Xem mẫu

  1. PHẦN THỨ BA ðặc trưng vùng trong một số hiện tượng văn hóa
  2. 382 Ngô ðức Thịnh Chương 14 Về vùng "thể loại" văn hoá Ở các chương trên, chúng tôi ñề cập tới các vùng văn hoá mang tính chất tổng thể, tạm gọi là vùng văn hoá tổng thể, còn trong chương này, chúng tôi ñi sâu hơn phân tích tính chất vùng của các hiện tượng văn hoá riêng lẻ, chẳng hạn như truyền thuyết, sử thi, diễn xướng, âm nhạc, phong tục, nghi lễ, kiến trúc, Èm thực..., gọi là vùng thể loại văn hoá. Còng cần nói thêm rằng, không phải tất cả các hiện tượng văn hoá ñều chứa ñựng nhân tố phân biệt không gian ñịa lý như nhau, mà tuỳ theo từng loại hình văn hoá, tính vùng thể hiện nhiều Ýt khác nhau. Trước khi ñi vào phân tích các hiện tượng văn hoá cụ thể, chúng tôi thấy cần thiết phải ñưa ra mét quan niệm lý thuyết của mình về vùng thể loại văn hoá. Vùng thể loại văn hoá là một không gian ñịa lý nhất ñịnh, mà ở ñó từng thể loại văn hoá (truyền thuyết, sử thi, dân ca, sân khấu, âm nhạc, Èm thực, kiến trúc...) biểu hiện tính tương ñồng, thống nhất của mình thông qua nội dung, kết cấu, các sắc thái biểu hiện, phương thức lưu truyền... ðể tạo nên các hiện tượng và thể loại văn hoá mang "tính vùng", chúng ta phải xem xét ñến các nhân tố môi trường, mối quan hệ nguồn gốc và lịch sử của chủ nhân, ñến các nhân tố giao lưu văn hoá giữa các tộc người... Phần trên chúng tôi nói tới khái niệm "hiện tượng văn hoá" và "thể loại văn hoá". Với cái gọi là hiện tượng văn hoá thì chắc không cần bàn cãi gì thêm, có chăng chỉ là khái niệm "thể loại văn hoá", vậy thể loại văn hoá là gì?. Trước nhất, chúng tôi mượn khái niệm thể loại từ thể loại văn học dân gian, như truyện cổ, truyền thuyết, sử thi, ca dao, dân ca... Do vậy, khi bàn về tính vùng của các thể loại văn học dân gian này thì không có vấn ñề gì phải bàn cãi. Tuy nhiên, khi sử dụng khái niệm thể loại cho các hiện tượng văn hoá khác ngoài văn học dân gian, như kiến trúc, nhà cửa, Èm thực, âm nhạc, sân khấu... thì nên hiểu nó như là những hiện tượng văn hoá mà thôi.
  3. ðặc trưng vùng trong một số hiện tượng văn hóa 383 Sau ñây, chúng tôi lùa chọn giới thiệu một số hiện tượng, thể loại văn hoá, coi như là những thí dụ ñể tìm hiểu về vấn ñề "vùng thể loại" văn hoá. Vùng truyền thuyết và nghi lễ Nước ta, nhất là vùng Bắc Bộ, nơi ñược coi là cái nôi hình thành dân tộc, hình thành quốc gia cổ ñại và văn hoá truyền thống của người Việt, thì tâm thức lịch sử luôn thấm ñượn trong các sáng tác dân gian, nhất là trong truyền thuyết. Các truyền thuyết này vừa mang tính lịch sử vừa mang tính huyền thoại, tuy nhiên với quần chúng nhân dân, ñó là lịch sử ñích thực, nên nó gắn liền với các nghi lễ, phong tục, hình thành nên một hiện tượng văn hoá mang tính tổng thể: Truyền thuyết - nghi lễ. Ở ðồng bằng và trung du Bắc Bộ, có thể kể ra các vùng truyền thuyết - nghi lễ tiêu biểu sau: Vùng truyền thuyết - nghi lễ Hùng Vương, vùng truyền thuyết - nghi lễ Thánh Gióng, vùng truyền thuyết - nghi lễ Sơn Tinh - Tản Viên, vùng truyền thuyết - nghi lễ Hai Bà Trưng, vùng truyền thuyết - nghi lễ ðức Thánh Trần, Vùng truyền thuyết - nghi lễ Hoa Lư... Ở miền Trung, chúng ta có thể kể ñến vùng truyền thuyết - nghi lễ Lam Sơn, vùng truyền thuyết - nghi lễ Quang Trung ở Bình ðịnh... Sau ñây chúng tôi xin giới thiệu một số vùng truyền thuyết và nghi lễ. Vùng truyền thuyết - nghi lễ Tản Viên Vùng truyền thuyết - nghi lễ Tản Viên bao gồm một vùng khá rộng lớn, gồm Tam Thanh, Thanh Sơn, Sông Thao (Phú Thọ) thuộc tả ngạn sông Thao (Sông Hồng) và Sơn Tây (Hà Tây) thuộc hữu ngạn. Tất nhiên, ngoài vùng kể trên, theo quy luật lan toả của các hiện tượng Folklore, những truyền thuyết và phong tục liên quan tới Tản Viên có thể tìm thấy trên phạm vi rộng hơn, tuy nhiên những ñịa phương kể trên ñược coi là nhân lõi, ñiển hình của vùng truyền thuyết và nghi lễ Tản Viên. Nhiều nhà sưu tầm ñã công bố những truyền thuyết, huyền thoại về Sơn Tinh - Thuỷ Tinh ở Ba Vì và các vùng phụ cận, cũng như các phong tục liên quan (ðoàn Công Hoạt, 1969). Trên ñịa phận Sơn Tây quanh nói Ba Vì vẫn còn lưu giữ các diễn
  4. 384 Ngô ðức Thịnh xướng nghi lễ liên quan ñến Tản Viên, như tục ñánh cá thờ trên khúc sông Tích, từ cầu Vang (ðường Lâm) ñến cầu Ái Mỗ (Trung Hưng). Trên ñoạn sông Tích, mọi người ñều có thể tham gia ñánh cá, miễn là khi bắt ñược cá chép to thì góp vào cỗ gồm 99 ñuôi cá ñể thờ Thánh Tản, biểu tượng cho quân của Thuỷ Tinh trong cuộc chiến tranh giữa Sơn Tinh và Thuỷ Tinh. Còn các ñịa phương khác, như ở làng Tông Lệnh thì lại ñánh cá lăng, cá quất và làm tiệc gỏi cúng Tản Viên. Gắn với sự tích Tản Viên - Sơn Tinh còn có nhiều tục lệ, nghi lễ khác nữa, như làng Liệp Tuyết có tục Múa Rô tổ chức 36 năm một lần, làng Vân Ta có trò Tứ Dân (Trò Triếng), tái hiện việc công chóa Ngọc Hoa rước lụa tiến Vua cha, tục cướp kén mang tính phồn thực của nghi lễ nông nghiệp, làng Sơn ðồng có nghi lễ săn thịt thó ñể cúng Thánh Tản... Trên ñịa phận Phú Thọ, các nghi lễ liên quan tới thờ cúng Tản Viên khá phong phú, như tục chơi ñu ở xã Minh Phương vào mồng 6 tháng giêng hàng năm, tục chọi trâu ở Hoàng Cương (Thanh Hoà) vào 7 tháng giêng, hội phết ỏ Sơn Huy (Lâm Thao), tái hiện sự tích luyện quân của Tản Viên, tục ñua chải ở xã Thạch ðồng (Tam Thanh), tượng trưng cho việc ñưa tiễn Tản Viên về núi Tản, tục ñập trâu, mổ lợn ñể Tản Viên tế trận, tục tế cầu trận gắn với truyền thuyết quân Tản Viên có lần bị thua rót qua ñây ñược dân ra ñộng viên uý lạo; tục múa săn trong lễ thức cúng lễ Tản Viên... Tiêu biểu hơn cả là các trò diễn Rước chóa gái tái hiện sự tích Sơn Tinh ñưa Ngọc Hoa từ Phong Châu về nhà chồng, tổ chức khá quy mô từ 30 tháng chạp tới 8 tháng giêng, do làng Triệu Phú (tên nôm là Trẹo) và làng Hy Cương (tên nôm là Vi) ñứng ra tổ chức, do vậy trò này còn ñược gọi là Vi Trẹo rước chóa gái. Cuộc trình diễn này có thể tóm lược như sau: Tối ngày 30 tháng chạp, ông Từ làng Vi cầm con gà ñến cây hương khấn ba lần, tượng trưng cho việc Sơn Tinh giả làm tiếng gà gáy sáng ñánh thức quân canh Hùng Vương mở cửa thành cho Sơn Tinh vào dâng lễ cưới. Tiếp ñó, ông Từ vừa ñi vừa hú từ cây hương ở ñền Cả ñến ñền Thượng, dân làng theo sau ñều hú theo, xen lẫn cả tiếng trống, kèn. Nghi
  5. ðặc trưng vùng trong một số hiện tượng văn hóa 385 thức này tượng trưng cho ñám cưới Mỵ Nương bị quân Thuỷ Tinh ñến ñánh phá, làm tán loạn, Ngọc Hoa công chóa phải hú lên ñể gọi chồng. Ngày 5 và 7 tháng giêng diễn ra các cuộc rước, dâng lễ gồm hình nhân, ñồ mã voi, ngựa. Các làng tham gia rước ñều bày lễ ở ñình ñể ñón tiếp Sơn Tinh. Ngày 8 tháng giêng, diễn ra trò rước Chóa gái, trong ñó nội dung chính là trò bách nghệ khôi hài. Người dân ở ñây giải thích rằng diễn các trò vui này ñể Ngọc Hoa công chóa quên nỗi buồn phải xa nhà, khiến Nàng cùng tham gia múa hát, do vậy Sơn Tinh mới ñưa ñược nàng về Núi Tản. Cùng trò diễn xướng này còn có một số làng khác tổ chức trò rước chóa gái một cách ñộc lập, như làng Vân Luông diễn trò thả thuyền giấy tượng trưng cho thuyền ñón dâu qua sông, làng Khuê Thượng làm lễ cúng trên bờ sông, rồi cho chèo chiếc thuyền qua lại trên sông ba lần, từ bến làng Khê (Bất Bạt) sang bến làng Bợ (Tam Thanh), tượng trưng cho việc Tản Viên từ Ba Vì về Núi Hồng lễ bố vợ... Trò Tản Viên ñánh Thục cũng là hệ thống trò diễn tiêu biểu liên quan tới Tản Viên - Sơn Tinh, Vua Hùng, do các làng Sơn Vi (làng Vân), làng Á Nguyên và làng Trúc Khê phối hợp tổ chức. Cuộc trình diễm gồm ba màn : Màn 1 :Nhận lệnh của Hùng Vương ñi ñánh Thục, Tản Viên ñến làng Vân cùng vị thần làng luyện quân, thông qua các nghi lễ ñánh cầu, ñánh phết diễn ra trong 3 ngày, sau ñó ñốt pháo ra lệnh xuất quân. Màn 2 : Khi nghe Sơn Vi ñốt pháo lệnh, dân làng Á Nguyên khua trống chiêng reo hò ñể ñánh ñộng làng Trúc Phê nghe thấy. Màn 3 : Trước khi vào hội Trúc Phê ñã chuẩn bị sẵn sàng, khi nghe tiếng trống chiêng, reo hò của Á Nguyên, họ lập tức hối hả làm bánh dày, xôi nếp ñể ñem ra ñình dâng Tản Viên, với ý nghĩa là lương thực ñể Tản Viên ñi ñánh giặc. Từ trò diễn ñó dân gian mới có câu : "Sơn Vi ñốt ống lệnh, Á há miệng, Trúc Phê ñâm" hay "Trúc Phê có lệ bánh dầy, Bên Á há miệng, bên này chày ñâm"(ðịa chí Vĩnh Phú..., 1985). Vùng truyền thuyết - nghi lễ Thánh Gióng Vùng truyền thuyết - nghi lễ Thánh Gióng nằm ở trung châu ñồng
  6. 386 Ngô ðức Thịnh bằng Bắc Bộ, giới hạn bằng ba mặt sông : Sông Hồng, Sông Cầu và sông ðuống, tạo thành một tam giác mà ba ñỉnh là Phù ðổng - Sóc Sơn - Nói Trân. Những ñịa danh, sự tích, truyền thuyết liên quan tới Thánh Gióng phân bố chủ yếu trong cái tam giác ñó ñã ñược Cao Huy ðỉnh phân thành bốn loại : 1) Những di tích ñánh dấu nơi sinh ra Gióng, như Vừon Cà, nơi Mẹ Dóng ñầu thai Gióng, ðổng Xuyên, nơi Mẹ Gióng ở sau khi bị ñuổi khỏi làng, Trại Nòn, nơi ñẻ ra Gióng với di vật liềm ñá cắt rốn, thống ñá ñể tắm và châng ñá cho Gióng nằm, 2) Những nơi rèn vũ khí của Gióng, như Mai Cương, Phù ðổng, Y Na, 3) Những nơi có người theo Gióng ñi ñánh giặc, như Y Na, Hà Lỗ, Cầu Bài, Hà Nham, Lệ Chi, Ngườm, Cán, Hội Xá, Trung Mầu, Phù ðổng...4) Những nơi có dấu tích con ñường Gióng xuất quân ñi ñánh trận và quay trở về hoá, như Phù ðổng, Phù Lưu, Phù Tảo, Làng Cháy, Núi Trâu, Phả Lại, ðầm Thất gian, Bãi Bùng, Làng Cáo, Làng Mã, Sóc Sơn... (Cao Huy ðỉnh, 1998). Trong một không gian ñịa lý vừa kể trên, biết bao truyền thuyết, di tích, nghi lễ, phong tục ñã và ñang ñược truyền tụng trong nhân dân về Thánh Gióng và chiến công của người anh hùng chống giặc. ðó là những vết chân ngựa Gióng ñể lại ở quanh Làng Gióng, từ làng Gióng ñến Sóc Sơn, mà Trần Quóc Vượng ñã "giải mã" là những ao hồ của một hệ thống thuỷ lợi cổ, những bụi tre ngà là vũ khí của Gióng ñánh giặc và hoa tre trong ngày lễ hội, là chiếc liềm ñá, thống ñá, châng ñá gắn với sự tích ra ñời của Gióng, những vườn cà ở Làng Gióng ñã từng nuôi Gióng lơn lên như thổi ñể ñi ñánh giặc. ðặc biệt là hệ thống sự tích mà nhân dân các ñịa phương trên còn kể lại về sự tham gia, ñón nhận, sự gắn bó làng mình với chiến công và cuộc ñời của Gióng, như sự tích trẻ con làng Hội Xá ñang chăn trâu, thấy ñoàn quân Gióng ñi qua còng xin nhập vào ñoàn quân của Gióng, sự tích Ông cần vồ ở Trung Mầu ñang ñập ñất ở ruộng cũng theo Góng ñi ñánh giặc, sau ñược dân lập ñền thờ, nay cứ tới Hội Gióng dân làng lại rước Ông lên dự hội, rồi sự tích bà bán nước vối, sự tích các thợ rào (rèn) rèn ngựa và khí giới cho Gióng, sự tích nước giếng làng Bưởi Nồi ñỏ là do Gióng ngồi nghỉ ăn trầu, sự tích ñổi tên làng Khèn thành làng Mát...
  7. ðặc trưng vùng trong một số hiện tượng văn hóa 387 Trung tâm của diễn xướng sự tích Thánh Gióng là hệ thống lễ hội, trong ñó Hội Gióng ở làng Phù ðổng là lớn nhất và tiêu biểu nhất. Hội Gióng mở vào ngày mồng chín tháng tư hàng năm : "Mồng bảy hội Khám, mồng tám hội Dâu, mồng chín ñâu ñâu trở về hội Gióng". Có lẽ Ýt thấy một lễ hội nào ở nước ta lại diễn ra cuộc tổng diễn xướng mang tính chất anh hùng ca ñến như vậy. ðó là lễ rước nước từ ñền thờ Mẹ Gióng về "rửa khí giới của Gióng trước khi ra trận", lễ rước cỗ chay dâng Gióng và cuộc diễn của phường Ải Lao, lễ rước khám ñường trước khi Gióng ra trận, tục trai gái ñuổi bắt, diễu cợt nhau trên bãi sông ðuống, một cổ tục mang tính phồn thực; lễ rước cờ từ ñền Mẫu tới ñền Thượng mở ñầu ngày hội chính, diễn xướng phường Ải Lao săn hổ, ñặc biệt hơn cả là diễn xướng ba trận ñánh giặc Ân của Gióng với quy mô thật hùng tráng. Kết thúc hội Gióng là các nghi lễ rửa hội và rước cắm cờ. Trong ngày hội Phù ðổng diễn ra, các làng xung quanh ñều về dự hội hay tổ chức các nghi thức ở làng mình liên quan ñến sự tích về Ông Gióng. Như vậy là, cũng như hiện tượng Hùng Vương, Hai Bà Trưng, Trần Hưng ðạo... các hiện tượng lịch sử, huyền thoại, truyền thuyết, nghi lễ, phong tục ñan kết lại với nhau, phân bố tập trung trong một không gian ñịa lý nhất ñịnh, tạo nên cái gọi là vùng truyền thuyết - nghi lễ. Tất nhiên, trong việc hình thành nên các vùng truyền thuyết và nghi lễ này bao giê cũng có nơi ñóng vai trò là trung tâm, có nơi là ngoại vi do quá trình lan toả của truyền thuyết và nghi lễ. Vùng dân ca, âm nhạc Có thể nói trong rất nhiều hiện tượng văn hoá thì dân ca là một thể loại mang tính vùng một cách rõ rệt và ñặc trưng hơn cả. Nói cách khác, mỗi loại hình dân ca ñều có một vùng phát xuất và truyền bá nhất ñịnh, như Vùng dân ca Quan họ, vùng Hát Xoan, vùng Hát Ghẹo, vùng Hát Dậm Quyển Sơn, vùng Hát ðúm Hải Phòng, vùng Hát văn và nghi lễ lên ñồng, vùng hát Chèo Tầu, vùng Hát Then, vùng Hò Huế, vùng Hát Giặm Nghệ Tĩnh, vùng hát Trống quân, vùng hát Bài Chòi, vùng múa hát Sắc Bùa, vùng múa hát Bả Trạo... Trong các hình thức dân ca kể trên, diễn
  8. 388 Ngô ðức Thịnh xướng hát là chủ ñạo, tuy nhiên, cũng có trường hợp kết hợp với múa, như Hát văn, hát Dậm, Hát Chèo Tàu, hát Sắc Bùa, Bả Trạo...Phần lớn các hình thức diễn xướng kể trên ñều gắn với nghi lễ tín ngưỡng và lễ hội. Sau ñây, chúng tôi xin giới thiệu một số vùng dân ca : Vùng dân ca Quan Họ Nói ñến dân ca Quan họ là người ta nghĩ ngay ñến vùng Kinh Bắc xưa, tức là vùng Bắc Ninh ngày nay, nên dân gian thường gọi là Quan họ Bắc Ninh. Tuy nhiên, cho ñến trước Cách mạng Tháng Tám 1945, Bắc Ninh chỉ có 49 làng Quan họ, có lẽ ñó là các làng Quan họ gốc, phân bố ở 4 huyện : Tiên sơn có 17 làng Quan Họ, thị xã Bắc Ninh có 10 làng, Yên Phong có 17 làng, Việt Yên có 5 làng. Như vậy, nếu tính từ phía bắc các làng Quan họ thì có Sen Hồ (Việt Yên), ñến các làng phía nam là Ngang Nội (Tiên Sơn) theo ñường chim bay là 17 - 18 km. Từ phía ñông là Tiên Ngoài (Tiên Sơn) ñến phía tây là ðồng Mơi (Yên Phong) rộng khoảng 14 - 15 km. Tuy nhiên, không phải tất cả các làng nằm trong cái khung không gian lãnh thổ này cũng ñều là các làng Quan họ. 49 làng Quan họ về cơ bản nằm gọn vào vùng này. Trong các làng Quan họ như vậy, thì vùng quanh thị xã Bắc Ninh là tập trung hơn cả (ðịa chí Hà Bắc, 1982). Có tục kết bạn giữa các làng Quan họ, có khi lâu dài từ ba bốn thế hệ trở lên. Các làng Quan họ kết bạn với nhau, ngoài việc qua lại tổ chức hát trong các dịp lễ hội, còn có quan hệ tình cảm, gắn bó, giúp ñỡ, thăm hỏi nhau. Các nghệ nhân của các làng kết nghĩa coi nhau là liền anh, liền chị, thân thiết như anh em. Tuy không có lễ hội nào là lễ hội Quan họ, nhưng hát Quan họ là một trong những sinh hoạt văn hoá chủ yếu của các lễ hội ñầu xuân của vùng Quan họ. ðó là các hội ðình, hội Chùa, hội ðền, bên cạnh các nghi lễ tín ngưỡng là các sinh hoạt văn hoá mang tính phong tục, trong ñó hát Quan họ là sinh hoạt lôi cuốn người dự hội. Hát Quan họ là hát ñôi, hát ñối ñáp giữa nam và nữ, giữa bên nam và bên nữ. Nội dung hát Quan họ tập trung vào chủ ñề tình nghĩa, tình yêu, quan hệ nam nữ trong môi trường
  9. ðặc trưng vùng trong một số hiện tượng văn hóa 389 của ngày hội xuân. ðó cũng là thể hiện ở góc ñộ nghệ thuật tính phồn thực, một chủ ñề chính của tất cả các lễ hội mùa xuân, mùa của gieo trồng và sinh sản. Dân ca Quan họ có nhiều làn ñiệu, nghe nói có tới 200 làn ñiệu khác nhau. Lời hát là thể thơ 6/8, cũng có khi là thể thơ 4 chữ, lời thơ mượt mà, chải chuốt, ñiêu luyện, do vậy, cùng với diễn xướng trong khung cảnh trữ tình ñã cuốn hót, làm say lòng người nghe. Những năm gần ñây, người ta ñã ñể công phục hồi cách hát Quan họ làng của các nghệ nhân dân gian, trước nhất ở các làng Quan họ gốc, bên cạnh ñó cũng phát triển các hình thức Quan họ sân khấu và quan họ ñài (hát thông qua truyền thanh, truyền hình) của những người hát Quan họ chuyên nghiệp hay nghiệp dư, tạo nên những sắc thái ña dạng của dân ca Quan họ Bắc Ninh. Vùng hát Xoan Hát Xoan chỉ có ở vùng Phú Thọ, trong ñó, tập trung và thịnh hành nhất ở 17 xã, nằm trong ñịa giới của 6 huyện của tỉnh, như Phù Ninh, Tam Nông, Lâm Thao, ðoan Hùng, Vĩnh Tường và Lập Thạch. Tương truyền, Hát Xoan có từ thời Hùng Vương, gắn với sự tích Vua Hùng ñi kinh lý qua thôn Phú ðức, nghỉ lại, ñã dạy trẻ con hát các bài hát dân ca, sau thành lệ, cứ vào 30 tháng chạp, dân làng mở hội, dâng lễ thịt bò và bánh nẳng, hát Xoan ñể ghi nhớ công ơn Vua Hùng. Như vậy, ở ñây, vùng Hát Xoan cũng trùng hợp với vùng truyền thuyết -nghi lễ Vua Hùng. Những làng có Hát Xoan thường tổ chức thành phường Xoan, họ Xoan, ñứng ñầu là mét Ông trùm, có 4 - 5 kép và 12 ñến 15 ñào. Ông trùm thường là người nhiều tuổi, có uy tín, thuộc bài bản, nhất là các bài xoan chữ nôm. Các kép có thể nhiều tuổi, ñã có vợ con, nhưng thường có một hai kép hát còn nhỏ tuổi (10 - 12 tuổi) ñể múa hát các ñiệu mở ñầu cho các cuộc hát. Các cô ñào là các cô gái trẻ, xinh xắn, biết múa hát, chưa có chồng. Hát Xoan ñược tổ chức vào những nơi nhất ñịnh và vào thời gian nhất
  10. 390 Ngô ðức Thịnh ñịnh. Trước nhất, hát Xoan tổ chức ở ñình làng, nên còn có tên gọi là Khúc môn ñình. Mỗi phường hay họ Xoan chiếm giữ một cửa ñình nhất ñịnh, tránh việc chồng chéo, dẫm ñạp giữa các phường họ. Hát Xoan tổ chức vào mùa xuân. Tác giả sách "ðịa chí Vĩnh Phú, văn hoá dân gian vùng ñất tổ" ñã cung cấp một lịch trình hát Xoan của các họ, phường ở Phú Thọ. Mở ñầu cho mùa hát và ñể ñón chào năm mới, các phường, họ lần lượt khai xuân ở các ñình miếu làng mình. Ngày mồng một tết, các họ hát ở ñình An Thái, Kim ðơi, Thét. Từ ngày mồng 5 tết, các phường Xoan ñều khăn gói lên ñường thực hiện chuyến du xuân ñến hát ở các làng kết nghĩa. Các phường hát từ 5/1 ñến 10/3 âm lịch, tức suốt mùa xuân cho ñến dịp mở hội ñền Hùng. Hát Xoan thường diễn ra theo các bước : a) Bợm gái (hát trao tình do các cô gái thực hiện), b) Bỏ bé (hát giao duyên, do các cô ñào thực hiện). c) Hát xin hoa ñố chữ (hát ñối ñáp giữa các cô ñào và trai làng sở tại), d) Hát ñúm (hát ñối ñáp nam nữ), e) Hát giã cá (hay mó cá) ñược coi là bước kết thúc của một buổi Hát Xoan. ðây là tiết mục hát khá vui nhén, trong lúc này "cá" là các cô ñào khiến mọi người xô nhau ñuổi bắt, cũng có khi "cá" là các chàng trai... Hát Xoan còn có sự kết hợp với múa, như múa cài hoa, múa giác cá... (ðịa chí Vĩnh Phú, 1985). Vùng Hò Sông Mã Hò Sông Mã là loại hình dân ca tiêu biểu của Thanh hoá, nó gắn với lao ñộng trên sông nước dọc dòng sông Mã, một dòng sông lớn, con ñường huyết mạch giao thông ngược xuôi giữa miền ñông và miềm tây của tỉnh. Từ Cẩm Thuỷ xuôi về hạ lưu sông Mã có nhiều bến thuyền, gắn với từng bến như vậy là các sản phẩm hàng hoá ñịa phương, như bến Phong ý (Cẩm Phong) chuyên tập trung hàng lâm thổ sản, bến chợ Mầu Bãi (Cẩm Vân), nơi có nhiều ngô, sắn, ñậu; bến chợ Cẩm Sơn tại huyện lỵ Cẩm Thuỷ có nhiều hàng nông, lâm, thuỷ sản... Hàng hoá theo Sông Mã về hạ lưu cùng với nhiều bến chợ nổi tiếng : Hoàng ðại, Nguyệt Viên, bến Chù Gia, Bến Bông, Bồng Báo, Bến Chiếu... cách nhau trên dưới 2 km tiếp nhận hàng lâm thổ sản trên miền núi chuyển về và tập kết
  11. ðặc trưng vùng trong một số hiện tượng văn hóa 391 hàng thủ công, thuốc lào, cá mắm, cá khô ngược sông Mã lên miền thượng. Những con thuyền chuyên chở hàng hoá khá lớn, có thể trọng tải từ 5 - 20 tấn hàng, thuyền to có thể chở ñược gần trăm người. ðiều khiển ñò dọc là những trai ñò (còn gọi là hóp ñò), là những người khoẻ mạnh, giầu kinh nghiệm sông nước. Chính trong môi truờng lao ñộng sông nước và mối quan hệ giữa trai ñò và khách buôn, ñã nảy sinh một loại hình nghệ thuật ñộc ñáo, ñó là Hò Sông Mã. ðúng hơn, Hò Sông Mã là hệ thống các làn ñiệu hò, gồm : - Hò rời bến, còn gọi là Hò mời khách. Lúc này thuyền ñang neo ở bến, trai ñò hò mời khách lên thuyền của mình : "Thuyền tôi ván táu sập lim ðôi mạn săng lẻ lại có con chim phượng hoàng Tiện ñây mời cả bạn hàng Rửa chân cho sạch vào khoang ta ngồi" - Hò ñò ngược(sắng ñò ngược, hò chống sào), ñó là lúc ñò phải ngược dòng vượt lên, nhất là khi không thuận gió, các trai ñò vừa chống sào ñẩy thuyền lên vừa hò ñể lấy nhịp, thêm sức: "Sóng to thì mặc sóng to Ta ñẩy con ñò quyết vượt sóng lên" - Hò ñò xuôi, lúc thuyền từ thượng nguồn theo dòng nước chảy xuôi về bến, lúc này các trai ñò nhàn nhã cùng khách hàng ngắm cảnh ñôi bờ và cùng cất lên ñiệu hò ñò xuôi. ðây cũng là giai ñiệu chính của hò Sông Mã, mang nặng tính trữ tình : "Anh ñây tài tử giai nhân" "Vì tình nên phải xuất thân giang hồ Nói ñây có chị nằm ñò Mận xanh ăn vậy, ñừng chờ ñào non"
  12. 392 Ngô ðức Thịnh - Hò mắc cạn là lóc con thuyền mắc vào ñá ngầm, bãi cát, lúc ñó các trai ñò phải ngâm mình xuống nước dùng vai vác thuyền ñẩy ñi ñể thoát khỏi nơi mắc cạn. ðiệu hò này cùng khớp theo nhịp ñể cộng hưởng sức mạnh của cả tập thể, lời hò có khi khá hóm hỉnh như ñể làm vơi ñi nỗi vất vả : "Thuyền anh ñà cạn lên ñây Mượn ñôi dải yếm làm dây kéo thuyền" - Hò cập bến, với nhịp ñiệu chậm rãi khoan thai, âm hưởng vui vẻ của những người ñi ñến nơi, về tới chốn, có pha chút buồn man mác của những trai ñò sắp xa các cô bạn hàng: "Bây giò thuyền lặng nước trong Thuyền ñà cập bến, mặc lòng nước trôi" (Hoàng Tiến, 2000) Vùng âm nhạc cồng chiêng Tây Nguyên Cồng chiêng là nhạc cụ dùng trong nghi lễ phổ biến ở nhiều tộc người ở nước ta và vùng ðông Nam Á, tuy nhiên, sử ñụng chiêng một cách phổ biến và nhất là theo dàn thì ở nước ta hiện nay chỉ còn thấy ở Tây Nguyên là tiêu biểu và nổi bật. Có thể nói, trong các tộc người bản ñịa ở vùng này, hầu như tộc người nào cũng sử dụng chiêng trong sinh hoạt nghi lễ mang tính cộng ñồng làng buôn hay gia ñình. Trong từng buôn làng số gia ñình có chiêng chiếm số ñông, gia ñình khá giả có tới 2 - 3 bộ, vì ñó không chỉ là nhạc cụ, mà còn là biểu tượng của sự giầu có, của uy tín và quyền lực nữa. Những thập kỷ qua, do có những quan niệm ngộ nhận về các di sản văn hoá cổ truyền, nên nhiều làng buôn, gia ñình mang bán cồng chiêng cho con buôn hay những người khác tộc, có khi với giá như là thức kim loại phế thải, gây ra những mất mát lớn về hiện vật văn hoá quý báu này. Tuy nhiên, hiện tại, theo thống kê của các tỉnh Tây Nguyên, mỗi tỉnh vẫn còn có hàng ngàn bộ cồng chiêng. Các tộc người Tây Nguyên là chủ sở hữu chính của cồng chiêng, tuy
  13. ðặc trưng vùng trong một số hiện tượng văn hóa 393 nhiên, họ lại không phải người chế tạo loại nhạc cụ này. Từ trước tới nay, các tộc người Tây Nguyên phải mua cồng chiêng của người Kinh, người Lào và người Khơ me. Tuy nhiên, trong mỗi buôn làng như vậy ñều có người có khả năng "lên dây" các bộ chiêng bán thành phẩm ñó (Pô ching) thành các bộ chiêng mang âm sắc riêng của mỗi tộc người. Ngoài ra, trong cách ghép các chiêng thành từng bộ, cũng như cách thức ñánh (ngồi, ñứng, vừa ñi vừa ñánh...), phong tục sử dụng trong nghi lễ thì mỗi tộc người cũng có những sắc thái khác nhau. Trước kia, cồng chiêng Tây Nguyên ñược sử dụng chủ yếu trong môi trường nghi lễ, như cúng thần linh, lễ bỏ mả, các dip lễ hội của cộng ñồng, hầu như không có tiếng chiêng nào cất lên mà không gắn với một dịp nghi lễ nào ñó. Trong quan niệm dân gian các tộc người ở ñây, chiêng là thứ âm nhạc nghi lễ, dành cho thần linh. Tuy nhiên, ngày nay, cồng chiêng ñang trong quá trình "thế tục" hoá, nhiều khi dùng trong các dịp ñón khách và sinh hoạt cộng ñồng không trong môi trường lễ hội. Vùng tín ngưỡng, nghi lễ và lễ hội Nhà mồ và nghi lễ bỏ mả Tây Nguyên Nhà mồ và nghi lễ bỏ mả là hai hiện tượng gắn bó với nhau liên quan tới thế giới người chết và quan hệ giữa người chết và người sống, một hiện tượng văn hoá mang ñặc trưng tiêu biểu của văn hoá các tộc người Tây Nguyên. ðây cũng là mét "hiện tượng văn hoá dân gian tổng thể", trên cái nền tín ngưỡng và thờ cúng người chết, ñã tích hợp nhiều hiện tượng văn hóa, như âm nhạc, hát, múa, lễ hội, phong tục, nghệ thuật kiến trúc, tạo hình, trang trí... Tín ngưỡng và nghi lễ này xuất phát từ một quan niệm khá nguyên thuỷ về linh hồn và mối quan hệ giữa thế giới người sống và người ñã chết. Theo quan niệm dân gian của các tộc người Tây Nguyên, con người sau khi chết thì linh hồn vẫn tồn tại. Tuy nhiên ở giai ñoạn ñầu, khi chưa làm lễ bỏ mả thì linh hồn vẫn lẩn khuất bên cạnh người sống, do vậy, hàng ngày người thân vẫn phải mang thức ăn ra mé cho người chết "ăn" và trò truyện, an ủi linh hồn người ñã chết. Trong thời gian ñó,
  14. 394 Ngô ðức Thịnh người sống phải chuẩn bị một nghi lễ ñể tiễn biệt linh hồn người chết về với tổ tiên. Sau khi ñã chuẩn bị xong cho nghi lễ tiễn biệt này, người ta tién hành dựng nhà mồ cho người ñã chết. Nghi lễ bỏ mả không phải làm thời gian nào cũng ñược, mà phải tiến hành vào tháng nông nhàn, từ sau khi thu hoạch ñến khi sắp bước vào vụ gieo cấy năm sau(khoảng tháng 12 ñến tháng 3 năm sau). ðó cũng là mùa cưới xin, mùa lễ hội... Sau khi làm lễ bỏ mả, thì linh hồn người chết mới rời khỏi thế giới người sống về với tổ tiên và qua nhiều lần biến hoá, linh hồn người chết trở về nhân gian ñầu thai vào thế hệ con cháu dứơi dạng một giọt sương ñậu trên lá. Do vậy, trong lễ thổi tai và ñặt tên cho ñứa trẻ mới sinh, có tục ñưa chiếc lá có giọt nước trước mắt ñứa bé và ñọc tên từng người từ tổ tiên, ông bà ñã mất, khi nào ñứa bé có cử ñộng nào ñó, chứng tỏ hồn tổ tiên ñã nhập vào ñứa trẻ và nó nhận cái tên của chính tổ tiên mình. Nhà mồ của Tây nguyên khá ña dạng, mỗi tộc người có những sắc thái riêng, tuy nhiên, nhà mồ của các tộc người bắc Tây Nguyên, như Gia rai, Ba na là ñiển hình hơn cả. Có thể nói người Tây Nguyên ñã dồn hết tâm sức, trình ñộ nghệ thuật vào việc xây dựng và trang trí nhà mồ, ñặc biệt là hệ thống tượng nhà mồ (Nguyễn Văn Kự, Lưu Hùng, 2002). Sau khi dùng xong nhà mồ, người ta tổ chức lễ bỏ mả, mét nghi lễ lớn và ñặc trưng nhất của các tộc người Tây Nguyên. Thực chất của lễ bỏ mả là nghi lễ tiễn biệt hồn người chết về với tổ tiên, ñể từ ñó theo vòng luân hồi ñầu thai trở lại trong thế hệ con cháu, ñảm bảo tính thống nhất của cộng ñồng gia tộc. Do vậy, có thể nói cộng ñồng trong tâm thức người Tây Nguyên không chỉ bao gồm những người ñang sống mà cả những người ñã chết. Trong lễ bỏ mả, ngoài những nghi lễ giành cho người chết, ta thấy một không khí sinh hoạt văn hoá nghệ thuật của cộng ñồng rất sôi ñộng, thể hiện qua ca hát, âm nhạc cồng chiêng, nhảy múa, ăn uống, giao tiếp giữa nam nữ..., tạo nên không khí vui nhén, không có chút gì buồn bã của nghi lễ tang ma. Vợ hay chồng người quá cố từ sau nghi lễ này có thể cởi bỏ mọi tang chế, ràng buộc với người chết ñể có thể ñi bước nữa. Ngôi nhà mồ vốn ñược trang trí ñẹp ñẽ cho lễ bỏ mả, từ nay sẽ không ai
  15. ðặc trưng vùng trong một số hiện tượng văn hóa 395 lai vãng, chăm non và vĩnh viễn thành phế tích mặc cho thời gian tàn phá. Vùng Then Việt Bắc Then là một hình thức tín ngưỡng dân gian của người Tày, Nùng ở các tỉnh Việt Bắc nước ta, như Lạng Sơn, Cao Bằng, Hà Giang, Tuyên Quang, Bắc Cạn, Thái Nguyên. Về bản chất và nguồn gốc, Then là sự kết hợp giữa tín ngưỡng nguyên thuỷ thờ nữ thần, thờ Mẫu với các hình thức ma thuật của ñạo giáo dân gian, tạo nên một hình thức shaman giáo mang nhiều sắc thái tộc người và ñịa phương. Trên nền lõi tín ngưỡng như vậy, Then tích hợp nhiều hình thức văn hoá - nghệ thuật, như hát, múa, nhạc, nghi lễ, lễ hội, tạo thành một hiện tượng văn hoá dân gian tổng thể khá ñộc ñáo. Có nhiều loại Then, như : - Then bói (bói chữa bệnh, bói tình yêu...) - Then giải hạn, cầu yên (cầu mẹ Biooc phù hộ cho trẻ nhỏ, giải hạn, nối số cho ngời già, Then chúc phóc, mừng thọ, gọi vía lạc, cầu tù - cầu con, Then chữa bệnh...). Loại Then này thường diễn ra vào dịp mùa xuân. - Then chúc tụng (mừng nhà mới, làm ăn phát ñạt, thăng quan tiến chức, mừng thọ...) loại Then này Ýt tính nghi thức, nặng về ca hát, vui chơi, ứng tác. Lẩu Then (Hội Then) tổ chức ở chính nhà của ông Then ñể dâng cúng tổ nghề Then vào dịp thường kỳ hàng năm và ñặc biệt là cấp sắc, nâng sắc cho các ông Then, bà Then. Trong các loại Then kể trên thì Then cấp sắc có quy mô và tiêu biểu hơn cả (Ngô ðức Thịnh, 2001). Làm Then chủ yếu là những phụ nữ, tuy nhiên ở một số nơi của người Tày cũng có cả Then là nam, gọi là Then giàng hay Then tậc (tức Then ñực). Cũng có nơi như ở Hà Giang, người ta lại chia Then thành hai loại, Then tính (dùng ñàn tính khi làm Then) và Then quạt (không dùng ñàn tính, mà dùng quạt và nhạc xóc). Cũng có những người ñề cập
  16. 396 Ngô ðức Thịnh tới các dòng Then, như dòng Then Lạng Sơn, dòng Then Cao Bằng, dòng Then Hà Giang..., tuy nhiên chưa có tác giả nào ñi sâu khai thác các khía cạnh khác nhau mang tính ñịa phương này của Then Việt Bắc (Mấy vấn ñề về Then Việt Bắc, 1975). Tín ngưỡng Then vừa là tín ngưỡng thờ thần tổ của các Ông Then, Bà Then, vừa là tín ngưỡng chữa bệnh, cầu may, trừ tà của quần chúng nhân dân, do vậy nó giữ vai trò quan trọng trong ñời sống tâm linh của nhân dân không chỉ trong xã hội truyền thống mà còn cả trong xã hội hiện nay nữa. Ngoài ra, ñể có thể chữa bệnh trừ tà, Then ñã dùng các hình thức nghệ thuật dân gian, như âm nhạc Then, hát Then, múa Then mang ñặc trưng dân tộc rõ nét. Âm nhạc Then, nhất là cây ñàn Tính (ñàn Then) là một cây ñàn thiêng, một nhạc cụ tiêu biểu nhất của người Tày, Nùng. Hát Then có nhiều làn ñiệu, do Bà Then hay Ông Then vừa tiến hành nghi lễ vừa hát. Còn các ñộng tác nhảy múa trong nghi lễ ñược coi như là sự hiện thân của thần linh hay là trạng thái giúp Bà Then có thể thoát hồn ñến với thần linh. Ngày nay, một số làn ñiệu Then cũng như cây ñàn Then ñã thoát ra ngoài môi trường tín ngưỡng, ñược các nghệ nhân dân gian ñặt lời và trình diễn mang nội dùng ñời thường, kể cả nội dung chính trị, xã hội mới, cạnh ñó Then nghi lễ vẫn tiếp tục ñời sống tín ngưỡng của nó và chiếm vị trí quan trọng trong ñời sống nhân dân. Như vậy, chúng tôi ñã trình bày một số vùng "thể loại" văn hoá, coi ñó như là những thể nghiệm. Cũng cần phải có sự phân biệt giữa vùng văn hoá và vùng "thể loại" văn hóa, ñó là hai lĩnh vực, hai phạm trù khác nhau, nhưng lại có mối quan hệ mật thiết. Trước nhất, phải nói rằng không phải lúc nào ranh giới của vùng văn hoá và vùng "thể loại" văn hoá cũng trùng khớp nhau, mà trong nhiều trường hợp chúng lệch pha với nhau. Tuy nhiên, nếu ranh giới hai loại vùng này cơ bản trùng hợp thì chứng tỏ vùng văn hoá ñó có sự thống nhất cao. Vùng văn hoá Tây nguyên là một trường hợp thể hiện sự trùng hợp cao ñó.
  17. ðặc trưng vùng trong một số hiện tượng văn hóa 397 Chương 15 Sự phân bố và mối quan hệ giữa các loại hình nhà ở cổ truyền Ngôi nhà của mỗi dân tộc nước ta, dù là nhà sàn hay nhà ñất, cũng ñều thuộc loại nhà làm bằng nguyên liệu tre, gỗ, lá, sẵn có ở mọi nơi và thích ứng với môi trường nóng Èm, nhiệt ñới gió mùa. Khác với nhà ở xứ lạnh, ngôi nhà của các dân tộc nước ta là "hệ thống mở", tạo nên sự thông thoáng tối ña giữa trong và ngoài. Kết cấu kỹ thuật là loại khung cột, (dùa trên hai yếu tố: cột +xà), phên vách có tác dụng ngăn không gian trong và ngoài nhà, mái thường cao, dốc, có tác dụng hạn chế nhiệt và bức xạ mặt trời. Kỹ thuật liên kết từ trình ñộ thấp như chạc, buộc, ngoãm ñến kỹ thuật cao ghép mộng. Không gian trong nhà ñược sử dụng thích hợp với cơ cấu gia ñình lớn hay nhỏ, cũng như các sinh hoạt văn hoá khác. Ngôi nhà là một môi trường tổng thể, trong ñó gắn bó mật thiết giữa môi trường tự nhiên, kỹ thuật, ñiều kiện sản xuất, ñặc ñiểm xã hội và văn hoá. Tuy nhiên, do tác ñộng của nhiều nhân tố, ñặc biết là yếu tố môi trường và sự giao lưu lâu ñời giữa các tộc người, thường mỗi vùng có kiểu nhà mang một số yếu tố riêng, phân biệt với kiểu nhà của các dân tộc ở vùng khác. I. Những ñặc trưng ñịa phương - tộc người của ngôi nhà cổ truyền 1. Nhà cửa ở Trường Sơn - Tây Nguyên. Nhà ở của các dân tộc ở ñây phần lớn là nhà sàn, chỉ có một vài nhóm ñịa phương ở nhà trệt (nhà nền ñất) hay mới chuyển từ nhà sàn xuống nhà ñất. Tuy các nhà dân tộc học ở Việt Nam không phải là người ñầu tiên nghiên cứu nhà cửa ở vùng Trường Sơn - Tây Nguyên, nhưng khi tiếp cận với vùng này, họ lại là người nhận ra ñặc trưng quan trọng bậc nhất của ngôi nhà ở ñây - nhà kết cấu khung cột không có vì kèo, lóc ñầu có
  18. 398 Ngô ðức Thịnh người gọi là nhà "vì cột" (gồm cột, xà), phân biệt với vì kèo (gồm cột, xà ngang và kèo). Thực ra, nếu hiểu vì là ñơn vị cơ bản cấu thành bộ khung cột, gồm cột, xà ngang (nếu là vì kèo thì có thêm kèo nữa), chúng liên kết với nhau thành vì tương ñối ñộc lập, thì nhà ở Trường Sơn - Tây Nguyên là nhà khung cột, không có vì, nghĩa là bộ khung ñứng vững qua liên kết cột - xà. Trong kết cấu kỹ thuật ở ñây, cột thường không liên kết trực tiếp với xà ngang, mà ñầu tiên, nó liên kết với xà dọc bằng ngoãm, sau ñó các xà ngang ñược gá lên thân xà dọc ở gần vị trí liên kết giữa cột và xà dọc. Do vậy, bộ khung nhà ở Trường Sơn - Tây Nguyên liên kết dọc là chính, là trung tâm liên kết cột với xà ngang, hợp thành liên kết ba chiều. Chính ñặc trưng này ñã quy ñịnh nhiều ñặc trưng khác, làm cho ngôi nhà mang sắc thái riêng ñộc ñáo. Do kết cấu bộ khung nhà không có kèo, nên giữa mái với khung nhà là 2 bộ phận riêng. Mái ñược làm riêng dưới ñất, rồi mang úp lên khung nhà. Khi cần di chuyển, người ta khiêng mái xuống trước, rồi mới tháo dỡ bộ khung rời ra. ðiều này hoàn toàn khác với loại nhà có vì kèo, trong ñó kèo vừa là bộ phận hợp thành vì của khung nhà, liên kết chặt với cột, xà, vừa là xương của khung mái. Do vậy, khung mái gắn với khung nhà thành một bộ phận không thể tách rời. ðây cũng có thể là một thích ứng môi trường, nơi bão gió thường xuyên ở ñồng bằng và ven biển. Còn ở Trường Sơn - Tây Nguyên thì hầu như không phải chống ñỡ với những trận bão như vậy, nên mái có thể liên kết với khung nhà bằng hình thức giáp lại với nhau. Chúng ta cũng có thể truy tìm căn nguyên của kết cấu này từ nguồn gốc lịch sử xa xưa của những cư dân trên sống trên thuyền. Bé khung nhà với hai hàng cột còng là ñặc trưng kết cấu kỹ thuật của nhà ở các dân tộc ở Trường Sơn - Tây Nguyên. Chính kết cấu này làm cho ngôi nhà ở ñây phát triển theo chiều dài. Khi tăng số hàng cột dọc sẽ làm cho ngôi nhà ñược dài thêm, có khi tới mấy trăm mét, thích hợp với cư trú theo kiểu công xã gia tộc, gia ñình lớn, công xã láng giềng trong một căn nhà. Ở một số tộc người và ñịa phương nhất là ở phía nam như người Chăm, Xtiêng, Khơ-me, người ta thấy có hình thức mở rộng chiều
  19. ðặc trưng vùng trong một số hiện tượng văn hóa 399 ngang nhà bằng hai hàng cột con ở hai bên, nhưng liên kết với hàng cột chính còn lỏng lẻo (không có quá giang giữa hai xà nách), vai trò chịu lực không ñáng kể 1. Cũng như mọi làng của các tộc người nói ngôn ngữ Môn -Khơ me tại nam và trung Tây Nguyên, buôn của cư dân Nam ðảo ñều không có nhà rông (nhà công cộng)2 mà mỗi nhà có một không gian nội thất kề cận với cửa chính, gọi là gah, (ñối với người Ê- ñê) hay mang mang (ñối với nhà dài Giarai Ayum Pa), ñó là nơi sinh hoạt cộng ñồng của các gia ñình trong nhà. Nhà chia thành nhiều buồng dành cho từng cặp vợ chồng và con cái họ, có bếp riêng. Mỗi nhà dài thường là nơi ở của một gia tộc mẫu hệ, do một người phụ nữ cao tuổi nhất ñứng ñầu. Nhà sàn của người Nam ðảo chỉ có hai mái. Mỗi mái hình thang cân, ñáy lớn ở phía trên. Hai ñầu mái nhô ra ở hai phía hồi, che một khoảng rộng của hai sân sàn. ðó cũng là phía cửa lên xuống của ngôi nhà. Xung quanh nhà thưng bằng phên vách, còn giữ lại dấu vết rõ rệt của kiểu vách thượng thách hạ thu3, mét kiều thưng vách tiêu biểu của cư dân Nam ðảo, mà ngày nay còn thấy phổ biến ở cư dân hải ñảo (Các loại hình nhà truyền thống của các dân tộc ðông Nam Á, ðông Á và Trung tâm Châu Á, 1979). Nhà cửa ở vùng núi phía tây Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam và bắc Tây Nguyên vẫn mang ñặc trưng cơ bản của Trường Sơn - Tây Nguyên, tuy không thật ñiển hình như ở khu vực trung tâm. Tại ñây cũng phổ biến loại nhà dài, bên cạnh ñó ñã xuất hiện nhiều ngôi nhà ngắn, bởi cơ cấu xã hội ñang hay ñã chuyển hẳn sang gia ñình phụ hệ. Nét nổi bật của nhà ở khu vực này là có trang trí "sừng nhà" trên hai ñầu nóc. Cửa 1 Trong nhiÒu n¨m gÇn ®©y, h×nh thøc më réng nµy còng rÊt phæ biÕn ë b¾c T©y Nguyªn. 2 Xin l−u ý ë ®©y lµ nh÷ng lµng Gia-rai t¹i b¾c T©y Nguyªn phæ biÕn cã nhµ r«ng (trõ nhãm Gia-rai Chor ë Cheo Reo) do tiÕp thu kiÕn tróc lµng cña ng−êi Ba-na vµ X¬-®¨ng sèng kÕ cËn. ë ®©y chóng t«i sÏ kh«ng bµn vÒ nhµ r«ng Néi dung ®ã xin dµnh cho mét c«ng tr×nh kh¸c. 3 KiÓu v¸ch nµy còng thÊy tån t¹i trong kiÕn tróc nhµ sµn ë téc ng−êi Hrª nãi ng«n ng÷ M«n - Kh¬-me ë miÒn T©y tØnh Qu¶ng Ng·i.
  20. 400 Ngô ðức Thịnh chính của mỗi nhà ñều ñều mở vào giữa vách dưới mái tiền, tuy hai ñầu hồi vẫn mở lối ñi phụ. Nhà ở bắc Tây Nguyên phổ biến là nhà có hai mái hình chữ nhật; trong khi nhà của các tộc người ở bắc Trường Sơn lại phổ biến là nhà 4 mái và rìa mái hai hồi thường ñược kiến trúc theo hình khum mai rùa. Vùng nam Tây Nguyên, nơi sinh sống của các dân tộc Môn - Khơ-me nam ðông Dương (Mnông, Mạ, Xtiêng, Chơ-ro) và một vài nhóm tộc người Nam ðảo (Ra-glai, Chu-ru). Nhà cửa của ñồng bào ở ñây cơ bản vẫn dùa trên kết cấu của bộ khung cột, không có vì kèo, nhưng ñã có những biến dạng, do nhu cầu của việc mở rộng lòng nhà như xuất hiện hai hàng cột bên (cột phụ) ở vị trí hai hàng vách dọc1. ðặc ñiểm này ñã làm phân tán lực của mái ñè trên 2 hàng xà dọc. Bởi vậy nó không ñòi hỏi sự vững chắc lắm của 2 cây xà ñầu cột của những ngôi nhà ở miền trung Tây Nguyên. Hai hàng xà ñầu cột duy nhất này trong bé khung nhà ở ñây ñã phát triển lên bằng cách thu hẹp khoảng cách giữa chúng ñể ñứng vào vị trí cây xà thượng2 trong các ngôi nhà có vì kèo ở ñồng bằng. ðương nhiên là hàng xà ñầu cột ở ñây cũng ñồng thời làm chức năng làm cây ñòn tay ñỡ dưới mái, ñiển hình cho loại nhà này là những ngôi nhà của người Mnông (trừ nhóm Mnông Rlâm) ở nam ðắc Lắc và người Mạ, Cơ-ho ở Lâm ðồng; người Xtiêng, Chơ-ro ở miền ñông Nam Bộ. Ngoài biến dạng nói trên, bộ khung nhà ở vùng này, ñôi nơi cũng ñã xuất hiện hàng cột chống nóc (cột giữa), hay cột trèn, tạo thành kiểu nhà ba hàng cột. Những cây "cột con"ở ñây hầu như không liên kết với hai hàng cột chính bằng quá giang hay xà nách. Kết cấu này thường thấy kết cấu ở hai hàng cột ñầu hồi trong một số nhà của người 1 Thùc ra ë miÒn Nam T©y Nguyªn, nh÷ng hµng "cét con" nµy trong c¸c bé khung nhµ d©n gian míi chØ ®ang trªn ®−êng x¸c lËp chøc n¨ng, v× rÊt phæ biÕn nh÷ng c©y cét nµy võa cïng lo¹i víi nh÷ng c©y ®ì hµng v¸ch cäc, còng chÝnh lµ nh÷ng c©y ®ì hµng v¸ch Êy. §ã lµ hiÖn t−îng c©y ®ì v¸ch ®ang trë thµnh "cét con". Tr¸i l¹i, trong khung nhµ gianh tre ë ®ång b»ng ng−êi ViÖt, nh÷ng c©y cét con th−êng kiªm nhiÖm chøc n¨ng lµ c©y ®ì... chÝnh trong hµng c©y cét v¸ch. 2 Xµ th−îng: Xµ däc trªn ®Çu cét c¸i trong c¸c bé khung nhµ cã v× kÌo phæ biÕn ë ®ång b»ng vµ trung du ng−êi ViÖt.
nguon tai.lieu . vn