có thể thích ứng,… đã được Ủy ban về các quyền
kinh tế, văn hóa và xã hội của Liên hợp quốc đề cập tới trong khóa họp
thứ 21 (1999) ghi tại đoạn 6,17,18,19 Bình luận chung số 13: quyền
được giáo dục [10, tr.118,123]. Cũng trong bình luận này, giáo dục kỹ
thuật và dạy nghề (TVE) là một phần quan trọng của quyền được giáo
- 34 XÂY DỰNG VÀ KHAI THÁC TÀI NGUYÊN GIÁO DỤC MỞ
dục và có việc làm, là một yếu tố cấu thành thống nhất trong mọi cấp
giáo dục được Ủy ban lưu tâm tới tại đoạn 15, 16. Trong đó, các điểm
(c), (d) đoạn 16 nêu rõ TVE nhằm: “Bồi dưỡng cho lớp người lớn hiện
có kiến thức, kỹ năng đã lạc hậu do những thay đổi về công nghệ, kinh
tế, việc làm, xã hội và những thay đổi khác; Nó bao gồm những chương
trình dành cho sinh viên, đặc biệt là sinh viên ở các nước đang phát
triển, cơ hội tiếp nhận TVE ở các quốc gia thành viên khác để chuyển
giao và thích ứng với công nghệ phù hợp” [10, tr.122]. Rõ ràng, căn cứ
theo Bình luận chung số 13 của Ủy ban về các quyền kinh tế, văn hóa
và xã hội của Liên hợp quốc, việc phát triển OE, OER là rất cần thiết tại
Việt Nam vì bảo đảm quyền được giáo dục nghề của các cá nhân.
3. OE, OER thúc đẩy quyền tự do tiếp cận thông tin, tự do trao đổi
học thuật, quyền thụ hưởng các thành tựu của tiến bộ xã hội. Trong điều
kiện sống đa dạng với những thuận lợi, khó khăn khác nhau của các cá
nhân, việc học không phải thường xuyên đến trường, chịu sự quản thúc
nghiêm ngặt, tách rời công việc hay từ bỏ vị trí đang đảm nhiệm trong
công sở, không cố dịnh hoặc thụ động về thời gian; tự do hoài nghi khoa
học, trao đổi, tranh luận, phản biện trên các diễn đàn, có cơ hội được
đánh giá năng lực khách quan, rộng rãi hơn, tự do sử dụng thành tựu
khoa học công nghệ để học tập, lĩnh hội tri thức đa chiều, toàn diện,…
là những ưu điểm mà OE, OER mang lại giúp người học thuận lợi, hứng
thú, tự chủ, tự chịu trách nhiệm khi tham gia một chương trình, khóa
học ở bậc đại học. Như vậy, với mô hình OE, OER người học được bảo
đảm và phát huy vai trò là chủ thể quyền, chủ động tiếp cận, thụ hưởng
giáo dục đại học.
4. OE, OER đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc giúp các
nhóm dễ bị tổn thương trong xã hội tiếp cận, làm chủ công nghệ thông
tin, truyền thông nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, khắc phục sự bất
bình đẳng giới, chống phân biệt đối xử và kỳ thị trong giáo dục. Mặc
dù nhu cầu của mỗi cá nhân đều quan trọng như nhau, pháp luật quốc
gia và quốc tế đều thừa nhận quyền bình đẳng trong giáo dục của mọi
thành viên xã hội nhưng với cách thức tổ chức giáo dục hiện nay ở Việt
Nam sự bất bình đẳng giới, phân biệt đối xử rất dễ dàng xảy ra trong
- PHẦN 1. TIẾP CẬN GIÁO DỤC MỞ VÀ TÀI NGUYÊN GIÁO DỤC MỞ 35
hoạt động giáo dục thường ngày. Các trường đại học tuy không có quy
định nào cản trở phụ nữ tham gia các khóa đào tạo nhưng cách thức
tổ chức giáo dục lại khiến nhóm dễ bị tổn thương khó khăn trong việc
học tập do đặc điểm về điều kiện sống, tình trạng hôn nhân, sức khỏe,
chức năng vai trò trong gia đình mà họ phải đảm nhiệm. Giáo dục với
ý nghĩa là quyền con người gắn với mỗi cá nhân cụ thể luôn đòi hỏi tất
cả các chủ thể xã hội phải có nghĩa vụ tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm, thúc
đẩy thực hiện thông qua cách thức tổ chức thực thi các hoạt động cụ thể.
Phát triển OE, OER ở bậc đại học là rất cần thiết giúp giáo dục đến được
với phụ nữ, phụ nữ thuận tiện, dễ dàng hơn trong việc thụ hưởng giáo
dục. Phụ nữ sẽ tiết kiệm, tranh thủ tận dụng được thời gian để tiếp cận
tri thức mà vẫn đảm nhiệm tốt vai trò đối với gia đình. Phụ nữ có thai,
nuôi con nhỏ, phụ nữ vùng nông thôn… sẽ không bị gián đoạn hay từ bỏ
cơ hội học tập do phải thực hiện thiên chức của mình, do điều kiện kinh
tế, địa lý, tâm lý xã hội, tập quán lạc hậu của địa phương. Ở Việt Nam
hiện nay, nữ trí thức phân bố không đồng đều, có sự phân hóa về trình
độ, càng lên trình độ cao sự chênh lệch về giới càng rõ rệt. OE, OER sẽ
giúp hạn chế tình trạng này. Được tiếp cận với giáo dục đại học có chất
lượng tốt, năng lực, kỹ năng, giá trị, thái độ của phụ nữ sẽ chuyển biến
tích cực giúp họ đủ khả năng tự chống lại sự phân biệt đối xử và bất
bình đẳng cho chính bản thân cũng như những người xung quanh. Phát
huy tốt vai trò, năng lực bản thân là cơ sở để phụ nữ được xã hội và các
thành viên trong gia đình đánh giá đúng về vị thế, giá trị, có thái độ,
hành vi chuẩn mực trong ứng xử với phụ nữ đưa tới sự chuyển biến tích
cực về bình đẳng giới, loại bỏ dần sự phân biệt đối xử. Tương tự, đối với
người khuyết tật, người đồng tính, lưỡng tính, chuyển giới, người mới
ra tù, người nhiễm HIV, người di cư… OE, OER cũng thiết thực góp
phần xóa bỏ những rào cản về môi trường, thái độ gây phương hại đến
sự tham gia đầy đủ, hữu hiệu của họ vào xã hội trên cơ sở bình đẳng với
những người khác [dẫn theo 5, tr.251]1 để họ hưởng trọn vẹn các quyền
và tự do cơ bản của con người, tham gia hoàn toàn vào xã hội giúp họ ý
1 (Xem: Đoạn 5 Lời nói đầu Công ước về quyền của những người khuyết tật, 2007).
- 36 XÂY DỰNG VÀ KHAI THÁC TÀI NGUYÊN GIÁO DỤC MỞ
thức gắn bó, góp phần đáng kể cho sự phát triển xã hội đặc biệt là công
cuộc xóa đói giảm nghèo [dẫn theo 5, tr. 252]1.
5. OE, OER thúc đẩy một nền giáo dục thực học ở bậc đại học,
khắc phục các nhược điểm của giáo dục truyền thống, của cả người dạy
lẫn người học. Thực chất nhiệm vụ của giáo dục đại học không phải là
đào tạo ra những người có bằng đại học mà là đào tạo ra những người
lao động có trình độ tay nghề, năng lực nghề nghiệp ở cấp độ - trình độ
đại học (level; not certificate). OE, OER sẽ nâng cao chất lượng tự học
tránh được bệnh thành tích trong giáo dục, khắc phục những hạn chế
của giáo dục truyền thống. OE, OER mở rộng cơ hội đánh giá và tiếp
cận tri thức của người học, giúp người học biết được, xác định được
ngay từ đầu mình phải học cái gì, học như thế nào, chủ động về thời
gian, lộ trình hay các khóa học. OE, OER giúp các cá nhân chủ động
tiếp cận với giáo dục, chủ động khắc phục khó khăn để thụ hưởng giáo
dục bằng cách học bất cứ nơi đâu, học bất cứ khi nào, học bất cứ ai và
ở bất cứ độ tuổi nào. Với cách thức tổ chức của mình OE, OER đã tạo
ra một nền giáo dục thực học cho quốc gia: người học được thỏa mãn
nhu cầu thực sự trong học tập, chịu trách nhiệm thực sự về việc học tập,
tận dụng được mọi cơ hội để học tập; còn giáo dục thực sự hướng đến
người học. Từ đó có thể hiểu, thực học mà OE, OER hướng đến có nội
hàm là: (1) Dựa trên và đáp ứng nhu cầu, quyền lợi thực sự; (2) Tạo ra
năng lực, sự phát triển toàn diện thực sự; (3) Tạo hiệu quả bền vững
thực sự đối với cá nhân, cộng đồng, xã hội. OE, OER với mô hình, tính
chất của nó gắn liền với bốn cột trụ - nguyên tắc giáo dục mà UNESCO
đã đưa ra: học để biết, học để làm việc, để chung sống và để tồn tại.
6. OE, OER giúp khắc phục tham nhũng, quan liêu trong giáo dục,
thúc đẩy trách nhiệm của người dạy gắn liền với sự tự ý thức nâng cao
năng lực, trình độ của người dạy. OE, OER tạo ra sự giao thoa, chuyển
đổi vị trí, vai trò của người dạy và người học, dịch chuyển phương
pháp, tư duy giáo dục từ chỗ: giảng viên truyền thụ, chỉ bảo sang đồng
hành cùng sinh viên, được sinh viên đồng hành, hỗ trợ cùng để thúc đẩy
chất lượng giáo dục. Người học cũng được là một người thầy, người
1 (Xem: Đoạn 13 Lời nói đầu Công ước về quyền của những người khuyết tật, 2007).
- PHẦN 1. TIẾP CẬN GIÁO DỤC MỞ VÀ TÀI NGUYÊN GIÁO DỤC MỞ 37
thầy cũng được bồi đắp tri thức, được học ngay trong quá trình dạy. Nhờ
đó, đảm bảo tính mở, tính hiện đại của giáo dục, khắc phục sự lạc hậu
về tri thức, phương pháp của người dạy và người học.
7. OE, OER làm tăng hiệu quả kinh tế - xã hội, giảm chi phí học
tập cho sinh viên nghèo. Giáo dục là hoạt động đầu tư cho tương lai
nhưng để đạt được chất lượng thực sự đòi hỏi sự chi phí không hề nhỏ
ở hiện tại. Với điều kiện kinh tế của Việt Nam hiện nay, thu nhập bình
quân đầu người còn thấp, chính phủ, các cơ sở giáo dục đại học và
người dân rất khó khăn trong việc đầu tư, huy động, đóng góp tài chính
phục vụ cho việc xây dựng hạ tầng cơ sở, trường lớp, nhà ở giáo viên,
ký túc xá sinh viên, mua sắm trang thiết bị, đào tạo nguồn nhân lực…
cùng các chi phí khác liên tục phát sinh trong hoạt động giáo dục hàng
ngày. Với OE, OER chắc chắn sẽ giảm đáng kể gánh nặng tài chính
chi phí cho các khoản đầu tư nói trên. Nhờ đó, có thể tăng sự đầu tư
về hàm lượng chất xám, phát triển, ứng dụng công nghệ vào giáo dục,
tăng lương giáo viên, thúc đẩy hoạt động nghiên cứu khoa học và hợp
tác quốc tế, mở rộng sự hỗ trợ người dân vùng sâu, vùng xa, vùng biên
giới, hải đảo, vùng dân tộc thiểu số, vùng kinh tế khó khăn để họ có thể
tiếp cận với OE, OER ở bậc đại học (ví dụ: xây dựng các trung tâm,
các đội ngũ giáo viên trực tiếp hướng dẫn người dân sử dụng công nghệ
để tiếp cận giáo dục, hỗ trợ sinh viên thiết bị học tập…). Rõ ràng OE,
OER đem lại hiệu quả lớn về kinh tế trong việc đầu tư, chi phí cho giáo
dục đồng thời thúc đẩy việc tiếp cận giáo dục đại học của người dân dễ
dàng, thuận tiện, chất lượng hơn rất nhiều so với mô hình, cách thức tổ
chức giáo dục đại học truyền thống.
8. OE, OER tạo ra quy luật cạnh tranh mở trong giáo dục và môi
trường giáo dục vĩ mô. Hoạt động giáo dục luôn có tính lan truyền và
hiệu ứng xã hội. Nó tác động tới cuộc sống đồng thời bị chi phối bởi xu
thế, khuynh hướng phát triển, nhu cầu của đời sống xã hội nên giáo dục
phải thích nghi với cuộc sống, không tách rời và phục vụ cuộc sống. Vì
thế, để đáp ứng nhu cầu học tập đa dạng của các thành viên trong xã hội,
các trường đại học phải tham gia vào quy luật cạnh tranh mở - phải liên
kết, hợp tác với nhau để cung ứng dịch vụ giáo dục, sản xuất chương
trình giáo dục, tiến hành nghiên cứu khoa học hay khảo thí, đánh giá
- 38 XÂY DỰNG VÀ KHAI THÁC TÀI NGUYÊN GIÁO DỤC MỞ
chất lượng nhằm phát huy thế mạnh, khắc phục hạn chế, tạo thuận lợi
cho người học để thu hút người học. Rõ ràng, OE, OER tạo ra sự cạnh
tranh lành mạnh cùng mối liên kết chặt chẽ giữa các trường đại học, tạo
ra môi trường giáo dục vĩ mô, thúc đẩy quy luật đào thải và chọn lọc
trong giáo dục. Giáo dục đại học của Việt Nam theo kiểu truyền thống
khép kín không thúc đẩy hiệu quả quá trình này nên lạc hậu so với khu
vực và quốc tế, chưa đáp ứng được quyền lợi của cả người dạy lẫn
người học, không tạo được tính đồng thuận xã hội.
9. OE, OER tạo sự liên kết giữa các cơ sở giáo dục với các doanh
nghiệp, tập đoàn, mọi thành viên trong xã hội có khả năng, nhu cầu
đóng góp trí lực, vật lực phát triển giáo dục. Với sự hỗ trợ của khoa
học công nghệ OE, OER vừa làm gia tăng số lượng các cá nhân được
tiếp cận với giáo dục đại học vừa làm tăng tính kết nối, chất lượng, số
lượng các cá nhân tham gia vào hoạt động cung ứng, phát triển giáo
dục. Người dạy ngoài các giáo viên trong trường còn có thể là nhóm,
tổ chức hay bất cứ cá nhân nào dù không có bằng cấp hay nghiệp vụ sư
phạm nhưng có kinh nghiệm, kiến thức trong lĩnh vực, nội dung người
học cần tiếp cận, có nhu cầu hấp thụ (ví dụ: chủ trang trại, nông dân
giỏi, thợ cơ khí tay nghề cao, nghệ nhân, đầu bếp, thương nhân, doanh
nhân, luật sư,…). Các doanh nghiệp cũng có thể trực tiếp cung cấp kiến
thức, kỹ năng cho sinh viên thông qua tham gia vào OE, OER. Đây là
mô hình mà các quốc gia trên thế giới đã làm giúp người học được tiếp
cận, hấp thụ, truyền giảng tri thức khoa học, khách quan, chân thực từ
những người thầy giàu kinh nghiệm thực tiễn. Nhờ đó, người học được
đến gần hơn, sát thực hơn với thực tiễn lao động sản xuất và đời sống xã
hội gắn liền với sự hiểu biết, các kỹ năng nghề nghiệp đang cần có, phải
có để đáp ứng đúng yêu cầu của nghề nghiệp, khắc phục tính lý thuyết
suông của giáo dục truyền thống.
10. OE, OER thúc đẩy và đảm bảo tính minh bạch trong giáo dục
đại học thông qua cơ chế giám sát mở nhờ đó huy động được sự chung
tay phát triển giáo dục của mọi chủ thể xã hội, bảo đảm ngày càng tốt
hơn quyền, lợi ích chính đáng của người học, tính hữu ích của quá trình
giáo dục. Đây là cơ sở để triết lý hành dụng và nhân văn về giáo dục sẽ
được thống nhất trên thực tế khắp cả nước “khắc phục tình trạng con
- PHẦN 1. TIẾP CẬN GIÁO DỤC MỞ VÀ TÀI NGUYÊN GIÁO DỤC MỞ 39
người không dồn tình cảm và trí tuệ vào công việc của mình” [3, tr.260]
khi tham gia hoạt động giáo dục. Các quốc gia trên thế giới có nền giáo
dục phát triển đều thực tiễn hóa và thống nhất về triết lý giáo dục nên
giáo dục của họ được xã hội chấp nhận vì đáp ứng được nhu cầu của xã
hội và người học.
11. Việc phát triển OE, OER ở bậc đại học chính là sự nội luật hóa,
thực tiễn hóa pháp luật quốc tế về quyền con người trong giáo dục được
đề cập tới tại nhiều văn kiện pháp lý quan trọng như: Hiến chương Liên
hợp quốc, 1945; Tuyên ngôn Toàn thế giới về quyền con người, 1948;
Công ước về chống phân biệt đối xử trong giáo dục, 1960; Công ước
quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa, 1966; Tuyên bố về xóa
bỏ sự phân biệt đối xử với phụ nữ, 1967; Tuyên bố về phát triển và tiến
bộ xã hội, 1969; Tuyên bố về quyền của người khuyết tật, 1975; Công
ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử chống lại phụ nữ, 1979;
Tuyên bố về quyền phát triển, 1986; Công ước quốc tế về bảo vệ quyền
của tất cả những người lao động di trú và các thành viên gia đình họ,
1990; Những quy tắc tiêu chuẩn về bình đẳng cơ hội cho người khuyết
tật, 1993; Công ước về quyền người khuyết tật, 2007…
12. Phát triển OE, OER tại Việt Nam là tiếp tục chiến lược giáo
dục được Chủ tịch Hồ Chí Minh gợi mở, định hướng và Đảng Cộng sản
Việt Nam tiến hành trong suốt thời gian qua, đặc biệt được nhấn mạnh
trong giai đoạn hiện nay. Trong đánh giá tổng quát kết quả thực hiện
Nghị quyết Đại hội XI và nhìn lại 30 năm đổi mới, Nghị quyết Đại hội
Đại biểu toàn quốc lần thứ XII Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ ra còn
“nhiều hạn chế, yếu kém trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo, khoa học
và công nghệ, văn hoá, xã hội chậm được khắc phục. Đời sống của một
bộ phận nhân dân, nhất là ở vùng sâu, vùng xa còn nhiều khó khăn” [1].
Từ đó, Nghị quyết nêu rõ để đạt được các chỉ tiêu quan trọng về xã hội
đến năm 2020 với tỉ lệ lao động qua đào tạo đạt khoảng 65 - 70%, trong
đó có bằng cấp, chứng chỉ đạt 25%; tỉ lệ thất nghiệp ở khu vực thành
thị dưới 4% cần phải đặc biệt chú trọng tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực
hiện có kết quả nhiệm vụ trọng tâm thứ năm và sáu là: Thu hút, phát huy
mạnh mẽ mọi nguồn lực và sức sáng tạo của nhân dân… Phát huy nhân
tố con người trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, tập trung xây dựng
- 40 XÂY DỰNG VÀ KHAI THÁC TÀI NGUYÊN GIÁO DỤC MỞ
con người về đạo đức, nhân cách, lối sống, trí tuệ và năng lực làm việc,
xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh [1]. Để thực hiện tốt nhiệm
vụ đó, phải nâng cao dân trí, phát triển giáo dục gắn liền và dựa trên
các quan điểm, cách thức tổ chức, phương châm giáo dục hiện đại; phải
thúc đẩy, phát triển mạnh mẽ OE, OER đặc biệt là ở bậc đại học nhằm
bảo đảm quyền con người trong lĩnh vực này.
Tóm lại, phát triển OE, OER là phù hợp với thời đại, xu thế phát
triển của khoa học công nghệ, kinh tế tri thức, hội nhập, toàn cầu hóa,
quốc tế hóa gắn liền giáo dục với kinh tế để lợi ích cá nhân và xã hội
được thống nhất. Muốn cạnh tranh kinh tế thành công phải có chiến
lược phát triển nhân lực, nhân tài thông qua giáo dục. Vì thế, rất cần
phải phát triển OE, OER ở Việt Nam hiện nay.
3. TRIỂN VỌNG CỦA VIỆC PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC MỞ VÀ TÀI NGUYÊN GIÁO DỤC MỞ
TRONG VIỆC NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC ĐẠI HỌC, BẢO ĐẢM QUYỀN TIẾP CẬN,
THỤ HƯỞNG GIÁO DỤC ĐẠI HỌC Ở VIỆT NAM
Bàn về vai trò của giáo dục đối với xã hội, nhà triết học – giáo dục
người Mỹ, Jonh Dewey cho rằng: Nhà trường có khả năng tạo ra thay
đổi xã hội. Có thể tạo ra trong nhà trường một kế hoạch về kiểu xã hội
mà chúng ta mong muốn [dẫn theo 3, tr.260]. Dưới góc độ triết học giáo
dục, quản lý giáo dục, phát triển nhân lực, pháp luật và nhân quyền về
giáo dục, căn cứ vào những ưu điểm của OE, OER giúp chúng ta thấy
được những triển vọng cơ bản sau đây:
- Trình độ dân trí, chất lượng nguồn nhân lực được nâng cao, kinh
tế phát triển, chênh lệch giàu nghèo giảm, tình trạng mất cân đối giữa
sự phát triển kinh tế với sự phát triển văn hóa – giáo dục của một số tỉnh
sẽ được khắc phục (ví dụ: tỉnh Quảng Ninh, Lạng Sơn).
- OE, OER không chỉ là văn minh vật chất mà còn là văn minh tinh
thần, văn minh tổ chức. Phát triển OE, OER chính là “nâng cao trình độ
sinh hoạt văn minh vật chất” [4, tr.101] trong hoạt động giáo dục ở Việt
Nam. Thông qua việc bảo đảm quyền tiếp cận, thụ hưởng giáo dục đại
học, OE và OER sẽ góp phần nâng cao tố chất văn hóa – khoa học của
mọi thành viên tham gia vào hoạt động giáo dục và có khả năng đóng
góp cho sự phát triển giáo dục.
- PHẦN 1. TIẾP CẬN GIÁO DỤC MỞ VÀ TÀI NGUYÊN GIÁO DỤC MỞ 41
- Thông qua OE, OER người học có thể tự học để tham gia các kỳ
thi của trường đại học uy tín để lấy bằng tốt nghiệp đại học. Tuy nhiên,
cần cảnh báo rằng OE, OER cũng có thể khiến người học bị phụ thuộc,
chi phối, hoang mang choáng ngợp bởi sự đa dạng, phong phú, hiện đại
của nó. Người học có thể không phát huy được sự độc lập, sáng tạo, chủ
động, tự do tư duy, phản biện.
- Thông qua việc kết nối cá nhân với xã hội, giáo dục với lao động
trong quá trình đào tạo, OE và OER góp phần chống nạn thất nghiệp
mà người học có khả năng phải đối mặt sau khi hoàn thành khóa đào
tạo đại học.
- OE, OER không chỉ nâng cao chất lượng giáo dục đại học mà còn thúc
đẩy chất lượng và sự minh bạch trong toàn hệ thống giáo dục nói chung.
- OE, OER mở ra xu hướng thu hút du học sinh từ các nước khác
đến Việt Nam học tập; giúp cho học sinh, sinh viên Việt Nam có thể đạt
được trình độ quốc tế khi học tập tại Việt Nam.
- OE, OER góp phần quan trọng vào việc khác phục tình trạng chảy
máu chất xám do cải thiện được môi trường, điều kiện làm việc cho các
nhà khoa học cống hiến trong các lĩnh vực khoa học và giáo dục, kể cả
“cống hiến từ xa” khi họ đang sinh sống, làm việc ở nước ngoài.
- OE, OER mở ra cơ hội dịch chuyển các trung tâm giáo dục (trường)
đại học từ vùng đô thị về vùng nông thôn hoặc vùng dân tộc thiểu số, mở
rộng thiết thực, hiệu quả cơ hội, quyền tiếp cận, thụ hưởng giáo dục đại
học cho bất cứ ai có khả năng mà không bị cản trở bởi điều kiện kinh tế,
địa lý, phong tục tập quán, tình trạng sức khỏe, tuổi tác, hôn nhân, hay cơ
sở vật chất, chỉ tiêu tuyển sinh của các trường đại học…
4. KẾT LUẬN
Giáo dục là cơ sở, động lực của mọi tiến trình phát triển xã hội. Vì
thế, mọi hoạt động giáo dục phải vì con người, hướng về con người,
con người phải là trung tâm, mục tiêu của sự phát triển giáo dục, vừa là
đối tượng vừa là chủ thể của hoạt động giáo dục [6, tr.14]. Để giáo dục
đại học đến được với mọi người, mọi người luôn có cơ hội tiếp cận, thụ
hưởng giáo dục theo khả năng đòi hỏi phải tổ chức, phát triển một nền
- 42 XÂY DỰNG VÀ KHAI THÁC TÀI NGUYÊN GIÁO DỤC MỞ
giáo dục đại học thực sự vì mọi người, cho mọi người và giáo dục suốt
đời để hoàn thiện bản thân giúp mỗi cá nhân đều có thể làm việc, chung
sống, tồn tại cùng cộng đồng, xã hội. Phát triển OE, OER chính là yêu
cầu, phương thức giúp giáo dục đại học đáp ứng được các yêu cầu đó.
Để bảo đảm quyền tiếp cận, thụ hưởng giáo dục đại học cần tiến
hành hàng loạt các giải pháp, công việc đồng bộ, rộng khắp với mọi chủ
thể có liên quan góp phần tác động trực tiếp hoặc gián tiếp tới việc phát
triển OE, OER. Chẳng hạn:
- Chính phủ, các cơ quan hữu quan từ Trung ương đến địa phương
phải rà soát lại để hoàn thiện các quy định pháp luật nhằm thúc đẩy việc
phát triển OE, OER. Chính phủ phải quản lý vĩ mô, tiến hành kiểm định
chất lượng giáo dục đại học của quốc gia dựa trên các tiêu chuẩn quốc tế,
thúc đẩy quan hệ hợp tác quốc tế trong việc phát triển OE, OER, không can
thiệp sâu vào hoạt động tổ chức giáo dục của các cơ sở đào tạo đại học khi
không có khảo sát đánh giá hay phản hồi tiêu cực từ phía cộng đồng.
- Phải có quy định pháp luật cụ thể về trách nhiệm hợp tác, liên
kết chặt chẽ giữa các cơ sở giáo dục đại học với nhau và với các doanh
nghiệp, cơ sở sản xuất, các thành viên trong xã hội, tổ chức, nhà tài trợ…
để cùng phân công, phối hợp, hỗ trợ nhau trong giảng dạy lý thuyết, thực
hành, truyền đạt kinh nghiệm, kỹ năng nghề nghiệp qua mô hình OE,
OER cũng như phát triển OE, OER và cung cấp, tài trợ trang thiết bị học
tập cho người học. Sự hợp tác này càng chu đáo, sát thực bao nhiêu, hiệu
quả của việc bảo đảm quyền tiếp cận, thụ hưởng giáo dục đại học càng
cao bấy nhiêu, góp phần quan trọng vào việc chống lại nạn thất nghiệp
cho người học ngay từ giai đoạn đào tạo nghề. Doanh nghiệp, cơ sở sản
xuất phải là môi trường đào tạo, thực hành nghề nghiệp, cung cấp nguồn
học liệu chuẩn xác cho người học. Yêu cầu này không chỉ được đặt ra với
doanh nghiệp trong nước mà còn phải được đặt ra đối với doanh nghiệp
nước ngoài đang kinh doanh, sản xuất tại Việt Nam hoặc sử dụng nguồn
nhân lực là người Việt Nam [2, tr.254]. Cần thắt chặt mối liên hệ giữa các
thành viên xã hội, bằng cách tạo ra nhiều trường hợp để con người hợp
tác với nhau, có ý thức rõ rệt hơn về lợi ích của sự hợp tác ấy đối với mỗi
thành viên riêng rẽ [7, 645].
- PHẦN 1. TIẾP CẬN GIÁO DỤC MỞ VÀ TÀI NGUYÊN GIÁO DỤC MỞ 43
- Các giảng viên, sinh viên đại học vừa là chủ thể chịu sự tác động
trực tiếp từ OE, OER vừa là chủ thể tác động chủ yếu ngược trở lại
đối với sự phát triển của mô hình này. Một mặt, phải đảm bảo cho họ
quyền tự do nghiên cứu khoa học, tự do học tập, truyền thụ tri thức, tự
do ngôn luận và tiếp cận thông tin, tự do ứng dụng thành tựu khoa học
công nghệ vào hoạt động giáo dục… Mặt khác, phải tổ chức các khóa
học ngắn hạn cung cấp kiến thức cơ bản về OE, OER, truyền đạt trực
tiếp, đầy đủ cho họ về các quyền, nghĩa vụ cụ thể liên quan tới việc tiếp
cận, thụ hưởng, phát triển OE, OER để họ có những đóng góp tích cực,
thích nghi, làm chủ với OE, OER cũng như thúc đẩy tiến trình hội nhập
của giáo dục Việt Nam với giáo dục thế giới.
- Trung tâm học liệu quốc gia, hệ thống thư viện các cơ sở đào tạo
đại học phải không ngừng áp dụng khoa học công nghệ vào xử lý, kết
nối, truyền tải nguồn học liệu, nâng cao năng lực nghiệp vụ nhằm bảo
đảm cho người dạy, người học, người cung cấp nguồn học liệu được
thuận lợi, dễ dàng nhất./.
TÀI LIỆU TRÍCH DẪN
1. Đảng Cộng sản Việt Nam. 2016. “Nghị quyết Đại hội Đại biểu Toàn
quốc lần thứ XII.” Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam (http://
dangcongsan.vn/tu-lieu-van-kien/van-kien-dang/van-kien-dai-hoi/khoa-
xii/doc-031720169331046.html) Truy cập tháng 8 năm 2016.
2. Tạ Thị Thu Đông. 2016. “Bảo vệ quyền làm việc của người lao động
trước ảnh hưởng của các hiệp định thương mại tự do.” tr.244 - 256 trong
sách Ảnh hưởng của thương mại tự do đến nhân quyền, đồng chủ biên Lê
Thị Hoài Thu - Vũ Công Giao. Hà Nội, Nxb. Hồng Đức.
3. Phạm Minh Hạc. 2013. Triết lý giáo dục thế giới và Việt Nam. Hà Nội,
Nxb. Chính trị quốc gia.
4. Lương Vị Hùng, Khổng Thanh Hoa. 2008. Triết học giáo dục hiện đại.
Bùi Đức Thiệp dịch. Hà Nội, Nxb. Chính trị Quốc gia.
5. Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội. 2011. Giới thiệu các văn kiện
quốc tế về quyền con người. Hà Nội, Nxb Lao động - Xã hội.
nguon tai.lieu . vn