Xem mẫu

  1. Chương 4 PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP TRONG CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÊN THẾ GIỚI 4.1. Tổng quan về phát triển doanh nghiệp trong đại học trên thế giới Phát triển doanh nghiệp và mô hình hoạt động trong các trường đại học theo hướng “đại học doanh nghiệp” đã được đề cập và quan tâm nhiều hơn trong hàng chục thập kỷ qua tại nhiều quốc gia trên thế giới. Trong thực tiễn, ý tưởng liên kết giữa đại học - doanh nghiệp, coi trường đại học có sứ mệnh hỗ trợ phát triển ngành công nghiệp đã được đề xướng kể từ đầu thế kỷ 19 bởi nhà triết học người Đức Willhelm Humboldt. Năm 1810, ông sáng lập Trường Đại học Berlin với điểm khác biệt so với các trường đại học khi đó là chuyển trọng tâm sang nghiên cứu, đặc biệt phát triển các lĩnh vực công nghệ phục vụ cho mục đích dân sự và mục đích quân sự (Đinh Văn Toàn, 2016)1. Bàn luận về phát triển doanh nghiệp nói chung và trong các trường đại học nói riêng, cho đến nay còn có sự tập trung vào phát triển doanh nghiệp trong các điều kiện có sẵn của tổ chức chứ không chỉ là việc tạo ra các doanh nghiệp mới. Do vậy, PTDN còn nói về quá trình khởi nghiệp kinh doanh - tức là các thời kỳ gieo hạt, khởi động, phát triển của các doanh nghiệp (Reynolds, 2000; Reynolds và cộng sự, 2001)2. Đặc biệt là đối với các trường ĐH, nơi mà các điều kiện 1 Đinh Văn Toàn (2016), “Hợp tác đại học – doanh nghiệp trên thế giới và một số gợi ý cho Việt Nam”, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Chuyên san Kinh tế và kinh doanh, Vol. 32, số 4, 2016, tr. 32-44. 2 Reynolds, P.D. và các cộng sự (2000, 2001), “Global Entreprenuership Monitor Executive Report, Bsiness Council for the United Nations”, http://unpan1.un.org/intra doc/groups/public/documents/un/unpan002481.pdf.
  2. 118 PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP TRONG CÁC CƠ SỞ GIÁO DỤC ĐẠI HỌC... cho khởi nghiệp và yếu tố nền tảng cho PTDN đang ngày càng có triển vọng và thuận lợi. Ngoài một số quốc gia tiêu biểu có hoạt động PTDN trong trường ĐH mạnh mẽ như Mỹ, Anh, một số quốc gia ở châu Âu và châu Á cũng đã thành lập các công ty do nhà trường sở hữu một phần hoặc toàn bộ để đầu tư nghiên cứu, thí nghiệm, sản xuất thử và thương mại hóa kết quả, sản phẩm KHCN (Đinh Văn Toàn, 2016)1. Mỗi quốc gia này đều có những chính sách hỗ trợ và các cơ chế khác nhau nhưng đều nhằm mục tiêu thúc đẩy sự ra đời và phát triển các doanh nghiệp trong trường đại học. 4.1.1. Phát triển doanh nghiệp trong đại học tại các quốc gia châu Âu Vương Quốc Anh: Tại Vương quốc Anh, ở nhiều CSGDĐH danh tiếng thế giới như: ĐH Oxford, ĐH Cambridge, ĐH London Metropolitan, ĐH Birmingham, ĐH Manchester, ĐH Cardiff, Trường Kinh doanh London... đều có các doanh nghiệp bên trong hoặc liên kết để giúp các đại học thực hiện tốt các nhiệm vụ của mình. Trong giai đoạn từ 1997 đến 2000, trung bình có 95 doanh nghiệp Spin-offs được hình thành. Con số này là 248 vào năm 2001 nhưng sau đó có sự giảm nhẹ khoảng 2% từ đó cho đến năm 2006. Trong giai đoạn 2001 – 2006, số lượng các bằng sáng chế tăng 130% và số các thỏa thuận cấp giấy phép tăng 271%, trong đó đã có 26 doanh nghiệp Spin-offs tham gia thị trường chứng khoán bằng cách chào bán cổ phần ra công chúng (IPO) tạo ra hiện tượng nổi bật trên thị trường chứng khoán với tổng giá trị của doanh nghiệp vượt qua con số 1,3 tỷ Bảng Anh. Bảng 4.1 sau đây sẽ cho thấy xu hướng phát triển doanh nghiệp trong đại học tại Anh giai đoạn 1997 - 2006. 1 Đinh Văn Toàn (2016), “Hợp tác đại học – doanh nghiệp trên thế giới và một số gợi ý cho Việt Nam”, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Chuyên san Kinh tế và kinh doanh, Vol. 32, số 4, 2016, tr. 32-44.
  3. Chương 4. PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP TRONG CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÊN THẾ GIỚI 119 Bảng 4.1: Phát triển doanh nghiệp trong đại học tại Vương quốc Anh 1997 - 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2000 Số công ty Spin-offs 380 248 213 197 161 148 187 Số bằng sáng chế N/A 250 198 377 463 711 576 Số thỏa thuận cấp N/A 728 615 758 2,256 2,099 2,699 giấy phép Số IPO của cácSpin-offs N/A N/A 1 1 10 10 4 Giá trị IPO (triệu Bảng) N/A N/A N/A 214 604 204 246 (Nguồn: Wright và cộng sự, 20091) Theo thống kê từ Hội đồng Tài trợ giáo dục đại học Anh Quốc (HEFCE), các trường đại học đã đóng góp 3,3 tỉ Bảng Anh (khoảng 5,6 tỉ USD tại thời điểm thống kê) cho nền kinh tế của quốc gia này trong năm 2010-2011, trong đó lợi nhuận từ các công ty Spin-offs (năm 2010 có gần 1.300 công ty) mới thành lập là 2,1 tỉ Bảng Anh (tương đương 3,5 tỉ USD) và tạo ra 18.000 việc làm. Tính trung bình, cứ mỗi 24 triệu Bảng Anh đầu tư có khả năng tạo ra một công ty Spin- offs trong các năm này. Lawton Smith và Ho (2006)2 khi phân tích kết quả hoạt động của các công ty Spin-offs tại Anh đã chỉ ra rằng sự phát triển nhanh chóng số lượng các công ty này là do sự thay đổi trong chính sách của chính phủ. Một trong những thay đổi có tác động lớn đến các trường đại học là sự thay đổi về chính sách tài trợ chi phí hoạt động thường xuyên, phi tập trung hóa trong nhà trường, đồng thời thúc đẩy chuyển giao 1 Wright M., Piva E., Mosey S., Lockett A. (2009), “Academic Entrepreneurship and Business Schools”, Journal of Technology Transfer, Vol. 34, pp. 560 – 587. 2 Smith, H.L. và Ho, K. (2016), “Measuring the performance of Oxford University, Oxford Brookes University and the government laboratories' spin-off companies”, Science Direct.
  4. 120 PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP TRONG CÁC CƠ SỞ GIÁO DỤC ĐẠI HỌC... quyền sáng chế. Về cơ bản, Bộ Khoa học và Công nghệ cũng như HEFCE tài trợ cho các chi phí hoạt động chủ yếu của các trường đại học, nhưng thúc đẩy sự thành lập các doanh nghiệp trong trường đại học. Sự thúc đẩy mạnh mẽ này nhờ việc ban hành Đạo luật về Sở hữu sáng chế vào năm 1997 của Chính phủ Anh. Theo đó, cho phép quyền sở hữu các phát minh/sáng chế của người lao động trong công ty sẽ thuộc về chủ sở hữu công ty khi trong hợp đồng có ghi điều khoản này. Như vậy, việc tạo ra các công ty Spin-offs đã được phi tập trung hóa và các trường đại học được chủ động đàm phán với người lao động khi thành lập doanh nghiệp về vấn đề sở hữu trí tuệ. Bên cạnh đó, Chính phủ Anh cũng có những sáng kiến để thúc đẩy sự phát triển doanh nghiệp trong trường đại học. Chẳng hạn như năm 1998, một quỹ được gọi là Quỹ “Thử thách Đại học” (UCF) đã được thành lập để thu hẹp khoảng cách giữa nghiên cứu cơ bản và đầu tư của khu vực tư nhân, đặc biệt thông qua việc tài trợ cho thực hiện các nghiên cứu kiểm chứng khái niệm và phát triển mẫu sản phẩm để sau đó khuyến khích các quỹ tư nhân tiếp tục đầu tư (Wright và cộng sự, 2004)1. Năm 1999, Tổ chức “Thử thách doanh nghiệp khoa học” (SEC) được thành lập để tài trợ cho các giảng viên đại học và hỗ trợ cho việc hình thành một mạng lưới các trung tâm tại các trường đại học. Các tài trợ tập trung vào việc kết nối các hoạt động giảng dạy, thương mại hóa các kết quả nghiên cứu, phát triển doanh nghiệp trong lĩnh vực khoa học công nghệ. Các mục tiêu chủ yếu củaviệc vận hành SEC là giúp các nhà khoa học, các kỹ sư ở mọi cấp bậc trình độ, bao gồm cả sinh viên hình thành ý tưởng mong muốn tạo lập công ty Spin- offs. Quỹ SEC cũng đóng vai trò quan trọng trong việc kết nối những người khởi nghiệp tiềm năng với các quỹ ươm mầm, các nhà đầu tư mạo hiểm, các quỹ “chắp cánh doanh nghiệp” hay các công viên khoa học, đồng thời tạo lập mối liên kết với các ngành công nghiệp thông qua cơ chế tư vấn, tài trợ các cuộc thi lập kế hoạch kinh doanh, 1 Wright M., Birley S., Mosey S. (2004), “Entrepreneurship and University Technology Transfer”, Journal of Technology Transfer, 29, 235–246.
  5. Chương 4. PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP TRONG CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÊN THẾ GIỚI 121 các hội thảo, v.v. Bên cạnh đó, trong một số trường hợp các trường đại học còn thành lập các văn phòng chuyển giao công nghệ - OTT (Wright và cộng sự, 2004)1. Thành lập vào năm 2000, Quỹ Sáng tạo trong giáo dục đại học (HEIF) của Anh cung cấp các nguồn tài trợ sự phát triển của các văn phòng liên kết trường đại học với ngành công nghiệp, thúc đẩy thương mại hóa các kết quả nghiên cứu, hỗ trợ ươm mầm doanh nghiệp và cung cấp tư vấn về kinh doanh. Trong giai đoạn 2004 - 2006, quỹ này đã thống nhất các sáng kiến của SEC và UCF để giải quyết các vấn đề liên quan đến phát triển đại học trong doanh nghiệp và kết quả là rất nhiều OTT ra đời. Trong năm 2005, Chương trình Học giả Medici được triển khai nhằm phát triển mối liên kết giữa các nhà khoa học và doanh nhân (những người mà vốn trước đây không nói cùng một ngôn ngữ). Sáng kiến này cung cấp việc trao đổi 50 học giả mỗi năm giữa 5 CSGDĐH trong thời gian từ tháng 9 năm 2002 đến tháng 9 năm 2004 để tăng cường việc thương mại hóa các nghiên cứu về dược - sinh học tại 5 trường đại học này. Cơ chế này đã giúp khắc phục hạn chế vốn có là sự thiếu hụt kỹ năng của các OTT tại các trường đại học do việc thiếu các hoạt động huấn luyện chuyên sâu. Cơ thế hoạt động này cũng đã cung cấp một phương pháp hình thành cầu nối giữa giới thương mại, giới hàn lâm và giới công nghiệp, qua đó việc tập huấn chuyên sâu cho các nhà khoa học được thực hiện. Nước Đức: Tại Đức, sự tham gia của các trường đại học cũng đóng vai trò quan trọng thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp. Trường hợp khu tự trị Bavaria là một ví dụ điển hình. Khu tự trị Bavaria là Bang lớn nhất trong số 16 bang của Đức với diện tích 70.549 km2 và hơn 12 triệu dân 1 Wright M., Birley S., Mosey S. (2004), “Entrepreneurship and University Technology Transfer”, Journal of Technology Transfer, 29, 235–246.
  6. 122 PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP TRONG CÁC CƠ SỞ GIÁO DỤC ĐẠI HỌC... (chiếm 15% tổng dân số nước Đức). Bavaria là một khu vực nông thôn nổi tiếng với các sản phẩm truyền thống và các điểm du lịch như bia Bavarian, quần sooc da truyền thống, Oktoberfest ở Munich, lâu đài Neuschwanstein, và dãy núi Alps. Cho đến những năm 1960, Bavaria vẫn là một bang thuần kinh tế nông nghiệp và phụ thuộc vào sự viện trợ ngân sách của chính phủ và tỷ lệ thất nghiệp luôn cao hơn tỷ lệ trung bình chung của cả nước. Nhưng sau đó Bavaria đã chuyển mình thành một trong những bang có nền kinh tế phát triển nhất nước Đức. Câu chuyện thành công của Bravia bắt đầu từ thời kỳ hậu chiến ở Đức. Do đặc trưng của vùng Bavaria là thiếu cơ sở vật chất để phát triển công nghiệp, điều này lại trở thành lợi thế của Bavaria sau Chiến tranh thế giới thứ 2 để phát triển các ngành công nghiệp mới. Một chiến lược quan trọng trong sự phát triển kinh tế tại Bavaria là hướng đi tập trung vào công nghiệp hạt nhân, vũ trụ và hàng không. Năm 1957, lò phản ứng hạt nhân đầu tiên (FRM I) được đưa vào hoạt động tại Trường Đại học Công nghệ Munich (TUM), sau đó vào năm 2004 được thay thế bằng lò phản ứng số 2 (FRM II). Chính quyền Bavaria đã phát triển một cụm công nghệ và nghiên cứu trong vành đai lò phản ứng này, thu hút và thúc đẩy sự phát triển của công nghệ thông tin, khoa học vật liệu, dược phẩm. Mạng lưới hơn 100 các doanh nghiệp nhỏ và vừa (SMEs) trong vùng tập trung sản xuất radio và hệ thống rada, máy bay và phi cơ. Hiện nay, Bavaria đã phát triển một loạt các đơn vị nghiên cứu và ươm tạo doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghệ sinh học gần Munich và Regensburg. Theo nghiên cứu của Hulsbeck và Lehmann, chính quyền khu tự trị Bavaria đã có những chính sách riêng để thu hút các doanh nhân từ vùng Trung và Tây Đức đến mở trụ sở tại đây. Bên cạnh việc sử dụng các nhân tài trong vùng, chính quyền Bavaria còn tận dụng mạng lưới quan hệ cá nhân của các chuyên gia để thu hút các doanh nghiệp. Theo đó, một đặc trưng của Bavaria là có mạng lưới quan hệ rất chặt chẽ giữa chính trị gia – doanh nhân – nhà nghiên cứu. Một đặc điểm của
  7. Chương 4. PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP TRONG CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÊN THẾ GIỚI 123 vùng Bavaria là sự phân tán về mặt địa lý của các SMEs dẫn đến những hạn chế trong đổi mới sáng tạo và chuyển giao công nghệ. Do vậy, chính quyền Bavaria đã cố gắng giải quyết vấn đề này bằng cách phân bổ ngân sách hỗ trợ cho các vùng phát triển kém hơn. Như vậy, thay vì phương pháp phân bổ bình quân thì chính sách ưu tiên phát triển theo vùng đã thúc đẩy sự tích tụ và phát triển các cụm công nghiệp và đổi mới sáng tạo với cơ sở hạ tầng nghiên cứu gồm: 26 trường đại học, viện nghiên cứu; 3 tổ chức nghiên cứu quy mô lớn; 12 trung tâm nghiên cứu cơ bản và 13 trung tâm nghiên cứu ứng dụng. Xét về các hoạt động hỗ trợ PTDN nói chung, Bavaria còn tổ chức các cuộc triển lãm công nghệ cao, nhiều hoạt động tham quan thương mại quốc tế dành cho doanh nhân hoặc các đoàn đại biểu gồm cả doanh nhân và chính trị gia. Những chính sách của chính quyền Bavaria cùng với những hoạt động này đã khai thác được thế mạnh vốn có là các mối quan hệ giữa chính quyền, các chính trị gia với các doanh nghiệp và trường đại học để phát triển mạng lưới đổi mới sáng tạo. Theo đó, các hoạt động chuyển giao công nghệ từ trường đại học sang các doanh nghiệp cũng phát triển mạnh mẽ, kéo theo sự phát triển mạnh các doanh nghiệp. Một yếu tố then chốt trong sự thành công của Bavaria phải kể đến sự sẵn có và chất lượng của nguồn nhân lực địa phương trong bối cảnh cạnh tranh trong khu vực của các ngành công nghiệp đổi mới sáng tạo. Để đáp ứng nhu cầu nhân lực chất lượng cao, chính quyền Bavaria đã tích hợp các bước đi cụ thể vào chính sách PTDN chung trong đó trước hết là vai trò của các ĐH. Trước tiên, kế hoạch tổng thể phát triển các trường đại học được điều chỉnh hướng đến mục tiêu của chính sách PTDN trong vùng. Theo đó, chính quyền Bavaria khuyến khích sự phát triển các trường ĐH khoa học ứng dụng để đáp ứng nhu cầu của các ngành công nghiệp. Ngoài ra, chính quyền địa phương còn ưu tiên hỗ trợ các chương trình trao đổi nhà khoa học trẻ. Trong giai đoạn này, có hơn 200 dự án nghiên cứu và lượt trao đổi học giả đã được tài trợ cho các trường đại học. Trong vòng 20 năm, kể từ tháng 8
  8. 124 PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP TRONG CÁC CƠ SỞ GIÁO DỤC ĐẠI HỌC... năm 1998 đến nay, đã có hơn 200 chương trình đào tạo đại học và thạc sĩ đã được triển khai kèm theo các chương trình bổ sung trình độ ngoại ngữ để thúc đẩy năng lực cạnh tranh quốc tế của các nhà khoa học được đào tạo tại Bavaria. Ngoài ra, chính quyền Bavaria còn triển khai chương trình “Mạng lưới tinh hoa Bavaria” để thúc đẩy và giúp các nhà khoa học trẻ có năng lực tốt hơn cho sự nghiệp nghiên cứu khoa học tương lai của họ. Thông qua chương trình này, có hơn 20 các khóa học tinh hoa và 10 nhóm nghiên cứu quốc tế đã được thành lập. Cũng trong các chính sách PTDN của chính quyền Bavaria, Phòng Thương mại công nghiệp đã phối hợp với các trường đại học trong nỗ lực hỗ trợ các SMEs nâng cao chất lượng nhân lực thông qua việc tổ chức mạng lưới đào tạo trong toàn vùng và cung cấp các trang thiết bị đào tạo. Sáng kiến Bayern thành lập một chi nhánh đặc biệt để đảm bảo việc triển khai đồng bộ hệ thống chương trình đào tạo trong toàn Bang. Điều này đã tạo ra sự hấp dẫn của Bavaria với các nhà đầu tư bên ngoài và thúc đẩy sự phát triển của các SMEs trong vùng. Hiện nay, Bavaria đang được thừa hưởng những thành quả từ chính sách PTDN của mình. Trong giai đoạn 10 năm từ 1994-2004, GDP thực đã tăng 21.3%. Đến năm 2004, Bavaria đã trở thành một trong 6 khu vực có sức mạnh kinh tế lớn nhất trong khối EU, chỉ sau Pháp, Anh, Ý, Tây Ban Nha và Hà Lan. Riêng về hoạt động PTDN, Bavaria có tỷ lệ khởi nghiệp cao nhất ở Đức (11.9%). Chỉ số xuất khẩu là 44.9% (so với năm 1994 là 31.9%). Kim ngạch xuất khẩu sang các quốc gia EU tăng 279% so với năm 1994. Tỷ lệ thất nghiệp thấp ở mức 6.9%, trong đó tỷ lệ thanh niên thất nghiệp chỉ ở mức 7.3%, thấp thứ nhì trong khối EU. Có thể nói, hoạt động PTDN trong trường hợp đặc thù là khu tự trị Bavaria nói riêng nhưng đã phản ánh chính sách chung của nước Đức trong việc củng cố mối quan hệ chính phủ - nhà trường - doanh nghiệp, từ đó thúc đẩy mô hình PTDN doanh nghiệp trong nhà trường.
  9. Chương 4. PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP TRONG CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÊN THẾ GIỚI 125 Chính sách PTDN tập trung, có trọng điểm đã làm nên thành công của khu tự trị Bavaria và sự phát triển của mô hình hợp tác đại học - doanh nghiệp và PTDN trong đại học ở nước Đức. Hà Lan: Trước thập niên 70, hệ thống giáo dục đại học của Hà Lan hầu như không có mối liên hệ với các ngành công nghiệp. Chính phủ không xác định nhiệm vụ của các trường đại học là phải chuyển giao công nghệ cho các doanh nghiệp. Vì vậy, các nghiên cứu khoa học đóng góp rất ít cho nền kinh tế (Leisyte, 2011)1. Tuy nhiên, bắt đầu từ năm 1979, quan điểm của chính phủ và các trường đại học bắt đầu thay đổi. Sách Trắng về nghiên cứu khoa học trong các trường đại học (gọi tắt là BUOZ) ra đời năm 1979 là dấu mốc quan trọng mở ra thời kỳ mới cho sự phát triển của các trường đại học theo xu hướng gắn kết chặt chẽ hơn với khu vực kinh doanh. Hoạt động PTDN trong các CSGDĐH tại quốc gia này diễn ra chủ yếu dưới hình thức các công ty Spin-offs do các CSGDĐH và Viện Nghiên cứu công (PRO) thành lập. Các công ty Spin-offs này chính là nơi chuyển giao công nghệ của các đơn vị nghiên cứu công và các CSGDĐH. Chỉ tính riêng trong giai đoạn 1981 đến 1998, tổng số bản quyền sáng chế được chuyển giao từ các trường đại học và viện nghiên cứu công lập sang các công ty đã tăng nhanh chóng, từ con số 4 vào năm 1981 đến con số 80 năm 1998. Tính đến năm 2001, có 64 bản quyền sáng chế được chuyển giao từ trường ĐH và 103 bản quyền sáng chế từ các viện nghiên cứu công lập. Số công ty Spin-offs tính 1 Leisyte L. (2011), “University commercialization policies and their implementation in the Netherlands and the United States”, Journal Science and public policy, Volume 38 (6), p. 437-448, https://research.utwente.nl/en/publications/university-commercialization-policies- and-their-implementation-in.
  10. 126 PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP TRONG CÁC CƠ SỞ GIÁO DỤC ĐẠI HỌC... trung bình trên 1 trường ĐH là 1.07 và tính trên 1 viện nghiên cứu là 0.67 (Bekkers và cộng sự, 2006)1. Một trong những yếu tố tạo nên quá trình PTDN sôi động trong hệ thống giáo dục đại học tại Hà Lan là các chính sách của chính phủ. Luật về sáng chế của Hà Lan đã quy định quyền sở hữu sáng chế thuộc về các trường ĐH nghiên cứu ra nó, trừ phi các bên có thoả thuận khác theo hợp đồng. Hơn nữa, các trường ĐH và viện nghiên cứu cũng được trao quyền tự chủ hoàn toàn trong việc quyết định phương thức sở hữu bản quyền sáng chế. Do vậy, thực tiễn thực hiện các hoạt động chuyển giao bằng phát minh, sáng chế tại các CSGDĐH cũng rất đa dạng (Arundel và cộng sự, 2003)2. Các trường ĐH và viện nghiên cứu cũng không bắt buộc phải công bố công khai quyền sở hữu trí tuệ đối với các kết quả nghiên cứu. Nói một cách khác, ở Hà Lan, mối liên kết đại học - ngành công nghiệp không mang tính quy trình cứng nhắc và quyền sở hữu không bị ràng buộc chặt chẽ bởi quy định pháp luật. Tuy nhiên, chính sách phát triển các công ty Spin-offs vẫn là một phần quan trọng trong chính sách đổi mới sáng tạo quốc gia. Mặc dù đã có nhiều cơ chế hình thành kể từ năm 1990 đến nay, nhưng chính sách phát triển các công ty Spin-offs vẫn được cho là thành công nhất tại Hà Lan trong việc thúc đẩy mối liên kết giữa trường ĐH với các bên liên quan khác. Để nuôi dưỡng các công ty Spin-offs phát triển, các trường ĐH đã cung cấp cơ sở vật chất, công viên ươm tạo DN và thúc đẩy đào tạo về tinh thần khởi nghiệp trong các trường ĐH. Chính sách này đã tháo gỡ được 03 rào cản quan trọng trong khởi nghiệp các công ty Spin-offs: (1) thiếu vốn đầu tư mạo hiểm; (2) tinh thần khởi 1 Bekkers, R., Gilsing,V., Van der Steen, M. (2006), “Determining factors of the effectiveness of IP-based Spin-offss: Comparing the Netherlands and the US”, Journal of Technology Transfer, 31, 545-566. 2 Arundel, A., Bordoy, C., Van der Steen (2003), “Knowledge flows from Dutch research organizations to business firms, in Central Bureau of Statistics (CBS)”, Knowledge and Economics, Voorburg, The Netherlands, 146-156.
  11. Chương 4. PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP TRONG CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÊN THẾ GIỚI 127 nghiệp thấp; (3) thiếu kỹ năng khởi nghiệp (Bekkers và cộng sự, 2006). Kết quả là tính đến năm 2001, tổng số công ty Spin-offs trong các CSGDĐH và viện nghiên cứu công tại Hà Lan đã lên đến con số 546 (xem Bảng 4.2). Bảng 4.2: Số lượng bản quyền sáng chế và công ty Spin-offs tại Hà Lan Số Số Số bản Số DN giảng viện quyền sáng Spin-offs viên nghiên chế (2001) cứu (1990-1999) Tổng số trong nhóm trường 7.203 13 224 499 ĐH Technise Universiteit Delft 2332 90 57 (TUD) Rijksuniversiteit Groningen 1470 26 42 (RUG) Rijksuniversiteit Leiden 1610 24 12 (RUL) Universiteit Ultrecht (UU) 2108 19 4 Universiteit Twente (UT) 771 18 226 Technische Universiteit 743 17 40 Eindhoven (TUE) Universiteit van Amsterdam 1708 10 19 (UvA) Katholieke Universiteit 1483 8 30 Nijmegen (KUN) Vrije Universiteit 1269 4 - Amsterdam (VU) Universiteit Maastricht 783 3 39 (UM)
  12. 128 PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP TRONG CÁC CƠ SỞ GIÁO DỤC ĐẠI HỌC... Số Số Số bản Số DN giảng viện quyền sáng Spin-offs viên nghiên chế (2001) cứu (1990-1999) Erasmus Universiteit 847 3 20 Rotterdam (EUR) Wageningen Universiteit 839 2 10 (WU) Katholieke Universiteit 274 0 - Brabant (UvT) Các bệnh viện thuộc các 8 - 0 trường ĐH Các viện nghiên cứu công 5 - 11 nghệ lớn thuộc các ĐH Khối các Viện nghiên cứu Viện Nghiên cứu khoa học 20 - 21 ứng dụng (TNO) Viện nghiên cứu nông 8 - 3 nghiệp (DLO) Tổ chức nghiên cứu khoa 9 - 11 học Hà Lan (NWO) Học viện Nghệ thuật và 21 - 0 Khoa học Hoàng gia Hà Lan (KNAW) Các viện công nghệ hàng đầu 4 - 0 Các viện đào tạo đại học 36 - 1 Tổng 124 546 (Nguồn: Bekkers và cộng sự, 20061) 1 Bekkers, R., Gilsing,V., Van der Steen, M. (2006), “Determining factors of the effectiveness of IP-based Spin-offss: Comparing the Netherlands and the US”, Journal of Technology Transfer, 31, 545-566.
  13. Chương 4. PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP TRONG CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÊN THẾ GIỚI 129 Ngoài ra, chính phủ Hà Lan còn có chính sách hỗ trợ ưu tiên cho việc thành lập các công ty Spin-offs trong lĩnh vực khoa học đời sống. Một chương trình có tên gọi là STIGON đã ra đời nhằm thúc đẩy sự hình thành các công ty Spin-offs trong lĩnh vực khoa học đời sống, đặc biệt trong các ngành như công nghệ tế bào, hoá sinh (Geehuizen và Reyes-Gonzalez, 2007)1. Với chương trình STIGON, cơ quan Nghiên cứu khoa học Hà Lan (NOW) và Tổ chức Nghiên cứu và Phát triển Sức khỏe Hà Lan (ZonMw) đã tài trợ 2 triệu Euro cho các nhà khoa học để biến các ý tưởng nghiên cứu thành kế hoạch kinh doanh cụ thể (Hu và Mosmuller, 2008)2. Khoản tài trợ cho mỗi dự án tối đa là 250,000 Euro cho thời hạn 2.5 năm được dùng để trả lương cho các nhà nghiên cứu, trợ lý kỹ thuật, mua nguyên vật liệu, tư vấn và đào tạo. Kết quả là trong giai đoạn 2001 đến tháng 2 năm 2005, đã có 133 dự án nộp hồ sơ xin tài trợ, và 69 dự án được phê duyệt tài trợ. Trong khuôn khổ các dự án này, có 13 công ty khởi nghiệp đã được thành lập. Chương trình STIGON sau đó đã được sáp nhập vào chương trình BioPartner First-Stage Grant (FSG). Nói tóm lại, đặc trưng của hoạt động PTDN tại Hà Lan là các sáng kiến của chính phủ trong việc kết nối các trường ĐH, viện nghiên cứu công và các DN để tạo nên các công ty khởi nghiệp nhằm thừa hưởng các kết quả nghiên cứu từ “tháp ngà” của các trường ĐH. 1 Geehuizen, M.V., Reyes-Gonzalez, L. (2007), “Does a clustered location matter for high-technology companies’ performance? The case of biotechnology in the Netherlands”, Technological Forecasting and Social Change, 74, 1681-1696. 2 Hu. H., Mosmuller., W. (2008), “Stimulating entrepreneurship in life sciences: The Dutch approach”, in W. Hulsink and H. Dons (Eds), Pathways to high-tech valleys and research triangles: Innovative entrepreneurship, Knowledge transfer and Cluster formation in Europe and the United States, Springer.
  14. 130 PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP TRONG CÁC CƠ SỞ GIÁO DỤC ĐẠI HỌC... Italia: Tại Italia, theo số liệu thống kê từ nghiên cứu được công bố gần đây nhất (tháng 3 năm 2019) của các tác giả S. Boffo và A. Cocorullo thì quá trình hình thành và phát triển các công ty từ trường đại học (University Spin-offs) bắt đầu từ những năm 2000 và có sự tăng dần. Tính đến 2007, trung bình có 100 Spin-offsra đời ở Italia từ dự án kinh doanh mới mỗi năm. Đến cuối năm 2015, đã có 1.254 công ty Spin-off được thành lập từ các ĐH và các tổ chức nghiên cứu. Trong tổng số Spin-offs được thành lập từ các trường ĐH trong các năm 2011 đến 2014 là 1.115, tại thời điểm cuối năm 2014 đã ghi nhận 753 công ty Spin-off hoạt động được xuất phát từ các trường đại học (Boffo và Cocorullo, 2019)1. Một số khảo sát khác đề cập đến 95 trường ĐH, trong đó có 60 trường có ít nhất một Spin-off hoạt động. Xem xét sự phân bổ về mặt địa lý của các công ty Spin-off cho thấy các khu vực tích cực nhất trong việc tạo ra các công ty này đã duy trì mức độ hoạt động cao trong toàn bộ thời kỳ. Hiện tượng này tập trung ở các khu vực phía Bắc nơi đặt 47,6% tổng số Spin-offs và khu vực Trung tâm (29,3%), trong khi 23,1% còn lại được phân phối ở phía Nam và các quần đảo của Italia. Có thể thấy rằng những lãnh thổ ít hoạt động Spin-off nhất là do những khó khăn kinh tế truyền thống và hậu quả nặng nề của cuộc khủng hoảng tài chính cuối thập niên 1990 (Hình 4.1). Nguyên nhân của sự phân bố này khá rõ ràng là khu vực phía Bắc và Trung tâm của Italia là những khu vực có mức độ công ngiệp hóa cao hơn phía Nam và các đảo. Đặc biệt, đây là nơi tập trung nhiều các vườn ươm doanh nghiệp và các cơ quan hỗ trợ doanh nghiệp. 1 Boffo, S., Cocorullo, A. (2019), “University Fourth Mission: Spin-offs and Academic Entrenreneurship: Connecting Public Policies with new missions and management issues of universities”, Higher Education Forum.
  15. Chương 4. PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP TRONG CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÊN THẾ GIỚI 131 Hình 4.1. Sự phân bố về địa lý của các Công ty Spin-off tại Italia (Nguồn: Boffo và Cocorullo (2019)1.) Xét về lĩnh vực hoạt động, các công ty trong lĩnh vực ICT (công nghệ thông tin và truyền thông) chiếm tỷ trọng lớn nhất (23,9%), sau đó là các công ty hoạt động ở các lĩnh vực dịch vụ có tính đổi mới sáng tạo (22,9%). Đặc biệt, các số liệu và bằng chứng thực tiễn chứng minh nhận định của các nhà nghiên cứu: các Spin-offs trong trường đại học ở Italia có thiên hướng ở các ngành hàng dịch vụ hơn là về sản xuất kinh doanh và thiên về áp dụng các tri thức mới (Boffo và Cocorullo, 2019)2. Xét về cơ cấu thành phần của các thành viên sáng lập, phát triển doanh nghiệp trong ĐH, nghiên cứu tổng hợp thực nghiệm của Boffo và Cocorullo chỉ ra tỷ lệ lớn nhất (chiếm tới trên 50%) là các nghiên cứu viên. Về lĩnh vực chuyên môn, tỷ trọng lớn nhất (33%) là các sáng lập viên nghiên cứu về lĩnh vực công nghệ, sau đó lần lượt là các lĩnh vực y sinh (25%). Trong khi đó, các giảng viên, nghiên cứu viên ở lĩnh vực kinh tế và khoa học xã hội có tỷ lệ thành lập doanh nghiệp Spin-offs thấp nhất, chỉ chiếm 3%. 1, 2 Boffo, S., Cocorullo, A. (2019), “University Fourth Mission: Spin-offs and Academic Entrenreneurship: Connecting Public Policies with new missions and management issues of universities”, Tlđd.
  16. 132 PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP TRONG CÁC CƠ SỞ GIÁO DỤC ĐẠI HỌC... Thông qua điều tra các công ty Spin-off của các trường đại học ở Italia từ các góc nhìn khác nhau và nghiên cứu trường hợp 4 ĐH lớn (Đại học Messina; Đại học Bách khoa Torino; Đại học Scuola Superiore Sant” Anna của Pisa; Đại học Trento), nghiên cứu đã chỉ ra kết quả tăng nhanh số lượng các công ty Spin-offs (kết quả của hoạt động PTDN) trong các trường ĐH trên là do sự thay đổi trong các chính sách và pháp luật về trường đại học ở Italia. Trong số đó, quy định về “tổ chức các trường đại học, giảng viên, nghiên cứu viên và tuyển dụng” vào năm 2010 của Chính phủ Italia có tác động mạnh mẽ đến sự biến động về nhân lực nghiên cứu viên của các ĐH. Theo đó, số lượng nghiên cứu viên cơ hữu được bổ nhiệm (giống như viên chức trong biên chế trong các ĐH ở Việt Nam) giảm mạnh từ năm 2011 đến năm 2016. Trong khi đó, các nghiên cứu viên làm việc theo hợp đồng từ 3 năm đến 6 năm lại tăng nhanh. Kết quả nghiên cứu của Boffo và Cocorullo cho thấy hiện tượng thú vị là số lượng các công ty Spin-offs từ các trường ĐH ở Italia giai đoạn trên lại không giảm đi theo sự giảm số lượng các nghiên cứu viên cơ hữu mà tăng lên mạnh mẽ theo xu thế tăng nghiên cứu viên hợp đồng. Số công ty Spin-off tăng từ trên 6.000 ở năm 2011 đến trên 1.300 vào năm 2016. Xu hướng này, cùng với kết quả phân tích 40 cuộc phỏng vấn định tính với các tác nhân chính trong mỗi công ty Spin-off (trực tiếp và gián tiếp tham gia vào các dự án kinh doanh) đã dẫn đến phỏng đoán có cơ sở khoa học và phù hợp với lý thuyết về tinh thần doanh nghiệp là các nghiên cứu viên trẻ và các giảng viên ít có ràng buộc mang tính truyền thống học thuật trong trường ĐH có xu thế khởi nghiệp cao hơn so với các giáo sư và nghiên cứu viên cơ hữu. Nhìn chung, ở châu Âu các trường ĐH luôn được coi là yếu tố quan trọng trong chuyển giao kiến thức, phát minh và công nghệ cho nền kinh tế. Đây là một trong những gốc rễ của các quá trình cải cách đã lan tỏa trong hầu hết các lĩnh vực tại các ĐH ở châu Âu trong một vài thập kỷ qua. Các trường đại học đã trải qua nhiều thay đổi và được định hình lại một cách sâu sắc trong hơn 2 thập kỷ qua. Một loạt các
  17. Chương 4. PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP TRONG CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÊN THẾ GIỚI 133 hoạt động trên nhiều phương diện đã được thực hiện để tăng cường mối quan hệ giữa giới học thuật trong các ĐH và xã hội. Trước đây, vai trò của ĐH chủ yếu liên quan đến cấp bằng sáng chế cho các cá nhân bên ngoài, nhưng ngày nay các trường ĐH ngày càng tập trung vào việc tạo ra và thúc đẩy các hoạt động Spin-off. Đây cũng là những công cụ nhằm đáp ứng yêu cầu xã hội đối với trách nhiệm giải trình của các ĐH và tiếp cận với nền kinh tế thông qua chia sẻ các kết quả NCKH mang tính học thuật. Kết quả nghiên cứu và số liệu thực nghiệm cho thấy một cách tổng quát là sự xuất hiện của các công ty Spin-offs cao hơn ở những khu vực có mức độ công nghiệp hóa cao hơn và gần hơn với các vườn ươm doanh nghiệp và đơn vị hỗ trợ doanh nghiệp của chính phủ trung ương hay địa phương. Một điều đáng chú ý là sự không nhất quán hoặc thiếu các chính sách tầm quốc gia hay ở địa phương về hỗ trợ và thúc đẩy NCKH đã dẫn đến sự phân phối không đồng nhất của các Spin-offs ở cấp quốc gia. Nghiên cứu và các khảo sát từ các trường ĐH ở Italia gần đây cho thấy kết quả phù hợp nhận định trên. 4.1.2. Phát triển doanh nghiệp trong đại học tại các quốc gia châu Mỹ Nước Mỹ (Hoa Kỳ): Tại Mỹ, Hiệp hội Các nhà Quản lý Công nghệ của Đại học Mỹ (Association of University Technology Managers, AUTM) đã thống kê: trong vòng 20 năm (1980-1999) kể từ khi Đạo luật Bayh–Dole về công ty Spin-offs được phê chuẩn, các công ty Spin-offs ở Mỹ đã đóng góp 33,5 tỉ USD cho nền kinh tế và tạo ra 280.000 việc làm và trung bình mỗi năm có hơn 200 công ty Spin-offs được đăng ký thành lập trên tổng số trên 132 trường đại học ở Mỹ. Từ năm 1982, chính phủ Hoa Kỳ có một chương trình nghiên cứu hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ mang tên Small Business Innovative Research (SBIR) với sự tham gia hỗ trợ của 12 cơ quan ngang bộ trong Chính phủ Hoa Kỳ. Năm 2004, chương trình SBIR đã giải ngân hơn 2 tỉ USD cho việc hỗ trợ thành
  18. 134 PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP TRONG CÁC CƠ SỞ GIÁO DỤC ĐẠI HỌC... lập các doanh nghiệp Spin-offs và tới năm 2009 đã trao cho tổng số 112.500 công ty Spin off với tổng đầu tư lên tới 26,9 tỉ USD. Các doanh nghiệp Spin-offs từ đại học Hoa Kỳ đã góp phần quan trọng trong việc tạo nên sự thành công của thung lũng Silicon ở California. Tại Mỹ, việc tổ chức quản lý doanh nghiệp trong trường đại học thường theo mô hình thành lập các Văn phòng chuyển giao công nghệ (TTO hoặc TLO). Ví dụ như tại Viện Công nghệ Massachussetts, các TLO được thành lập từ năm 1945 để khuyến khích các khoa chuyên ngành đưa ra các công nghệ mới, tiến hành thẩm định và định giá thị trường, sau đó tiến hành đăng ký quyền sở hữu trí tuệ. TLO còn đáp ứng yêu cầu của các nhà đầu tư mạo hiểm, cùng thảo luận về sự thích ứng của công nghệ mới với các lĩnh vực công nghiệp mà các khoa chuyên môn của MIT đang tiến hành nghiên cứu. TLO cũng luôn điều chỉnh hoạt động theo sứ mệnh phát triển kinh tế của MIT và truyền thống văn hóa khởi nghiệp của nhà trường. Để hỗ trợ cho các khoa theo hướng khởi nghiệp, trường đã đưa ra các điều khoản hỗ trợ về hoạt động thương mại hóa các kết quả nghiên cứu. Việc chuyển giao công nghệ không được làm suy giảm tới chất lượng đào tạo của trường. Sau khi chuyển giao công nghệ, 15% tiền phí trả cho TLO, còn lại 1/3 dành cho các nhà sáng chế, 1/3 dành cho các phòng ban học thuật và 1/3 nộp thì vào quỹ chung của MIT (Trần Anh Tài, 2011)1. Các công trình nghiên cứu không phải là tài sản riêng của bất cứ ai, phải được công bố rộng rãi. Chỉ có bằng sáng chế và bản quyền phát minh được quản lý thông qua cơ quan chuyển giao. Năm 2004, số bằng sáng chế của MIT là 510 bằng, dẫn đầu cả nước và MIT thu về gần 60 triệu USD từ việc chuyển nhượng quyền sở hữu trí tuệ. MIT luôn giữ vững ngôi vị dẫn đầu của mình. Tính riêng năm 2016, MIT 1 Trần Anh Tài (2011), “Học viện Công nghệ Massachusettes - Mô hình đại học doanh nghiệp tiêu biểu”, Tạp chí Những vấn đề Kinh tế và Chính trị Thế giới.
  19. Chương 4. PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP TRONG CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÊN THẾ GIỚI 135 có 278 bằng sáng chế và được xếp vị trí số 2 trên bảng xếp hạng thế giới về số bằng sáng chế (Simeone và cộng sự, 2017)1. Canada: Không giống với các quốc gia khác, Canada lại có những chính sách khá đặc thù để thúc đẩy hoạt động PTDN. So với các quốc gia khác, Canada có truyền thống lâu đời về sự hỗ trợ từ chính phủ nhằm thúc đẩy việc tận dụng lợi ích kinh tế từ các nghiên cứu khoa học (Atkison-Grosjean & cộng sự, 20012); (Slaughter & Leslie, 1997)3. Chính phủ Canada đã chi 3.2 tỷ CAD mỗi năm cho 178 sáng kiến trong lĩnh vực PTDN (Gault & McDaniel, 2004)4. Tuy nhiên, sự can thiệp của chính phủ vào các hoạt động này cũng có nhiều khó khăn do hệ thống giáo dục của nước này có mức độ phi tập trung hóa cao. Vì vậy, việc triển khai các hoạt động PTDN đều có sự phối hợp chặt chẽ với các CSGDĐH, tổ chức nghiên cứu để tác động đến đúng đối tượng có nhu cầu. Hơn nữa, Canada cũng là nước có thị trường nội địa quy mô nhỏ trong khi khu vực nghiên cứu lại rất lớn (giống đặc điểm của các nước châu Âu) nên việc thương mại hóa các sản phẩm nghiên cứu chủ yếu qua hình thức các công ty Spin-offs chứ không phải là cấp giấy phép (li-xăng). Theo các số liệu thống kê của Canada năm 2003, các trường đại học và bệnh viện đã hợp tác thành lập 64 công ty Spin-offs chỉ riêng trong năm đó và tính từ trước đó đến năm 2003 thì tổng số công 1 Simeone L., Secundo G., Schiuma G. (2017), “Adopting a design approach to translate needs and interests of stakeholders in academic entrepreneurship: The MIT Senseable City Lab case”, Technovation, 58–67. 2 Atkinson-Grosjean, J., House, D., Fisher, D. (2001), “Canadian science policy and public research organizations in the 20th century”, Science Studies 14 (1), 3–25. 3 Slaughter, S., Leslie, L. (1997), Academic Capitalism: Politics, Policies and The Entrepreneurial University, Baltimore: John Hopkins University Press. 4 Gault, F. and McDaniel, S. (2004), “Summary: Joint Statistics Canada - University of Windsor Workshop on Intellectual Property Commercialization Indicators, Windsor”, Working Papers, Science, Innovation and Electronic Information Division, Minister responsible for Statistics Canada.
  20. 136 PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP TRONG CÁC CƠ SỞ GIÁO DỤC ĐẠI HỌC... ty Spin-offs là 876. Còn theo cuộc khảo sát của AUTM thì chỉ tính riêng trong 2 năm 2003 và 2004, con số các công ty Spin-offs được thành lập và số giấy phép cấp li-xăng lần lượt là 58 công ty cùng 448 giấy phép trong năm 2003 và 45 công ty với 544 giấy phép trong năm 2004. Kết quả là có 93 công ty Spin-offs đã niêm yết trên sàn chứng khoán (trong số 585 công ty) và từ đó tạo ra việc làm cho 29,900 người, đạt doanh số 6.1 tỷ CAD trong năm 2004. Các số liệu cụ thể về hoạt động PTDN tại Canada trong giai đoạn 1999 – 2003 được thể hiện trong Bảng 4.3. Bảng 4.3: Hoạt động thương mại hóa ở các trường đại học và bệnh viện Canada giai đoạn 1999 - 2003 Hoạt động 1999 2001 2003 Số trường ĐH và các bệnh viện liên quan 63 77 87 cùng điều hành quyền sở hữu trí tuệ Công bố các phát minh 893 1,105 1,133 Bảo vệ các phát minh 549 682 - Giữ bản quyền 1,915 2,133 3,047 Cung cấp bản quyền 349 381 - Các ứng dụng bản quyền mới 656 932 1,252 Các li-xăng được kích hoạt 1,165 1,424 1,756 Li-xăng mới 232 354 422 Doanh thu từ cấp li-xăng (triệu CAD) 21 47 - Lợi tức và cổ phần (triệu CAD) 54 45 - Số công ty Spin-offs (tính lũy kế) 471 680 876 Doanh thu từ công ty Spin-offs (triệu CAD) - 2,580 - Số việc làm tạo ra từ các công ty Spin-offs - 19,243 - (Nguồn: Ramussen, 20081) 1 Rasmussen, E. (2008), “Government instruments to support the commercialization of university research: Lessons from Canada”, Technovation, Sciencedirect, Volume 28, Issue 8, 473-550, https://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S0166497207001526.
nguon tai.lieu . vn